ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
BỘ MÔN: ĐỊA LÍ KINH TẾ
Đề tài:
NGHIÊN CỨU TÍNH THỜI VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH Ở ĐẢO CÙ LAO CHÀM, THÀNH PHỐ HỘI AN VÀ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HẠN CHẾ
Giáo viên hƣớng dẫn: Th.s Nguyễn Thanh Tƣởng
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Tƣơi
Lớp
: 11SDL
Đà Nẵng, tháng 5, năm 2015
1
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của tơi, ngồi
những phần được tham khảo từ các nguồn tài liệu tham khảo thì
những phần cịn lại là do chính tơi tự nghiên cứu, khơng sao chép
của bất kì một cơng trình nào khác.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015
Kí tên
(Người thực hiện)
Nguyễn Thị Tươi
2
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến quý thầy cơ giáo trong khoa Địa lí đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tơi trong q trình nghiên cứu. Đặc biệt là thầy
giáo – Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tưởng là thầy giáo trực tiếp hướng
dẫn tơi nghiên cứu Khóa luận tốt nghiệp này.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015
Kí tên
(Người thực hiện)
Nguyễn Thị Tươi
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số lượng doanh nghiệp và các phương tiện giao thông
khai thác tuyến du lịch Hội An – Cù Lao Chàm năm
2011 và 2012
43
2.2
Sự biến đổi số lượng du khách qua các năm 2010 –
2014 ở Cù Lao Chàm
46
2.3
Số lượng khách du lịch đến Cù Lao Chàm qua các
tháng trong năm 2014
49
2.4
Chi tiêu của khách du lịch đến Cù Lao Chàm giai đoạn
2010 – 2014
52
2.5
Chi tiêu của khách du lịch đến Cù Lao Chàm qua các
tháng trong năm 2014
53
2.6
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch ở Cù Lao
Chàm giai đoạn 2010 – 2014
54
2.7
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch của các
tháng trong năm 2014 ở Cù Lao Chàm
55
2.8
Cơng suất sử dụng phịng các tháng trong năm 2014 tại
xã đảo Tân Hiệp
56
4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Biểu đồ thể hiện các loại hình du lịch được ưa
chuộng tại Cù Lao Chàm
42
2.2
Biểu đồ thể hiện tình hình khách đến du lịch tại Cù
Lao Chàm và Hội An giai đoạn 2010 – 2014
46
2.3
Biểu đồ thể hiện tình hình khách quốc tế đến du lịch
tại Cù Lao Chàm và Hội An và giai đoạn 2010 - 2014
48
2.4
Biểu đồ thể hiện tình hình khách trong nước đến du
lịch tại Cù Lao Chàm và Hội An và giai đoạn 2010 –
2014
48
2.5
Biểu đồ thể hiện sự biến đổi số lượng du khách đến
Cù Lao chàm qua các tháng trong năm 2014
49
2.6
Biểu đồ thể hiện chi tiêu của khách đến Cù Lao
Chàm qua các tháng trong năm 2014
53
2.7
Biểu đồ thể hiện cơ cấu lao động của xã đảo Tân
Hiệp năm 2014
55
biểu đồ
5
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trang
1
1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3
5. Quan điểm nghiên cứu
3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
4
7. Bố cục khóa luận
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TÍNH THỜI VỤ TRONG
DU LỊCH..
