Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong hoạt động xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 100 trang )

C
N N
C SƢ P
M
KHOA TÂM LÝ – ÁO DỤC

K ÓA LUẬN TỐT N

ỆP

C

Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong hoạt
động xét xử tại Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Nam

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Minh Tân
Chuyên ngành: Tâm lý Giáo dục
Ngƣời hƣớng dẫn : Phạm Thị Mơ
Đà Nẵng, tháng 5/ 2013


A.PHẦN MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay tình trạng phạm tội ở nước ta và cả trên thế giới đang ngày càng gia tăng,
không chỉ về mặt số lượng mà cả về mặt tính chất của vụ án, càng nghiêm trọng hơn là
làm nguy hại đến tính mạng của nhân dân, tiền bạc của nhà nước, vi phạm đạo đức, đánh
mất tính nhân đạo của con người. Việc truy tố trách nhiệm hình sự của tội phạm nhằm xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đặt ra một nhiệm vụ vô cùng lớn lao cho cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và ngành Tòa án. Bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra quyết định
xét xử, điều đó có nghĩa là khi một cơng dân đã thực hiện (hoặc bị cho là đã thực hiện)
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ cho xã hội được luật hình sự


bảo vệ, bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử về vụ án hình sự.
Những biểu hiện của bị cáo tại phiên tòa phần lớn phụ thuộc vào các yếu tố như phẩm
chất tâm lý của bị cáo, thế giới quan của bị cáo, thái độ của bị cáo đối với việc bị buộc tội,
sự đánh giá về hành vi phạm tội của bị cáo, kinh nghiệm tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố
tụng bị cáo. Vì vậy việc tìm hiểu thái độ của bị cáo sẽ góp phần lớn cho thành công của
vụ án. Được biệt là chú ý là phải đánh giá được chính xác thái độ của bị cáo, từ đó sẽ có
biện pháp giáo dục, răng đe hợp lý tại Tịa và trong q trình cải tạo.
Những năm gần đây tình trạng phạm tội của tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và diễn
biến tâm lý ngày càng phức tạp vượt xa quy luật cũ. Khi đối mặt với thẩm phán tại tòa
chúng cũng tỏ thái độ rất khác với dự định, với suy nghĩ của Hội đồng xét xử, của những
người tham gia theo dõi xử án. Bị cáo gan lì hơn trước tịa, thách thức cả Hội đồng xét
xử,… đã đặt ra câu hỏi cho rất nhiều người: nguyên nhân là vì đâu? Thái độ của bị cáo tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật này.
Đây là vấn đề nhức nhối cho tồn xã hội, nó làm cản trở sự phát triển của xã hội. Vì
vậy cả xã hội và những cơ quan chuyên trách cần có những biện pháp để tìm hiểu thái độ
của bị cáo nhằm có được những lời khai thành khẩn của bị cáotrước tòa và giáo dục được
bị cáonhận thức về hành vi phạm tộicủa mình và khơng tái phạm. Muốn làm được những


điều đó thì cần phải tìm hiểu ngun nhân của việc phạm tội và những biểu hiện, cách thể
hiện thái độ của bị cáo trước tịa để có biện pháp thích hợp.
Đó là lý do mà tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thái độ của bị cáo với hành vi phạm
tội của mình trong hoạt động xét xử tại Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thái độ của bị cáo trước tịa đối với hành vi phạm tội của mình tại Tịa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những biện pháp nhằm nhận diện được thái độ tiêu cực của bị cáo và giúp bị
cáo thay đổi thái độ trở nên tích cực trong hoạt động xét xử.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận.

- Quan sát những biểu hiện về thái độ của bị cáo tại tòa trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những biện pháp tâm lý áp dụng đối với bị cáo để hạn chế tình trạng thái độ
tiêu cực đồng thời giúp quá trình xét xử được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng.
4.

ối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong
hoạt động xét xử tại Tịa án.
4.2. Khách thể nghiên cứu: 300 bị cáo trong hồ sơ lưu trữ được xét xử tại Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Nam.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Thái độ của 300 bị cáo đối với hành vi phạm tội của mình trong hoạt động xét xử tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam trong hai năm 2012 – 2013.
- Khơng gian: Phịng xử án hình sự và phịng lưu trữ hồ sơ của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Thời gian: Đề tài này được tiến hành nghiên cứu từ tháng 1/2013 đến 5/2013.


5. Giả thuyết khoa học
Nhìn chung đa số bị cáo đã tỏ thái độ đúng đắn đối với hành vi phạm tội của mình
trước tịa. Tuy nhiên, do nhiều ngun nhân khác nhau nên một số bị cáo thể hiện thái độ
tiêu cực với hành vi phạm tội của mình. Nhưng trong quá trình xử án nhờ nhận được sự
giáo dục của Hội đồng xét xử mà rất nhiều bị cáo đã thay đổi thái độ từ tiêu cực sang tích
cực.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp lý thuyết
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp

- Phương pháp phân loại
- Phương pháp hệ thống hóa
- Phương pháp khái quát hóa
6.2. Nhóm phương pháp thực tiễn
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trò chuyện cùng với chuyên gia trong công tác lấy lời khai
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê tốn học
Trong đó phương pháp nghiên cứu hồ sơ và phương pháp quan sát là những phương
pháp đóng vai trị chủ yếu trong quá trình nghiên cứu đề tài này.


A. PHẦN NỘI DUNG
C ƢƠN

. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA Ề TÀI

1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo trong phiên tịa
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo ở nước ngoài
Trên thực tế cả ở nước ngoài và trong nước các cơng trình nghiên cứu về thái độ của
bị cáo tại phiên tịa rất ít, phần lớn thái độ của bị cáo chỉ là một phần nhỏ trong các cơng
trình nghiên cứu khác. Trong các cơng trình đó có thể kể đến một số cơng trình sau:
Atonhia.Iu.I,Enhikev.M.I,Ieminov.V.E, Tâm học tội phạm và điều tra tội phạm, Nxb
Pháp lý Matscơva, 1996 (bằng tiếng Nga); Trupharovski.Iu.V, Tâm lý học pháp lý, Nxb
Nhà nước và Pháp luật, Mastcơva, 1997 (tiếng Nga); Vaxilex.V.L, Tâm lý học pháp lý,
Matscơva, 1997 (tiếng Nga); Strogovitra.M.X, Những vấn đề về đạo đức tư pháp, Nxb
khoa học Matscơva, 1974 (tiếng Nga),… Tất cả các đề tài trên chỉ nghiên cứu về tội phạm
là chính, nhưng trong đó cũng có một phần về việc xét xử bị cáo tại tòa và những phương
pháp để lấy lời khai của bị cáo làm sao cho thuận lợi có được sự hợp tác của bị cáo.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo ở trong nước