1.1.m Cơ sở lí luận
6
1.1.1. những khái niệm cơ bản về du lịch
6
1.1.2. Tính thời vụ trong du lịch
15
1.2. Cơ sở thực tiễn tính thời vụ trong du lịch
24
1.2.1. Ở Quảng Nam
24
1.2.2. Ở Hội An
25
CHƢƠNG 2: TÍNH THỜI VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở ĐẢO CÙ
LAO CHÀM, THÀNH PHỐ HỘI AN
26
2.1. Khái quát về hoạt động du lịch ở Cù Lao Chàm
26
2.1.1 Giới thiệu chung về Cù Lao Chàm
26
2.1.2. Tiềm năng du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
27
2.1.3. Các loại hình du lịch chủ yếu
37
2.1.4. Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
41
2.1.5. Chính sách phát triển du lịch của địa phƣơng
44
6
2.2. Tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
45
2.2.1. Biểu hiện tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm 45
2.2.2. Ảnh hƣởng của tính thời vụ đối với hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao
Chàm
57
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÍNH THỜI VỤ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
DU LỊCH Ở ĐẢO CÙ LAO CHÀM, THÀNH PHỐ HỘI AN
3.1. Cơ sở đƣa ra giải pháp
62
3.1.1. Những lợi thế trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
62
3.1.2. Những hạn chế trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
63
3.1.3. Mục tiêu phát triển du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
64
3.1.4. Định hƣớng phát triển du lịch ở đảo Cù Lao Chàm
64
3.2. Một số giải pháp hạn chế tính thời vụ đến hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao
Chàm
67
3.2.1. Phát triển sản phẩm du lịch
67
3.2.2. Phát triển hệ thống hạ tầng và cơ sở vât chất kĩ thuật phục
vụ du lịch
68
3.2.3. Phát triển thị trƣờng, xúc tiến quảng bá và thƣơng hiệu du lịch
68
3.2.4. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học công
nghệ vào lĩnh vực du lịch
70
3.2.5. Tăng cƣờng quản lí của nhà nƣớc về du lịch
71
3.2.6. Giải pháp đầu tƣ
72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
75
KẾT LUẬN
75
KIẾN NGHỊ
76
Tài liệu tham khảo
78
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Từ xa xưa, trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được coi như một nhu cầu
thiết yếu của con người. Ngày nay, hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh
mẽ và trở thành một ngành kinh tế quan trọng trên thế giới. Với các ưu điểm nổi
bật của mình, ngành du lịch được xem là “ngành cơng nghiệp khơng khói” mang
lại lợi nhuận cao mà bất kì một quốc gia nào trên thế giới cũng đều mong muốn có
được và Việt Nam cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Ngành du lịch của Việt
Nam đang từng bước vươn lên để trở thành một ngành quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, khai thác có hiệu
quả những tiềm năng sẵn có.
Tỉnh Quảng Nam là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung, với những ưu thế nổi bật và tiềm năng sẵn có, tỉnh đang được Nhà nước ưu
tiên và khuyến khích phát triển, trong đó chú trọng hơn cả là ngành du lịch. Có
thể nói, Quảng Nam có nguồn tài nguyên du lịch khá phong phú và nổi bật với hai
di sản văn hóa thế giới là: Đơ thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn là những tài
nguyên du lịch nhân văn độc đáo; đặc biệt, tỉnh cịn có cụm đảo Cù Lao Chàm
được UNESCO cơng nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào ngày 29 tháng 5
năm 2009 trong phiên họp thứ 21 của Ủy ban điều phối Quốc tế chương trình con
người và sinh quyển diễn ra tại đảo Jeju (Hàn Quốc).
Cù Lao Chàm gồm 8 đảo lớn nhỏ, là một di tích văn hóa lịch sử gắn với sự
hình thành và phát triển của đô thị thương cảng Hội An. Tại đây cịn nhiều di tích
thuộc các nền văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa, Đại Việt, với các cơng trình kiến trúc
cổ của người Chăm và người Việt có niên đại vài trăm năm. Cù Lao Chàm còn là
địa điểm du lịch lí tưởng với khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong
phú, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào quý hiếm. Các rạn san
hô ở khu vực biển Cù Lao Chàm cũng được các nhà khoa học đánh giá cao và đưa
vào danh sách bảo vệ. Tháng 10 năm 2003, Khu Bảo tồn thiên nhiên Cù Lao
Chàm được thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, là một trong 15 Khu
Bảo tồn biển của Việt Nam vào thời điểm năm 2007. Với những thế mạnh như
vậy, Cù Lao Chàm đã thu hút được rất nhiều khách du lịch đến tham quan và phát
triển du lịch mạnh mẽ, tên tuổi Cù Lao Chàm càng ngày càng được bạn bè khắp
trong và ngoài nước biết đến. Tuy nhiên, hoạt động du lịch tại Cù Lao Chàm chỉ
diễn ra ồ ạt và sôi động vào mùa vụ nên gây ra một số tác động bất lợi đến nhiều
lĩnh vực như: kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, tài nguyên du lịch,…
Vào mùa vụ, lượng khách du lịch đến Cù Lao Chàm quá đông tạo nên nhiều sức
8
ép về nơi ở, điều kiện cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ,… trong khi đó, ngồi
thời gian này, lượng khách giảm đáng kể, thậm chí có một số hoạt động du lịch
phải tạm nghỉ.
Với lí do như vậy, tơi quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu tính thời vụ
trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm, Thành phố Hội An và đề xuất
giải pháp hạn chế”. Với đề tài này, tơi mong muốn được góp cơng sức nhỏ bé của
mình vào việc xây dựng một khu du lịch Cù Lao Chàm phát triển bền vững và
hiệu quả hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Tính thời vụ trong du lịch là một trong những hạn chế lớn làm ảnh hưởng
đến các hoạt động kinh doanh cũng như các vấn đề về môi trường,… tại nơi diễn
ra hoạt động du lịch. Vì thế các nhà nghiên cứu cũng rất quan tâm tới việc tìm ra
giải pháp hạn chế những bất lợi mà tính thời vụ gây ra. Minh chứng là các cơng
trình nghiên cứu về tính thời vụ trong du lịch là khá nhiều, có thể kể đến một số
cơng trình nghiên cứu về tính thời vụ trong du lịch như:
- Cơng trình “Nghiên cứu tính thời vụ trong hoạt động du lịch biển Đồ Sơn,
thành phố Hải Phịng” (do sinh viên Hồng Thị Thùy Trang nghiên cứu làm Khóa
luận tốt nghiệp).