Hiện nay có rất ít cơng trình nghiên cứu riêng về thái độ (TĐ) của bị cáo (BC) trong
Hoạt động xét xử tại tòa, hầu hết những nghiên cứu về TĐ chỉ nằm trong một phần nhỏ
của các cơng trình nghiên cứu về tội phạm, bị can, BC. Ta có thể nhận thấy trong một số
cơng trình sau: Trương Am (2001), Tác động tâm lý trong hoạt động điều tra hình sự,
Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và
phịng ngừa tội phạm, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội; Hồ Ngọc Hải, Vũ Dũng (1993),
Các phương pháp của tâm lý học xã hội, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội; Trương Ngơn
(1995), Giáo trình tâm lý pháp lý, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân; Đặng Hồi Loan,
Nguyễn Thanh Nga, Tâm lý học pháp lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; Th.S Chu Liên
Anh và Th.S Dương Thị Loan, Giáo trình tâm lý học tư pháp, Nxb giáo dục Việt Nam;…
Các đề tài này nghiên cứu phần lớn chỉ nghiên cứu về tội phạm và BC dưới góc độ luật
học và xã hội học.


Nhìn chung, các cơng trình khoa học này tiếp cận nghiên cứu vấn đề tội phạm và bị
can, BC dưới nhiều góc độ, phương diện, cấp độ khác nhau. Các cơng trình trên đã đánh
giá được thực trạng tội phạm gây ra ở nước ta ở nhiều khía cạnh khác nhau, góc độ và địa
bàn khác nhau và đã đưa ra được giải pháp phịng ngừa chung cho tồn xã hội. Đưa ra
được những biện pháp để lấy lời khai BC một cách nhanh chóng, để BC thành khẩn khai
báo trước tịa.
Tính đến thời điểm này chưa có đề tài nào nghiên cứu về TĐ của BC đối với hành vi
phạm tội (HVPT) của mình trong hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
(TANDTQN). Trong đề tài này chúng tôi tiếp cận nghiên cứu BC dưới góc độ tâm lý học
để tìm ra được những góc khuất tâm lý của loại tội phạm này. Từ đó đưa ra các giải pháp
tâm lý nhằm phòng ngừa, hạn chế thực trạng này và đưa ra những biện pháp nhằm giúp
q trình xử án được nhanh chóng, lấy được sự thành khẩn của BC.
1.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến nội dung nghiên cứu
1.2.1. Thái độ
1.2.1.1. Khái niệm về thái độ
TĐ là một hiện tượng tâm lý được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học xã hội, ngay từ

năm 1935 trong “sổ tay tâm lý học xã hội” Allport đã cho rằng “TĐ có lẽ là khái niệm
phân biệt nhất và quan trọng nhất trong tâm lý học hiện đại xã hội Mỹ”. Nhiều nhà khoa
học đã định nghĩa TĐ xã hội thực tế là khoa học nghiên cứu các TĐ. Có nhiều người cho
rằng quan điểm đó là thái quá. Nhưng thực tế mấy chục năm qua đã chứng minh rằng
tuyên bố của Allport có giá trị dự đoán. Năm mươi năm sau, năm 1985 trong cuốn “sổ tay
tâm lý học xã hội” của tác giả Kiliam McGuire, ông đã tổng kết rằng “TĐ và sự thay đổi
TĐ vẫn là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội”.
Người đầu tiên sử dụng khái niệm TĐ như một đặc tính quan trọng của một vấn đề là
Thomas và Znanicki – hai nhà nghiên cứu Mỹ. Trong những nghiên cứu của mình về TĐ
hai ơng cho rằng: TĐ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị.
Allport lại coi nhân cách như là một tổ chức bên trong cơ động, một cái tơi siêu hình
nào đó bao gồm các mục đích, các TĐ được hiện thực hoá bằng hành vi và tư duy. Năm


1935 ông định nghĩa: “TĐ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ
chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động trong phản
ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối quan hệ”. “TĐ là
cách phản ứng của một người theo cách có lợi hoặc bất lợi với các đối tượng và tình
huống mà người đó gặp phải”. Định nghĩa này bao hàm cả nghĩa TĐ là trạng thái sẵn sàng
của tâm thần kinh cho hoạt động tâm lý hoặc sinh lý, TĐ chuẩn bị, định hướng cho cá
nhân với một hoạt động nào đó và TĐ điều chỉnh hành vi của con người.
Tiếp cận dưới quan điểm của tâm lý học nhân cách Guilford (1964) đã cho rằng nhân
cách là cấu trúc độc đáo, có cấu trúc gồm 7 khía cạnh (nhu cầu, hứng thú, khí chất năng
lực, giải phẫu hình thành, TĐ) để đưa ra khái niệm về TĐ. Theo ông: TĐ là những cử chỉ,
phong thái, ý nghĩ liên quan đến những hoàn cảnh xã hội. Ở khái niệm này ông chỉ ra rằng
TĐ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với những hồn cảnh xã hội cụ thể.
Cũng tiếp cận theo quan điểm này thì Miaxisev lại cho rằng: TĐ là nịng cốt của nhân
cách, là điều kiện khách quan bên trong của hệ thống các hành vi con người, và là mặt
quan trọng biểu hiện rõ nhất trong nhân cách con người.
R.Martens lại cho rằng “TĐ là xu hướng thường xuyên đối với tình huống xã hội, nó

biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động. TĐ của con người có mối quan
hệ chặt chẽ với hành vi bởi thế được xác định bởi tính thống nhất bên trong. Quan điểm
này khẳng định TĐ là một cấu trúc có hệ thống, TĐ thể hiện ý nghĩ, xúc cảm bên trong
con người mà được biểu hiện thông qua hành vi. Và quan điểm của Martens giống với
quan điểm của Guilford về TĐ.
Hfillmore thì định nghĩa: TĐ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với
đối tượng hay các đối tượng hay các ký hiệu trong môi trường TĐ là sự định hướng của
cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của mơi trường và là cấu trúc có tính cơ động.
Theo Newcome thì TĐ của cá nhân đối với một khách thể nào đó là: “Thiên hướng
hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan”. Đó là sự sẵn
sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và có một TĐ nhất định về một khách
thể nào đó hay một nhóm nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên trong việc quy định sự


sẵn sàng phản ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta. Tuy nhiên định nghĩa này
chưa bao hàm một thực tế rằng trong nhiều trường hợp quá trình này diễn ra phức tạp hơn
nhiều.
Tác giả Philipkotkie thì cho rằng: TĐ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể được hình
thành trên cơ sở tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay một ý tưởng nào đó
quy định phương hướng hành động. Định nghĩa này chỉ ra được mặt đánh giá của cá nhân
với một sự vật hiện tượng nào đó trong cuộc sống, chính sự đánh giá là tốt hay xấu này
quy định TĐ của cá nhân đối với sự vật hiện tượng đó.
Như vậy các định nghĩa trên của các nhà tâm lý học được diễn đạt bằng nhiều hình
thức khác nhau nhưng đều có chung một điểm là nghiên cứu TĐ theo quan điểm chức
năng TĐ định hướng hành vi ứng xử các vấn đề xã hội.
Ở Việt Nam cũng có những tác giả và tài liệu đề cập đến vấn đề TĐ.
Trong Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: “TĐ là tổng thể nói
chung những biểu hiện ra ngồi (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm
đối với ai hoặc sự kiện nào đó trước một vấn đề.
Theo từ điển Tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện thì trước một đối tượng nhất định,

nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay
chống đối như đã có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về vấn đề thì
TĐ gắn liền với tâm thế.
Trong từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) thì lại cho rằng: TĐ là những phản ứng
tức thì tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ
cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.
Trong Tâm lý học xã hội TĐ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng lại tình
huống gắn liền với một cá nhân đó. Và đối với một số nhà tâm lý học Việt Nam TĐ
thường là biểu hiện của tính cách. TĐ chính là phản ứng của con người trước thực tiễn
mơi trường sống, TĐ đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực tuỳ thuộc vào nhận thức cũng
như xúc cảm của cá nhân trước sự việc đó như thế nào.


Qua đó ta thấy cả trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều các định nghĩa khác nhau
về TĐ, mỗi định nghĩa thường tiếp cận dưới một góc độ nhưng đều có những điểm chung
nhất định về khái niệm TĐ. Qua việc phân tích khái niệm của các tác giả về TĐ, nắm bắt
được những nội hàm cơ bản trong khái niệm TĐ, đề tài lựa chọn khái niệm TĐ trong từ
điển Tâm lý học do Nguyễn Văn Lũy – Lê Quang Sơn (đồng chủ biên) thì cho rằng: “TĐ
là khuynh hướng đáp ứng bằng tán thành hay không tán thành đối với một sự vật, con
người, thiết chế hay sự kiện. Con người có thể biểu lộ TĐ với mức khác nhau đối với bản
thân và với bất cứ lĩnh vực nào của môi trường xung quanh. Những TĐ tích cực, được
chia sẽ rộng rãi trong cộng đồng đối với những mục tiêu trừu tượng (như tự do, trung
thực, sự an toàn) được gọi là các giá trị (value)”.
1.2.1.2. Lý thuyết về thái độ
- Thuyết hành động hợp lý:
Ajzen và Fishbein phát triển lý thuyết hành động hợp lý trên cơ sở giả định rằng con
nguời thưòng hành xử theo cách nhạy cảm, tính đến thơng tin và TĐ của mình trong hành
động.
Trong mơ tả này xuất phát từ sự kết hợp hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là TĐ của cá
nhân trái với hành vi hay những quan điểm của họ. Thứ hai là nhận thức áp lực xã hội của

cá nhân phải thực hiện hay không thực hiện hành động, điều này gọi là tiêu chuẩn chủ
quan. Có nghĩa là chúng ta chú ý thực hiện một hành vi nếu chúng ta đánh giá nó tích cực
và thấy rằng hành vi đó đã được xã hội chấp nhận, ủng hộ, chúng ta thuờng hành động
theo những chuẩn mực, tiêu chuản thuờng có trong xã hội. Những điều này dựa vào kinh
nghiệm của bản thân truớc một sự vật hiện tượng nào đó, trên cơ sở kinh nghiêm gắn kết
với hành vi của chúng ta theo một tình huống cụ thể, từ đó đánh giá hành vi đó là hợp lý
hay khơng hợp lý, khi đó sẽ hình thành nên TĐ của cá nhân.
Những tiêu chuẩn xã hội này chủ yếu nằm trong một nhóm xã hội cụ thể. Và khi cá
nhân tham gia vào một nhóm xã hội nào đó sẽ cũng thực hiện theo những tiêu chuẩn,
chuẩn mực này.
- Thuyết cân bằng của Heider:


Ông cho rằng tìm hiểu nhận thức hay quan điểm của con người về các mối quan hệ
của họ là tiền đề để tìm hiểu các hành vi xã hội của họ. Theo ơng con nguời ln có mong
muốn TĐ của mình sẽ ln nhất qn với nhau, do đó nếu nó khơng nhất qn sẽ gây nên
tình trạng mất cân bằng nhận thức, điều này có thể dẫn đến sự mệt mỏi, căng thẳng cho
con nguời, vì vậy họ sẽ ln có xu huớng tìm kiếm sự cân bằng trong TĐ.
Heider áp dụng nguyên tắc cân bằng bộ đôi và bộ ba trong việc tìm hiểu các mối quan
hệ cá nhân và tìm hiểu TĐ. Mối quan hệ dễ chịu giữa hai nguời là cân bằng bộ đôi, nếu
mối quan hệ mất cân bằng sẽ gây nên sự hiểu lầm, căng thẳng và có thể phá vỡ mối quan
hệ. Ông cho rằng căng thẳng tạo nên bộ ba, mất cân bằng cũng tạo ra áp lực thay đổi sao
cho chúng ta lấy lại sự cân bằng nhận thức. Những điều này liên quan đến những tình
huống trực tiếp và cụ thể khác nhau.
Sau này, các nhà nghiên cứu thường có cái nhìn tích cực hơn so với bộ ba và đánh giá
rằng con người chúng ta thường có TĐ tích cực nhiều hơn là tiêu cực. Chúng ta thấy bộ
ba có TĐ tích cực giữa một cá nhân với một đối tượng TĐ dễ học và dễ nhớ hơn.
- Thuyết đồng hoá tương phản:
Sherif và Hovland cho rằng con người thường sử dụng kinh nghiệm cá nhân của riêng
mình như mọt chuẩn đánh giá các phát biểu khác. Vì thế nếu cá nhân đó nhận thấy rằng

việc đó là có thể chấp nhận được sẽ đánh giá có lợi hơn và tích cực hơn giống với suy
nghĩ của họ so với thang điểm chung. Điều này gọi là tác dụng đồng hố.
Từ đó hai ơng dự đốn rằng có tác dụng tương phản tức là ta sẽ có đánh giá và phát
biểu mang tính cực đoan tiêu cực hơn nếu nó trái với nhìn nhận kinh nghiệm của cá nhân
ta. Và nếu những phát biểu này mang tính kinh nghiệm cá nhân trong một giới hạn nhất
định nào đó thì ta hồn tồn có thể thay đổi TĐ đó được, và nó nằm trong một phạm vi
gọi là phạm vi chấp nhận được. Con người cũng sẽ dễ dàng thay đổi những quan niệm của
mình về một sự vật hiện tượng nào đó để những phát biểu và hành vi của mình trở nên
phù hợp hơn so với người khác và so với những chuẩn mực chung. TĐ này dễ dàng thay
đổi nếu những quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá của họ về một điều gì đó là không
được chắc chắn lắm.