- Đề tài “Nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch” (do nhóm sinh viên khoa
Mơi trường và Tài nguyên, trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh
nghiên cứu).
- Đề tài “Nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch và các biện pháp khắc phục
tại công ty cổ phần Du lịch Ao Vua”,…
Cù Lao Chàm là khu du lịch nổi tiếng với đa dạng các loại hình du lịch
như: Du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng,… là sự thu hút lớn khơng
chỉ đối với du khách mà cịn thu hút cả sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học,
các chuyên gia nghiên cứu về Cù Lao Chàm. Có thể kể đến một số cơng trình như:
- Đề tài “Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch và đề xuất giải pháp du
lịch sinh thái bền vững tại xã đảo Cù Lao Chàm, Thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam” (do sinh viên Bùi Xuân Trường nghiên cứu làm Khóa luận tốt nghiệp”.
- Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ phục hồi san hô cứng ở một số
khu bảo tồn biển trọng điểm” (do PGS.TS Võ Sĩ Tuấn – Viện Hải Dương học
nghiên cứu).
9
- Đề tài “Nghiên cứu nguồn lợi giáp xác liên quan đến phát triển kinh tế
cho cộng đồng dân cư tại Cù Lao Chàm” (do sinh viên Dương Thị Mỹ Ly, khoa
Sinh – Môi trường, trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng thực hiện),…
Tuy nhiên, tính cho tới thời điểm hiện tại chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở Cù Lao Chàm.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu tính thời vụ trong hoạt động du lịch và đề xuất một số giải pháp
nhằm hạn chế ảnh hưởng bất lợi của tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở Cù Lao
Chàm, thành phố Hội An.
3.2 Nhiệm vụ
- Phân tích, nghiên cứu những tác động của tính thời vụ đến du lịch đảo Cù
Lao Chàm
- Định hướng và đề xuất một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng bất lợi của tính
thời vụ trong hoạt động du lịch, góp phần đưa du lịch ở đảo Cù Lao Chàm phát
triển theo hướng bền vững và hiệu quả hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng
Du lịch là một lĩnh vực có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa khá cao,
tuy nhiên trong đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch và
ảnh hưởng bất lợi của tính thời vụ đến hoạt động kinh doanh du lịch tại Cù Lao
Chàm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Đảo Cù Lao Chàm, thành phố Hội An
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến năm 2014. Định hướng và giải
pháp đến phát triển năm 2020
- Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở
đảo Cù Lao Chàm, Thành phố Hội An và đề xuất giải pháp hạn chế
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm hệ thống
10
Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ các hiện tượng và các hoạt động kinh tế
bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hoặc tập thể ở ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ hoặc ngồi nước họ với mục đích hịa bình. Như vậy
các điều kiện và nhân tố du lịch tồn tại và phát triển của các thành phần: tự nhiên,
kinh tế- xã hội và các quy luật cơ bản của các loại hình du lịch. Do đó, khi nghiên
cứu hoạt động du lịch cần phải nghiên cứu một cách toàn diện trên nhiều mặt dựa
vào việc phân tích các bộ phận của nó, từ đó xác định mối quan hệ hữu cơ giữa
các bộ phận đó cũng như mối quan hệ trong hoạt động du lịch với các hoạt động
kinh tế - xã hội khác. Đây cũng là quan điểm chủ đạo trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện đề tài.
5.2. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Cũng như các hoạt động khác, hoạt động du lịch cũng có nguồn gốc phát
sinh phát triển và nó gắn với hoạt động của con người. Do đó khi nghiên cứu hoạt
động du lịch trong một thời gian nhất định phải tìm hiểu tình hình phát triển của
nó trong giai đoạn trước đó để có thể tìm ra quy luật phát triển chung nhất.
5.3. Quan điểm tổng hợp
Các yếu tố của du lịch không thể tách rời khỏi không gian lãnh thổ nhất định
mà chúng liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống với các loại tài
nguyên và các cơ sở dịch vụ phục vụ cho du lịch. Quan điểm này được vận dụng
sau khi đã phân tích hoạt động của từng thành phần trong tổng thể.