Đôi khi phát biểu rất cực đoan tạo ra tác dụng mà Sherif và Hovland gọi là tác động
dội lại. Sự tương phản được hình thành do sự khác nhau giữa phát biểu và giá trị riêng của
cá nhân mạnh đến mức tạo ra sự thay đổi hoàn toàn trái ngược với TĐ theo chủ ý. Mặc dù
hầu hết nhũng tác động dội lại là không phổ biến, chúng ta thường có những khuynh
hướng bị những phát biểu rơi vào phạm vi chấp nhận tác động vì chúng ta đang đồng hóa
chúng dễ hơn.
1.2.1.3. Đặc điểm của thái độ
Năm 1957 G.W.Allport đã rút ra 5 đặc điểm của TĐ:
- TĐ là trạng thái tinh thần của hệ thần kinh
- TĐ là sự sẵn sàng phản ứng
- TĐ là trạng thái có tổ chức
- TĐ đựoc hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ
- TĐ điều khiển và ảnh hưởng tới hành vi
Ngồi ra TĐ cịn có những đặc điểm sau:
- Tính phân cực: Bất kỳ một TĐ nào cũng được biểu hiện bằng sự đồng tình hay phản
đối, thích hay khơng thich, tích cực hay khơng tích cực.
- Tính ổn định: Thể hiện ở thời gian tồn tại của TĐ, mối quan hệ giữa ba thành phần

của TĐ: nhận thức – tình cảm – hành vi. Hệ thống TĐ đã được hình thành ở người trưởng
thành thì đó là thuộc tính tâm lý khá bền vững.
- Cường độ: Là sự thể hiện mạnh hay yếu của TĐ.
- Mức độ: TĐ thể hiện nhiều hay ít, cùng một tính chất nhưng mức độ biểu hiện có
thể là khơng giống nhau.
Như vậy trong những tình huống, hồn cảnh, điều kiện cụ thể thì TĐ tồn tại như một
trạng thái, một tâm thế chủ quan, chi phối sự định hướng, quyết định hành vi phản ứng
của cá nhân được biểu hiện ở hành vi, cử chỉ,ngơn ngữ ở bên ngồi hay những cảm xúc
bên trong cá nhân. Vì vậy chúng ta phải có cái nhìn vừa khoa học, vừa linh hoạt khi
nghiên cứu và đánh giá về TĐ của con người.


1.2.1.4. Chức năng của thái độ
Tổng kết ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể thấy TĐ xã hội có một ssố chức năng
chủ yếu sau:
- Chức năng thích nghi: Tuỳ vào những trường hợp cụ thể mà con người thay đổi TĐ
do tác động của môi trường xung quanh để phù hợp hơn.
- Chức năng nhận thức: Nhờ có TĐ mà chủ thể biết cách phải ứng xử như thế nào
trong các tình huống khác nhau một cách đơn giản, tiết kiệm thời gian sức lực năng lực
thần kinh.
- Chức năng biểu hiện: TĐ là phương tiện giúp con người biểu lộ cảm xúc, đánh giá,
hoạt động và thể hiện giá trị nhân cách của mình.
- Chức năng bảo vệ: TĐ giúp con người tìm cách tự bào chữa, tìm lý do giải thích,
hợp lý hố hành vi của mình, giảm bớt xung đột nội tâm.
1.2.1.5. Cấu trúc của thái độ
Với những quan điểm và định nghĩa khác nhau về TĐ thì cũng có những quan điểm
khác nhau về cấu trúc của TĐ. Có người cho rằng: cấu trúc trong của TĐ bao gồm những
thuộc tính tạo nên mặt nội dung của TĐ như: nhu cầu, hứng thú, niềm tin, tình cảm, kinh
nghiệm… Cấu trúc bên ngồi bao gồm những yếu tố tạo nên phương thức biểu hiện của
TĐ như: khí chất, thói quen, trạng thái, tâm sinh lý… cả nội dung và phương thức thể

hiện của TĐ chỉ được bộc lộ khi được biểu hiện cụ thể ra bên ngồi bằng hành vi, cử chỉ
lời nói, nét mặt.
Tuy nhiên phần lớn các nhà tâm lý học đều nhất trí với cấu trúc 3 thành phần của TĐ
do Smith (1942) đưa ra. Theo ông TĐ bao gồm nhận thức, tình cảm và hành vi của cá
nhân với đối tượng.
1.2.1.5.1. Nhận thức
Nhận thức là kiến thức của cá nhân về đối tượng của TĐ, cho dù kiến thức đó có
tương ứng hay khơng tương ứng, tức là có đúng hay không.
Nhận thức là yếu tố tiền đề, đầu tiên của TĐ, khi đứng trước một đối tượng nào đó
người ta sẽ khơng có TĐ nếu như khơng biết gì về đối tượng đó. Con người có thể đạt đến


những mức độ nhận thức khác nhau: Mức độ thấp là nhận thức cảm tính bao gồm cảm
giác, tri giác. Ở mức độ cao là nhận thức lý tính bao gồm tư duy, tưởng tượng. Hai mức
độ nay có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng
một hoạt động thống nhất của con người.
Nhận thức trong cấu trúc của TĐ thể hiện chủ yếu ở những quan điểm, những đánh
giá của chủ thể về đối tượng của TĐ. Đặc biệt một trong những yếu tố quan trọng nhất
trong nhận thức của TĐ là quan điểm và đánh giá về mối quan hệ mà đối tượng của TĐ
có được đối với mục đích quan trọng nào đó.
Nhận thức là một q trình lĩnh hội tri thức kinh nghiệm, nhờ tri thức có được về đối
tượng mà chủ thể có xúc cảm và có khả năng đánh giá đối tượng.
1.2.1.5.2. Cảm xúc
Xúc cảm, tình cảm là TĐ rung cảm của cá nhân đối với sự vật hiện tượng liên quan
đến nhu cầu, cuộc sống của con người. Thể hiện ở sự hài lòng, dễ chịu, đồng cảm, vui
sướng, mừng rỡ hoặc khó chịu, bất bình, tức giận…tức là có cảm tình hay khơng có cảm
tình với đối tượng và ở sự rung động, quan tâm chú ý đến đối tượng.
Xúc cảm, tình cảm là sự biểu thị TĐ của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra trong
hiện thực có liên quan mật thiết đến việc thỏa mãn hay không thỏa mãn các nhu cầu của
cá nhân.