5.4. Quan điểm kinh tế - sinh thái bền vững
Cũng như các thành phần kinh tế khác, tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển của
ngành du lịch chính là hiệu quả kinh tế mà nó mang lại cho mỗi quốc gia, dân tộc.
Đồng thời, việc phát triển du lịch phải gắn với công tác bảo vệ môi trường sinh
thái được bền vững.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phƣơng pháp thu thập, phân tích, so sánh tổng hợp
Đây là phương pháp nhằm định hướng, thống kê các số liệu nhằm minh
chứng cho tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở Cù Lao Chàm, Thành phố Hội
An. Phân tích mối tương quan để phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu
tố thời vụ đến hoạt động du lịch, đánh giá số lượng và chất lượng các yếu tố đúng
đắn mang tính khách quan. Kết quả của phương pháp này là cơ sở khoa học cho
việc xây dựng, thực hiện các mục tiêu và đề xuất các giải pháp hạn chế.
11
6.2. Phƣơng pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp nghiên cứu truyền thống để khảo sát thực tế, áp dụng
việc nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn, bổ sung cho lý luận ngày càng hồn
chỉnh hơn. Việc có mặt tại thực địa trực tiếp quan sát và tìm hiểu thơng tin từ
những người có trách nhiệm là rất cần thiết. Quá trình thực địa giúp cho tài liệu
thu thập được phong phú hơn, giúp cho việc học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao
và có một tầm nhìn khách quan để nghiên cứu đề tài. Đây là phương pháp vô cùng
quan trọng để thu thập được những thông tin xác thực cho đề tài tăng tính thuyết
phục. Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn khách quan và có
những đánh giá đúng đắn về vấn đề nghiên cứu. Hiểu vấn đề một cách sâu sắc và
tránh được tính phiến diện trong khi nghiên cứu.
6.3. Phƣơng pháp điều tra xã hội học
Là phương pháp lấy ý kiến của khách du lịch về chất lượng dịch vụ, chi tiêu
của khách du lịch trong quá trình du lịch tại Cù Lao Chàm; điều tra thái độ, khả
năng đóng góp của cộng đồng trong q trình bảo tồn, tơn tạo, khai thác tài
nguyên nhằm phát hiện ra những mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi; Phỏng vấn, lấy
ý kiến các nhà lãnh đạo để thấy rõ nhận thức của họ về vấn đề tôn tạo, bảo vệ tài
nguyên du lịch, cũng như các biện pháp quản lí các tác động của hoạt động du lịch
đến môi trường. Bên cạnh đó, cịn phỏng vấn các đối tượng khác để lấy ý kiến
cộng đồng như: du khách, các thành viên tham gia vào các hoạt động du lịch.
6.4. Phƣơng pháp sử dụng bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc thù của khoa học Địa lý. Phương pháp này cho
phép thu thập thông tin về số lượng, chất lượng, phân bố, thực trạng khai thác của
khu vực nghiên cứu. Đồng thời sau khi nghiên cứu, điều tra, đánh giá thì phương
pháp bản đồ còn được sử dụng để thể hiện sự phân bố về số lượng, chất lượng, khả
năng tồn tại và khai thác của đối tượng nghiên cứu. Chính vì vậy, cần phải sử
dụng bản đồ để hỗ trợ việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, sử dụng nhiều biểu đồ nhằm
trực quan hóa các số liệu, cho chúng ta thấy rõ tình hình hoạt động du lịch của địa
phương. Đây là cơ sở dữ liệu nhằm đưa ra những nhận xét khách quan về khu vực
nghiên cứu.
7. Bố cục của Khóa luận.
Ngồi phần mở đầu, kết luận và kiến nghị. Phần nội dung của Khóa luận có
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn tính thời vụ trong du lịch.
12
Chương 2: Tính thời vụ trong hoạt động du lịch ở đảo Cù Lao Chàm, Thành
phố Hội An.
Chương 3: Giải pháp hạn chế tính thời vụ đến hoạt động du lịch ở đảo Cù
Lao Chàm, Thành phố Hội An.
13
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TÍNH THỜI VỤ TRONG
DU LỊCH
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Những khái niệm cơ bản về du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát
triển với tốc độ rất nhanh như vậy, song cho đến nay, khái niệm “du lịch” vẫn
được hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và dưới nhiều góc độ khác
nhau.
Hiện nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tuy chưa có một
nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch”, song trước thực tế phát triển của
ngành du lịch về mặt kinh tế, xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu,
thảo luận để đi đến thống nhất khái niệm “du lịch” cũng như một số khái niệm cơ
bản khác về du lịch là một đòi hỏi khách quan.
Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp và trong quá trình phát
triển, nội dung của nó khơng ngừng được mở rộng và càng ngày càng trở nên
phong phú hơn. Để đưa ra một định nghĩa về du lịch sao cho vừa đảm bảo tính
chất khái quát, vừa đảm bảo tính chất lí luận và thực tiễn, các tác giả đã gặp khơng
ít khó khăn như: Do tồn tại các cách tiếp cận khác nhau và dưới góc độ nhìn nhận
khác nhau, hay do sự khác nhau về ngôn ngữ và cách hiểu khác nhau về du lịch ở
các nước khác nhau và do tính chất đặc thù của hoạt động du lịch mà các tác giả
có các định nghĩa khác nhau về du lịch. Chính sự tồn tại của các khó khăn khách
quan và chủ quan trong q trình tìm ra một định nghĩa thống nhất về du lịch nên
cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch của các tác giả khác
nhau.
Bản thân khái niệm “du lịch” có ý nghĩa đầu tiên là việc đi lại của từng cá
nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong một khoảng thời gian
ngắn và đi đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày
nay, người ta đã thống nhất rằng: Về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển của
con người ở trong hay ngoài nước, trừ việc cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm
lược thì đều mang ý nghĩa du lịch.
14
Năm 1811, lần đầu tiên có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau: “Du lịch
là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lí thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với
mục đích giải trí. Ở đây, sự giải trí là động cơ chính”.
Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và Giáo sư, tiến sĩ Krapf – hai người được coi là
những người đặt nền móng cho lí thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như
sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng phát sinh trong các cuộc
hành trình và lưu trú của những người ngồi địa phương, nếu việc lưu trú đó
khơng thành cư trú thường xun và khơng dính dáng tới hoạt động kiếm lời”.
Định nghĩa này đã được chấp nhận làm cơ sở cho môn khoa học du lịch, được
nhiều nhà kinh tế sử dụng để giải thích từng mặt và các hiện tượng du lịch nhưng
định nghĩa này vẫn chưa giới hạn được đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện
tượng và của mối quan hệ du lịch. Ngồi ra, định nghĩa cịn bỏ sót hoạt động của
các công ty giữ nhiệm vụ trung gian; nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản
xuất hàng hóa và các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Liên Hiệp Quốc (1963), định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngồi nước họ ở với mục đích hịa bình. Nơi họ đến lưu trú khơng phải là nơi
làm việc của họ”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ du lịch được
hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”.
Theo Pirojnik (1985): “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời
gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình
độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế, văn hóa”.
Khi nghiên cứu các định nghĩa về du lịch, chúng ta có thể thấy được sự biến
đổi trong nhận thức về nội dung thuật ngữ du lịch. Có người cho rằng, du lịch là
một hiện tượng xã hội, có người lại cho rằng đó phải là hoạt động kinh tế. Tóm
lược các ý của những định nghĩa trên, du lịch có thể được hiểu như là:
- Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá
nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sứ khỏe, nâng cao nhận
15
thức về thế giới xung quanh, có hoặc khơng việc kèm theo việc tiêu thụ một số giá
trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.
- Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh
trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của
cá nhân hay tập thể ngồi nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao
nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung của khái niệm có ý nghĩa góp phần
thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Cho đến nay, khơng ít người, thậm chí cả cán
bộ, nhân viên đang làm việc trong ngành du lịch cũng cho rằng du lịch là một
ngành kinh tế. Do đó, mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh
tế. Điều đó có thể đồng nghĩa với việc sử dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi
cơ hội để kinh doanh. Trong khi đó, du lịch cịn là một hiện tượng xã hội góp phần
nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lịng u nước, tinh thần
đồn kết… Chính vì vậy mà tồn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu
tư cho du lịch phát triển (Theo Trần Đức Thanh và Nguyễn Minh Tuệ, 1999).
1.1.1.2. Khái niệm khách du lịch
Định nghĩa về “khách du lịch” xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỉ thứ
XVIII tại Pháp. Thời bấy giờ, các cuộc hành trình của người Đức, người Đan
Mạch, người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và người Anh trên đất Pháp được chia
làm 2 loại là: Cuộc hành trình nhỏ (kéo dài từ Paris đến miền Đơng Nam nước
Pháp) và cuộc hành trình lớn (kéo dài từ bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam
nước Pháp và vùng Bourgone. Từ đó, người Pháp đưa ra định nghĩa: “Khách du
lịch là người thực hiện một cuộc hành trình lớn”.