Xúc cảm, tình cảm thúc đẩy con người trong hoạt động, giúp họ vượt qua khó khăn
trở ngại trong cuộc sống, thức đẩy và tạo điều kiện cho cá nhân nhận thức về đối tượng.
Chính xúc cảm, tình cảm đã làm tư duy về đối tượng tốt hơn và ảnh hưởng trực tiếp đến
hành vi của họ. Vì vậy yếu tố xúc cảm, tình cảm được xem như chỉ một chỉ báo quan
trọng khi nghiên cứu về TĐ.
Tuy nhiên, trong quan hệ với đối tượng xúc cảm luôn luôn mang sắc thái chủ quan
của cá nhân. Dựa vào tình cảm người ta thường gán cho đối tượng những thuộc tính mà
có thể đối tượng khơng có, tạo nên sự nhận thức sai lệch về đối tượng “yêu nên tốt, ghét
nên xấu”, phản ánh rõ ràng ảnh hưởng của tình cảm với nhận thức.


1.2.1.5.3. Hành vi
Hành vi coi như là cấp độ biểu hiện của TĐ, đó là những biểu hiện ra bên ngoài hay
xu hướng hoạt động của cá nhân với đối tượng của TĐ và được chia làm 2 loại: hành vi
tích cực và hành vi tiêu cực.
Hành vi có thể biểu hiện ra bên ngoài và được người khác đánh giá cịn TĐ bên trong
đối với hành vi đó của bản thân được thể hiện ở sự tự đánh giá theo chuẩn mà chủ thể đã
nhận.
Ba yếu tố trên có quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tế yếu tố tình cảm thường
chứa đựng các yếu tố ý thức và yếu tố hành vi có các khía cạnh của yếu tố tình cảm. Có
nghĩa là nếu một người nào đó thích đối tượng của TĐ (yếu tố tình cảm) thì tin rằng đối
tượng sẽ dẫn đến một điều gì đó tốt đẹp (yếu tố ý thức) và có xu hướng hành động một
cách tích cực với đối tượng, có những hành vi mang tính tích cực nhiều (yếu tố hành vi).
Tùy theo tình huống mà một phần nào đó chiếm vị trí chủ đạo chi phối hành vi cá nhân.
Cấu trúc 3 thành phần là cơ sở cho việc xây dựng các thang đo TĐ khi nghiên cứu về vấn
đề này.
1.2.1.6. Phân loại thái độ
Từ các quan điểm khoa học khác nhau, các nhà tâm lý học đã đã có sự phân loại TĐ
theo các cách khác nhau. Chẳng hạn: dựa vào tính chất của TĐ, V.N.Miasixev đã chia TĐ
thành các loại là TĐ tích cực, TĐ trung tính, phân cực. Biểu hiện của nó có thể là phản

ứng hoặc đánh giá thích hay khơng thích, đồng ý hay khơng đồng ý.
B.Ph.Lomov lại dựa vào tính chi phối của TĐ để chia TĐ thành hai loại là TĐ chủ
đạo hay thứ yếu. Các loại TĐ chủ đạo (hay chi phối) là các loại TĐ có liên quan đến mục
đích sống và động cơ chủ đạo của cá nhân, chi phối toàn bộ hệ thống TĐ.
Dựa vào cách phân loại trên, thì trong đề tài này TĐ được phân thành 3 loại như sau:
TĐ tích cực, TĐ chưa tích cực, TĐ tiêu cực. Cụ thể:
- TĐ tích cực (Loại A) thể hiện : Nhận thức đúng, cảm xúc phù hợp, hành vi phản ứng
tích cực.


- TĐ chưa tích cực (Loại B) thể hiện : Nhận thức đúng, cảm xúc phù hợp nhưng hành
vi phản ứng chưa đúng.
- TĐ tiêu cực (Loại C) thể hiện : Nhận thức sai, cảm xúc chưa phù hợp, hành vi phản
ứng chưa đúng.
1.2.1.7. Cơ chế hình thành thái độ
Nhà tâm lý học người Đức M.Vorwerg và H.Hiebsch cho rằng TĐ được hình thành
thơng qua 4 cơ chế tâm lý xã hội sau:
- Bắt chước:
Đó là sự hình thành TĐ bằng con đường tự phát là học các phương thức hành vi hoặc
phản ứng mà không cần sử dụng những kỹ thuật giáo dục theo một phương thức nào cả.
- Đồng nhất hóa:
Đồng nhất hóa là sự bắt chước một cách tự giác, có ý thức. Tức là q trình chủ thể
thống nhất bản thân mình với cá nhân khác của nhóm này hay nhóm khác dựa trên mối
liên hệ xúc cảm và đồng thời chuyển những chuẩn mực, giá trị vào thế giới nội tâm của
mình. Hay nói cách khác, đó chính là q trình cá nhân tự đặt mình vào người khác để có
những ý nghĩa và hành động như người khác.
- Giảng dạy:
Đây là một cách đặc biệt của việc truyền đạt thông tin, nghĩa là cá nhân được người
khác chủ động tác động tới nhằm thông báo truyền thụ thơng tin.
- Chỉ dẫn:

Là hình thức hình thành TĐ địi hỏi chủ thể phải hành động tích cực theo hướng chỉ
dẫn nào đó trong q trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức.
Ta có thể thấy rằng, bốn cơ chế trên tuy khác nhau song đều ảnh hưởng tới sự hình
thành, củng cố hay thay đổi TĐ.
1.2.1.8. Sự thay đổi thái độ
Có nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh việc nghiên cứu TĐ đó là liệu TĐ có thể
thay đổi được hay khơng? Một trong những cơng trình nghiên cứu tổng quat nhất hơn 50
năm qua trong lĩnh vực này là khảo cứu Yale của nhà TLH xã hội Hovland và cộng sự về


thơng điệp thuyết phục có tính hiệu quả. Vì nhà nghiên cứu này đang làm việc cho trường
đại học Yale nên gọi là quan điểm Yale về biến đổi TĐ.
- Theo quan điểm Yale, người ta dễ có thay đổi TĐ nhất trước các thơng điệp thuyết
phục. Vì vậy họ đã nghiên cứu tác dụng của truyền thông thuyết phục, nghĩa là những
người được nghiên cứu phải chịu nhận những truyền thơng (biện luận) có sức thuyết phục
ít hoặc nhiều xuất phát từ một hay nhiều nguồn truyền thông. Cuối cùng sẽ nghiên cứu
ảnh hưởng của truyền thông lên TĐ của những người được thí nghiệm. Sự phụ thuộc của
độ lớn của sự thay đổi TĐ và các đặc trưng của nguồn truyền thông, bộ truyền thông, sự
truyền thông, bối cảnh truyền thơng và nhóm mục tiêu cụ thể.
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm này đã tập trung nghiên cứu “ai nói gì với ai” có
nghĩa là chú trọng đến nguồn thơng điệp, tính chất của thơng điệp và đặc điểm của người
nghe. Tính hiệu quả của các thơng điệp và đặc điểm của người nghe. Tính hiệu quả của
các thơng điệp tuỳ thuộc vào “ai nói gì với ai”. Theo quan điểm của Yale:
+ “Ai”: Là nguồn thông tin. Diễn đạt đáng tin cậy (người có chun mơn cao, nổi
tiếng) thuyết phục hơn các diễn giả có uy tín (Hovland và Weiss,1951). Diễn giả hấp dẫn
(hoặc do ngoại hình hoặc do các thuộc tính khác về nhân cách) thut phục hơn các diễn
giả ít hấp dẫn.
+ “Cái gì”: Tính chất thơng tin. Người ta dễ bị thuyết phục hơn bởi các thơng điệp có
vẻ khơng được thiết kế để gây ảnh hưởng đối với họ (Walter & Festinger, 1962). Khi
người nghe ủng hộ quan điểm của họ, bạn tốt nhất nên đưa ra thông điệp một chiều. Khi

người nghe không tán thành quan điểm của bạn, tốt nhất là đưa ra thơng điệp hai chiều rồi
sau đó bác bỏ luận điểm trái ngược với quan điểm của mình (Hovland, Lumsdaine &
Sheffied, 1949). Tốt nhất bạn nên đưa ra thơng điệp trước hay sau khi ai đó ủng hộ quan
điểm ngược lại với mình. Nếu thơng tin đước đưa ra gián tiếp và có khoảng thời gian để
ngưịi ta quyết định. Thì tốt nhất nên đưa thơng điệp ra trước. Trong các điều kiện này, có
thể xảy ra tác dụng ưu tiên, trong đó người ta dễ bị ảnh hưởng bởi những điều nghe thấy
trước. Nếu có một khoảng thời gian chờ đợi và người ta có thời gian để quyết định ngay
sau khi nghe thơng điệp thứ nhì, tốt nhất là nên nói sau. Trong các điều kiện này, có thể


xảy ra tác dụng về tính chất gần kề, trong đó người ta ghi nhớ thơng điệp thứ hai tốt hơn
thơng điệp thứ nhất.
+ “Nói với ai”: Đặc điểm của người nghe. Một người nghe tỏ ra sao lãng trong khi
thông điệp thuyết phục thường bị thuyết phục hơn người bị rối trí. Người ta đặc biệt dễ bi
biến đổi TĐ trong khoảng lứa tuổi 18 – 25. Quá lứa tuổi này, TĐ người ta ổn định hơn và
đề kháng lại với biến đổi.
Quan điểm của Yale về biến đổi TĐ đã đưa ra rất nhiều thơng tin hữa ích về việc
người ta thay đổi TĐ như thế nào để phản ứng lại các thông điệp thuyết phục.
Song song với các nghiên cứu Yale và nghiên cứu về hệ quả, người ta cũng đã xây
dựng lý thuyết cố gắng giải thích sự thay đổi TĐ.
- Lý thuyết về học tập: Đối với một số nhà TLH xã hội, lý thuyết học tập truyền thống
giúp giải thích biến đổi về TĐ. Họ xem biến đổi TĐ chủ yếu là một quá trình học tập
được lý giải tốt nhất bằng các quy luật về học tập. Chúng ta hãy xem xét công trình của
Hovland và cộng sự tại đại học Yale(Hovland, Janis và Kelley, 1953). Giả thuyết cơ bản
của họ là rất đơn giản: Người ta thay đổi TĐ vì nghĩ mình sẽ được tặng thưởng nếu làm
thế. Do đó phần tặng thưởng càng lớn thì TĐ càng biến đổi dữ dội. Hovland và cộng sự
đã gọi phần thưởng mong đợi này là các động cơ khích lệ. Trong khi có những lý thuyết
học tập khác về biến đổi TĐ.
- Thuyết tiếp nhận và thay đổi TĐ như là quá trình học hỏi: Theo thuyết của Staats,
tiếp nhận và thay đổi TĐ thể hiện quá trình học hỏi được điều khiển bởi độ khuyếch đại.

Theo nguyên tắc tạo phản xạ có điều kiện cổ điển đã xây dựng được mơ hình tháo độ - bộ
khuyếch đại – phân biệt. Nó phát biểu rằng, sự thay đổi TĐ sẽ đạt được nhờ sự kết hợp
của một kích thích khơng điều kiện (nội dung của một thông tin khác với TĐ của nhận)
mà sau đó nó sẽ tiếp thu tính chất là gây ra cùng phản ứng cảm xúc như kích thích khơng
điều kiện ngay cả khi khơng cịn kích thích này nữa. Tạo phản xạ có điều kiện một cách
cổ điển là trường hợp một kích thích tạo phản ứng cảm xúc được lặp lại cùng với một
kích thích chung chung cho đến khi kích thích chung chung đó có được cái tính chất của
kích thích ban đầu.


- Thuyết đồng hoá tương phản của Sherif và Hovland: Coi sự thay đổi TĐ là quá trình
thụ cảm. Thuyết này xuất phát điểm là các phán xét xã hội, kể cả TĐ, là kết quả của sự so
sánh. Mổi người qui định những thụ cảm liên quan đến một đối tượng nhất định, vào một
khoảng chấp nhận, dửng dưng hay từ chối trên một thang đo tương ứng. Nếu các bộ
truyền thơng rơi vào một khoảng chấp nhận thì chúng sẽ được coi là giống thực tế hơn
được đánh giá là hợp quy và khơng có định kiến và gây ra sự thay đổi TĐ. Còn nếu các
bộ truyền thơng rơi vào khoảng từ chối, thì người nhận sẽ thụ cảm chúng xa với cơng việc
của mình hơn là chúng vốn dĩ như vậy.
- Sự thay đổi TĐ theo quan điểm nhận thức: Tác giả của thuyết này cố gắng chỉ rõ
xem yếu tố nào ảnh hưởng tới TĐ vẫn giữ ngun, hơn thế nó cịn vững hơn trước những
nỗ lực gây ảnh hưởng trong tương lai nếu có trước đó người ta đã buộc phải tìm hiếu các
lý lẽ đã phản bác.
- Thuyết kháng cự của Brehm: Sẽ xảy ra hiệu ứng gậy ông đập lưng ông, nếu người
nhận cảm thấy bị bộ truyền thông bắt buộc phải tiếp thu ý kiến của nó ở mức độ khơng
thể chấp nhận được.
- Lý thuyết về không đồng bộ trong nhận thức: Người ta đã biến đổi TĐ bằng việc
biến đổi hành vi. Theo thuyết này, con người rơi vào trạng thái mất đồng bộ khi họ làm
một điều gì đó phương hại đến hình ảnh đàng hồng của bản thân, đặc biệt khi họ khơng
có một cách lý giải rằng hành vi ấy do ngoại cảnh khách quan. Khi khơng tìm được lý lẽ
bên ngồi để biện cho hành vi của mình thì họ cố tìm lý lẽ bên trong bằng cách đưa ra