Giáo sư Khadginicolov – một trong những nhà tiền bối về du lịch của
Bulgarie đưa ra định nghĩa về khách du lịch như sau: “Khách du lịch là người
hành trình tự nguyện với những mục đích hịa bình. Trong cuộc hành trình của
mình, người đó đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi nơi lưu trú của
mình một hoặc nhiều lần”.
Các định nghĩa nêu trên đều mang tính phiến diện, chưa đầy đủ, chủ yếu
mang tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương thời và xem xét không
đầy đủ, hạn chế nội dung thực của khái niệm - khách du lịch.
Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở đáng tin cậy, cần tìm hiểu và
phân tích một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các hội nghị quốc
tế về du lịch hay của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến các vấn đề về du lịch.
16
Nhìn chung, việc xác định ai là du khách và việc phân biệt giữa du khách
và những người lữ hành khác đều dựa vào 3 tiêu chí:
-
Mục đích chuyến đi.
Thời gian chuyến đi.
Không gian chuyến đi.
Năm 1937, Ủy Ban thống kê của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hợp
Quốc ngày nay) đã đưa ra khái niệm về du khách quốc tế như sau:
“Du khách quốc tế là những người viếng thăm một quốc gia ngoài quốc gia
cư trú thường xun của mình trong thời gian ít nhất là 24 giờ”.
Như vậy, với khái niệm trên đây, về mặt thời gian, du khách quốc tế là
những người có thời gian viếng thăm (lưu lại) ở quốc gia khác ít nhất là 24 giờ
(trừ những người tham gia các chuyến du lịch vòng quanh biển). Sở dĩ người ta
chọn mốc thời gian 24 giờ là cơ bản vì các du khách ấy phải nghỉ qua đêm, phải
chi tiêu một khoản tiền đáng kể cho nhu cầu lưu trú.
Tuy nhiên, một vấn đề khác đó là số lượng người tham quan, giải trí trong
khoảng thời gian dưới 24 giờ ngày càng nhiều và khơng thể khơng tính đến tiêu
dùng của họ trong thống kê du lịch. Như vậy, xuất hiện một khái niệm mới
“Khách tham quan” – là những người vui chơi giải trí trong khoảng thời gian
dưới 24 giờ.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh cũng như trong lí luận, khơng nên
phân biệt và tách rời hai khái niệm “Du khách” và “Khách tham quan”. Để thống
nhất hai khái niệm này, năm 1963 tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về du hành và
du lịch, tổ chức ở Rome, Ủy Ban thống kê của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một
khái niệm về “khách du lịch” như sau:
“Khách du lịch quốc tế là người thăm viếng một số nước khác ngoài nước
cư trú của mình cho bất kì lí do nào ngồi mục đích hành nghề để nhận thu nhập
từ nước được viếng thăm”
Về mặt kinh doanh du lịch, điểm khác biệt giữa “du khách” và “khách tham
quan” là việc họ có lưu lại qua đêm hay khơng.
Những khái niệm trên khá rõ ràng và chi tiết nhưng vẫn chưa xác định được
giới hạn trên của thời gian mà du khách lưu lại. Đứng trước tình trạng số lượng
người nhập cư từ các nước đang phát triển ngày càng nhiều, cần phân biệt họ với
khách du lịch để tránh việc người nhập cư lại được hưởng những ưu đãi của
khách du lịch. Năm 1989, Hội nghị Liên minh Quốc hội về du lịch tổ chức ở
17
Lahaye (Hà Lan) đã ra “Tuyên bố Lahaye về du lịch”, trong đó đưa ra khái niệm
về “Visitor” trên tinh thần khái niệm được đưa ra ở Rome (năm 1963) và xác định
giới hạn trên của thời gian mà du khách lưu lại. Điều IV ghi rõ:
“Khách du lịch quốc tế là những người:
(1) Trên đường đi thăm hoặc đi thăm một nước, khác với nước mà họ cư trú
thường xuyên.
(2) Mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi với thời
gian không quá 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải có phép gia hạn.
(3) Khơng được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn
của khách hay do yêu cầu của nước sở tại.
(4) Sau khi kết thúc đợt tham quan (hay lưu trú) phải rời khỏi nước đến tham
quan để về nước thường trú của mình hoặc đi đến một nước khác.
Những người không được coi là khách du lịch quốc tế là: Những người
không thỏa mãn những điều kiện trên. Đặc biệt là những người sau khi đã vào
một nước nào đó với tư cách là khách tham quan hay lưu trú du lịch lại tìm cách
kéo dài thời gian lưu trú của mình để ở lại hẳn nước này”.
Hiện nay, định nghĩa này được nhiều nước trên thế giới công nhận và sử
dụng. Ở Việt Nam, khách du lịch quốc tế là: “Những người nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam và lưu trú lại qua đêm trên lãnh
thổ Việt Nam”.