nhận thức và hành vi của họ đến gần với nhau hơn và điều này đã dẫn đến một sự thay đổi
trong TĐ. Hiện tượng này đề cập đến như một sự tán thành, một TĐ đối lập. Tức là q
trình trong đó người ta được thuyết phục công bố một ý kiến hay một TĐ đối lập là một
cách thức mạnh mẽ để làm thay đổi TĐ một con người.
Tóm lại: TĐ là sự đánh giá bền vững của một người về một người khác, sự vật, sự
việc và các hiện tượng. Tất cả các TĐ đều gồm thành tố: nhận thức, tình cảm, hành vi. Có
nhiều cách biến đổi TĐ: Biến đổi thành phần nhận thức của TĐ hoặc biến đổi thành phần
hành vi của TĐ. Tuy nhiên đa số các cơng trình nghiên cứu trên đều tập trung nghiên cứu


biến đổi thành phần nhận thức của TĐ. Số công trình nghiên cứu sự biến đổi TĐ bằng
biến đổi thành phần hành vi của TĐ rất ít (lý thuyết về sự không đồng bộ trong nhận
thức).
1.2.2. Bị cáo
1.2.2.1. Khái niệm về bị cáo
Theo Điều 50 của BLTTHS, 2003 quy định: “BC là người đã bị Toà án quyết định
đưa ra xét xử”.
BC có quyền:
- Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của TA; các quyết
định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
- Tham gia phiên tồ.
- Được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này.
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
- Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
- Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tịa.
- Nói lời sau cùng trước khi nghị án.
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng.
1.2.2.2. Đặc điểm tâm lý của bị cáo
BC là người đã bị TA quyết định đưa ra xét xử. Có nghĩa là khi một cơng dân đã thực
hiện (hoặc bị cho là thực hiện) hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ, bị TA quyết định đưa ra xét xử về các vụ án hình sự thì trở
thành BC


Cách xử sự của BC tại phiên tòa phần lớn phụ thuộc vào các yếu tố như phẩm chất
tâm lý của BC, thế giới quan của BC, TĐ của BC với việc buộc tội, sự đánh giá của BC
về HVPT của BC, kinh nghiệm tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng của BC.
Đặc điểm tâm lý của BC tại phiên tòa được biểu hiện như sau:
- Do trước khi ra tòa, BC đã làm quen với tài liệu điều tra nên biết được mình bị truy
tố vì tội gì, đốn trước được những sự kiện, chứng cứ sẽ trình bày trong xét hỏi, đồng thời
đốn trước câu hỏi của HĐXX và chuẩn bị kỹ để trả lời.
- BC thường tập trung tư duy để đưa ra những giả thiết mới về sự kiện, cung cấp thêm
những sự kiện, cung cấp thêm những sự kiện mới nhằm thay đổi ý nghĩa của các sự kiện
đã rõ ràng.
- Hành vi của BC tịa phiên tòa hay thay đổi, ở BC có thể xuất hiện trạng thái tâm lý
căng thẳng thần kinh do những nguyên nhân cơ bản sau đây:
+ Sự xuất hiện thêm thơng tin mới mà BC hồn tồn không dự kiến trước (sự thay đổi
lời khai của BC khác, của người làm chứng, những sự kiện mới, tài liệu mới,…).
+ Cảm xúc mạnh của những người tham gia tố tụng, trước hết là hành vi phản ứng bị
chi phối bởi cảm xúc mạnh của người BH.
+ Sự tạo ra những tình huống gây cảm xúc mạnh mẽ về việc thực hiện HVPT của BC
(thông qua lời khai của người làm chứng, thơng qua việc xuất trình vật chứng, thông qua
bài phát biểu của những người tham gia tranh luận).
+ Phản ứng cảm xúc mạnh mẽ của những người tham dự phiên tịa. Q trình xét hỏi,
các mối quan hệ phát sinh giữa BC với những người tham gia xét hỏi cũng như cách xử

sự, phản ứng của những người tham dự phiên tịa đều có ảnh hưởng tới sự thay đổi trạng
thái và hành vi của BC, BC trở nên thụ động, ngần ngại, ngừng trả lời các câu hỏi, làm
giảm bớt tình tích cực của họ.
- Do BC nhận thức được rằng TA là cơ quan duy nhất đưa ra bản án, quyết định, xác
định số phận của họ nên BC luôn suy nghĩ trước về hành vi của mình, cố gắng lựa chọn
cách xử sự như thế nào để khi tiếp xúc với HĐXX có thể gây được sự cảm thơng nhất đối
với mình.


- Hoạt động tư duy của BC tại phiên tòa rất căng thẳng và phức tạp, bởi vì cùng một
thời gian ngắn BC phải tiếp nhận lời khai của người làm chứng, những câu hỏi của
HĐXX, của luật sư, phải trả lời những câu hỏi khác nhau, phải quan sát phản ứng và cách
xử sự của từng thành viên tham gia xét xử, đặc biệt là TĐ của HĐXX, phản ứng của phiên
tòa.
Những xung đột gay gắt và bất ngờ xảy ra trong q trình xét xử cũng có thể làm cho
BC thay đổi cách xử sự mà họ đã dự định trước đây.
1.2.2.3. Mối quan hệ của bị cáo với Hội đồng xét xử
1.2.2.3.1. Người bị hại và gia đình bị hại
Theo khoản 1 Điều 51 BLTTHS (2003) định nghĩa người BH(BH) như sau: “Người
BH là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.
Người BH là con người cụ thể, thiệt hại gây ra đó là tinh thần, thể chất, tài sản hoặc
những thiệt hại khác, những thiệt hại đó do tội phạm gây ra.
Người BH có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật hoặc yêu cầu đối với BC; được thông báo
về kết quả điều tra; được đề nghị thay đổi tiến hành người tố tụng, người giám định theo
qui định của bộ luật này; được đề nghị và các biện pháp đảm bảo bồi thường khác. Người
BH phải tham gia phiên tịa, trình bày ý kiến của mình, trang luận tại phiên tịa để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Họ được quyền khiếu nại với quyết định và hành vi
tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định
của TA về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với BC.
Đặc trưng giao tiếp giữa BC với BH và gia đình BH là loại giao tiếp xung đột. BH và

gia đình BH buộc tội BC, tố cáo những HVPT của BC, gây áp lực cho BC vì những gì BC
đã gây ra cho mình và cho người thân của mình. Cịn BC có thể chối tội cho rằng BH vu
oan cho mình, đổ tội cho người khác hoặc cho hoàn cảnh để trốn tránh HVPT đã gây ra
cho BH và gia đình BH.
1.2.2.3.2. Người làm chứng
Theo từ điển pháp luật thì: “Người làm chứng là người tham gia tố tụng. Người nào
biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.