Nếu khái niệm về “khách du lịch quốc tế” đã được thống nhất thì đến nay,
khái niệm về “khách du lịch nội địa” ở các nước khác nhau vẫn chưa có cùng
quan điểm.
Xét một cách tổng quát, khách du lịch nội địa được phân biệt với khách du
lịch quốc tế ở chỗ, nơi đến của họ cũng chính là nước họ cư trú thường xuyên. Họ
cũng được phân biệt với những người lữ hành khác trong nước ở mục đích
chuyến đi, khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú (tùy theo chuẩn mực của
từng quốc gia).
Ví dụ:
+ Đối với nước Pháp, du khách là tất cả những người rời khỏi nơi cư trú
thường xun của mình ít nhất là 24 giờ (hay qua đêm) và nhiều nhất là 4 tháng
theo một trong các lí do sau: Giải trí (nghỉ hè, nghỉ phép,…), sức khỏe (liệu pháp
chữa bệnh bằng nước khống, liệu pháp biển,…), cơng tác và hội họp dưới mọi
18
hình thức (hội nghị, hội thảo, hành hương tơn giáo, các ngày hội thể thao và các
cuộc hành trình cơng vụ khác).
+ Người Mĩ thì cho rằng: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một
nơi xa, ít nhất 50 dặm (tính trên một chiều) với những mục đích khác nhau ngồi
việc đi làm hàng ngày.
+ Ở Canada thì cũng có quan điểm như Mĩ nhưng với khoảng cách ngắn
hơn: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi xa, ít nhất 25 dặm và
có thể nghỉ lại đêm hoặc rời khỏi thành phố và nghỉ lại đêm.
+ Ở nước ta, khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam đi tham quan và
lưu lại qua đêm tại một địa điểm lưu trú của cơ sở du lịch trong nước.
1.1.1.3. Khái niệm cung – cầu du lịch
Quan hệ cung – cầu trong du lịch là mối quan hệ cơ bản của thị trường du
lịch. Cũng như thị trường các loại hàng hóa khác, thị trường du lịch là lĩnh vực
thực hiện sự mua bán sản phẩm du lịch vì mục đích thỏa mãn nhu cầu, mong
muốn và sức mua của khách hàng. Thể hiện mối quan hệ giữa một bên là nhu cầu
có khả năng thanh tốn của các nhóm khách hàng nhưng chưa được đáp ứng và
một bên là khả năng thỏa mãn nhu cầu (khả năng cung ứng) của bên cung cấp sản
phẩm du lịch. Đó thực chất là mối quan hệ cung – cầu trong du lịch.
Cũng như đối với các loại sản phẩm hàng hóa khác, cung – cầu trên thị
trường du lịch có mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau. Cung tác
động lên cầu thơng qua khối lượng và cơ cấu của nó. Ngược lại, cầu ảnh hưởng
đến sự phát triển của cung, kích thích hay hạn chế sự phát triển của cung thơng
qua giá cả và sự biến động của nó giữa các vùng qua các thời kì.
Quan hệ cung – cầu trong du lịch có những đặc điểm cơ bản sau:
-
Nhu cầu du lịch có tính thời vụ rõ rệt.
Nguồn cung du lịch có tính thời vụ tương đối.
Với những đặc điểm như trên, quan hệ cung – cầu trong du lịch phụ thuộc
nhiều vào sự dao động của nhu cầu du lịch qua các năm và đặc biệt là các tháng
trong năm. Do vậy, quan hệ cung – cầu trong du lịch cần phải được xem xét, giải
quyết trong một phạm vi nhất định về không gian và thời gian. Về không gian, ta
xét mối quan hệ cung – cầu trên thị trường du lịch nơi đến (vì nguồn cung du lịch
có tính cố định). Về mặt thời gian, ta xét quan hệ cung - cầu dưới ảnh hưởng của
sự dao động nhu cầu du lịch giữa các tháng trong năm (thể hiện quy luật thời vụ
du lịch).
19
Trên cơ sở đó, quan hệ cung – cầu du lịch đòi hỏi trong ngành du lịch cần
phải cố gắng giảm các dao động thời vụ càng nhiều càng tốt. Ngoài ra, vấn đề cần
quan tâm là tuyển chọn một mức cung thích hợp nhất với các mức cầu đang dao
động.
1.1.1.4. Khái niệm tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là loại tài nguyên có những đặc điểm giống những loại
tài nguyên nói chung, song có một số đặc điểm riêng gắn với sự phát triển của
ngành Du lịch.
Theo quan điểm của Pirojnik: “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự
nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc
phục hồi và phát triển thể lực tinh thần của con người, khả năng lao động và sức
khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng
kinh tế kĩ thuật cho phép, chúng được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra
những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”.