Người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tồ
án; có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án...”
Người làm chứng là người chứng kiến HVPT của BC, hay là người biết được những
thơng tin có liên quan đến HVPT của BC, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án hình
sự, về đặc điểm nhân thân của bị can, BC, người BH, quan hệ của họ với người bị tạm
giam, bị can, BC, người BH,… Được thực hiện trước các cơ quan tiến hành tố tụng, theo
thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Người làm chứng là người nắm được diễn biến của vụ án hình sự, hồn cảnh phạm
tội, nhân thân người phạm tội, người BH,… Đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng góp
phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Đặc trưng giao tiếp giữa BC với người làm chứng cũng là loại giao tiếp xung đột. Khi
ra trước tòa, người làm chứng nêu ra những chứng cứ chứng minh HVPT của BC, đứng ra
tố cáo những HVPT của BC, thuật lại q trình gây án hoặc những thơng tin mà người
làm chứng đã chứng kiến hoặc hiểu biết về BC. BC lại luôn phủ nhận những thông tin mà
người làm chứng cung cấp, thậm chí đe dọa, quát tháo với người làm chứng.
1.2.2.3.3. Luật sư
Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn,
điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư thực hiện dịch
vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Luật sư
cung cấp các dịch vụ pháp lý như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm
phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ

quyền lợi của thân chủ trước TA trong quá trình tiến hành tố tụng.
Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật qui định để làm
sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, BC vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, BC. Giúp người bị tạm giữ, bị can, BC về mặt pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư không được phép từ chối bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, BC mà mình đảm nhận bào chữa nếu khơng có lý do
chính đáng.


Đặc trưng giao tiếp giữa BC với luật sư là loại giao tiếp hợp tác. Luật sư là người bảo
vệ quyền lợi của BC, đưa ra những lý lẽ, dẫn chứng chứng minh BC vơ tội hoặc nhằm
giảm nhẹ hình phạt cho BC. Chính vì thế mà BC thường tỏ TĐ tích cực, hợp tác với luật
sư về mọi chuyện.
1.2.2.3.4. Kiểm sát viên
Căn cứ Điều 2 Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011
(sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Kiểm sát viên) thì Công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và
trung thực, có trình độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của
Pháp lệnh Kiểm sát viên, có sức khỏe bảo đảm hồn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm là kiểm sát viên.
Kiểm sát viên khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ
quan điều tra, yêu cầu điều tra, triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai của
người làm chứng, người BH, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án. Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam BC. Tham gia phiên tòa, đọc cáo trạng,
quyết định của viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án, hỏi và đưa ra chứng cứ
và thực hiện việc luận tội, phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án, tranh luận với những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
xét xử tại TA, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của
TA. Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định TA.

Đặc trưng giao tiếp giữa BC với kiểm sát viên là loại giao tiếp xung đột. Kiểm sát
viên dựa trên kết quả những thông tin mà cơ quan điều tra thu thập được, cùng với những
chứng cứ phạm tội của người làm chứng từ đó chiếu theo Bộ luật TTHS mà đưa ra bản
luận tội và mức án cho BC. BC thì ln chối tội, đổ lỗi cho những nguyên nhân khác nhau
nhằm trốn tránh hoặc giảm nhẹ mức án cho mình.


1.2.2.3.5. Thẩm phán
Thẩm phán là người thực hiện quyền xét xử chính tại một phiên tịa, có thể là chủ tọa
một mình hoặc là một thành phần trong HĐXX gồm nhiều thẩm phán. Thẩm phán giữ vai
trò chủ tọa phiên tịa được gọi là Chánh án.
Thẩm phán có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tịa, tham gia
xét xử các vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề
thuộc thẩm quyền của HĐXX. Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của TA theo sự phân công của chánh án TA. Thẩm phán là người ra quyết định quan
trọng nhất trong việc đưa ra bản án đối với bị can, BC vì thế họ phải chịu trách nhiệm cao
nhất về những hành vi và quết định của mình.
Người thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa, ngồi những nhiệm vụ, quyền
hạn trên cịn thêm những quyền hạn sau: được quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn theo qui định của Luật tố tụng hình sự; quyết định trả hồ sơ để điều
tra hoặc bổ sung; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ hoặc tạm thời đình
chỉ vụ án; quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa; tiến hành các hoạt
động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của TA theo sự phân cơng của chánh án tịa.
Đặc trưng giao tiếp giữa BC với kiểm sát viên là loại giao tiếp ngang bằng, thẩm phán
dựa theo những thông tin của cơ quan điều tra cung cấp, bản luận tội của Viện kiểm sát,
lời buộc tội của BH, chứng cứ của người làm chứng, lý lẽ của luật sư bào chữa. Từ đó rút
ra cái nhìn của bản thân về vụ án và cùng với Hội thẩm nhân dân đưa ra quyết định mức
án với HVPT của BC.
1.2.3. Hoạt động xét xử
1.2.3.1. Khái niệm hoạt động xét xử

Theo Tâm lý học pháp lý của Nguyễn Hồi Loan – Đặng Thanh Nga (2004), trang 53,
Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội cho rằng:“Xét xử là một giai đoạn tố tụng, trong đó cơ
quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để xác
định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan
người vô tội”.


Theo Tâm lý học pháp lý của Nguyễn Hồi Loan – Đặng Thanh Nga (2004), trang 53,
Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội cho rằng: dưới góc độ tâm lý học “Hoạt động xét xử là
hoạt động tư duy tích cực của HĐXX nhằm xác minh, kiểm tra một cách công khai các
chứng cứ của vụ án, đề ra bản án, quyết định hợp pháp có căn cứ”.
1.2.3.2. Các thành phần tham gia trong hoạt động xét xử
- HĐXX
- Kiểm sát viên
- Luật sư
- BC
- Bị hại
- Người làm chứng
- Nhân thân người bị hại
- Nhân thân BC
- Người dân đến tham dự phiên tòa
1.2.3.3. Đặc điểm tâm lý của hoạt động xét xử
- Đặc điểm tâm lý của hoạt động nhận thức
Mục đích của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử là nhằm nghiên cứu và kiểm
tra tính khách quan của các chứng cứ về vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập. Việc
kiểm tra các chứng cứ được tiến hành thông qua việc nghiên cứu hồ sơ của các vụ án và
xét hỏi trực tiếp các đương sự tại phiên tòa.
Chủ thể tiến hành hoạt động nhận thức gồm các thành viên của HĐXX.
- Đặc điểm tâm lý của hoạt động thiết kế
Nội dung của hoạt động thiết kế trong giai đoạn xét xử gồm: dự đốn các tình huống

có thể xảy ra trong HĐXX; lập kế hoạch xét xử các vụ án; đưa ra các quyết định cụ thể về
vụ án.
Việc ra quyết định do từng thành viên của HĐXX tiến hành, nhưng kết quả của nó
mang tính tập thể, do tập thể quyết định. Trong giai đoạn nghị án, mỗi thành viên của


×