Cùng quan điểm với Pirojnik, Nguyễn Minh Tuệ cũng cho rằng: “Tài
nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của
chúng góp phần khơi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao
động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực
tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”.
Khoản 4 (Điều 4, chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định:
“Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn
hóa, cơng trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có
thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành
các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
1.1.1.5. Sản phẩm du lịch
Khi đề cập đến bất cứ hoạt động kinh doanh nào, chúng ta không thể không
nhắc đến sản phẩm của hoạt động đó. Trong hoạt động du lịch cũng vậy, khi tìm
hiểu về du lịch, chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm du lịch và
những nét đặc trưng cơ bản của nó.
a. Khái niệm.
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo
nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng
các nguồn lực: Cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay
20
một quốc gia nào đó nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị,
một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.
b. Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch.
Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả
những yếu tố hữu hình và những yếu tố vơ hình. Trong đó,yếu tố hữu hình là
hàng hóa, yếu tố vơ hình là các dịch vụ.
Xét theo q trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du
lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các
nhóm cơ bản sau:
- Dịch vụ vận chuyển.
- Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống.
- Dịch vụ tham quan, giải trí.
- Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm.
- Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
c. Những nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch có những đặc điểm sau:
Thứ nhất là sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đặc biệt
như: nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hóa lịch sử, nhu cầu thưởng thức cảnh đẹp
thiên nhiên,… Mặc dù trong cấu thành sản phẩm du lịch, có những hàng hóa và
dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ăn ở, đi lại,… của con người. Nhưng mục đích chính
của chuyến du lịch khơng phải là để thỏa mãn những nhu cầu ấy mà là để tìm
hiểu, nghiên cứu, thưởng thức, mở rộng thêm hiểu biết. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở
đây là căn cứ vào nhu cầu của du khách để làm cho họ được cảm thấy hài lòng.
Thứ hai là sản phẩm du lịch chỉ thỏa mãn những nhu cầu thứ yếu của con
người. Nhu cầu du lịch chỉ được đặt ra khi con người có thời gian rỗi và có thu
nhập cao. Mặc dù trong suốt quá trình du lịch, con người vẫn phải thỏa mãn cả
những nhu cầu thiết yếu như ăn ở, đi lại… Nhưng vấn đề chính là sản phẩm du
lịch thỏa mãn những nhu cầu thứ yếu.
Thứ ba là sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể cũng không tồn tại
dưới dạng vật thể. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường
chiếm 80 – 90% về mặt giá trị), hàng hóa chiếm tỉ trọng nhỏ. Thực ra, sản phẩm
du lịch là một kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể, dù trong cấu
thành sản phẩm du lịch có cả hàng hóa. Sản phẩm du lịch là khơng cụ thể, do đó
khơng thể đặt ra vấn đề nhãn hiệu như hàng hóa cụ thể. Vì vậy mà sản phẩm du
21
lịch rất dễ bị bắt chước, người ta có thể sao chép những chương trình du lịch đã
đặt ra, bắt chước cách bày trí phịng, quy trình phục vụ được nghiên cứu cơng
phu. Mặt khác, do tính chất khơng cụ thể nên khách hàng không thể kiểm tra chất
lượng sản phẩm trước khi mua. Vì vậy, nhiều người chưa từng đi du lịch sẽ phân
vân khi chọn sản phẩm du lịch. Chính vì vậy, vấn đề quảng cáo trong du lịch là
rất quan trọng.
Thứ tư, việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng một thời gian và địa
điểm với việc sản xuất ra chúng. Do đó, sản phẩm du lịch về cơ bản là không thể
dự trữ được. Khi một buồng trong khách sạn không được thuê trong đêm nay
đồng nghĩa với việc khách sạn sẽ mất doanh thu chứ không thể để dành lưu kho
rồi cộng thêm số buồng cho thuê trong đêm mai được. Như vậy, khách du lịch
không thể thấy sản phẩm trước khi mua. Thêm vào đó, chúng ta khơng thể vận
chuyển sản phẩm du lịch tới cho khách hàng mà khách hàng phải tự đến nơi sản
xuất ra sản phẩm du lịch.
Đặc điểm cuối cùng của sản phẩm du lịch là việc tiêu dùng sản phẩm du
lịch có tính thời vụ. Đây là hiện tượng bất ổn định trong quan hệ cung – cầu du
lịch. Khi thì lượng cầu quá cao tới mức cung khơng đáp ứng được cầu. Khi thì
lượng cầu lại quá thấp làm hao phí nguồn cung. Nguyên nhân chính là do trong
du lịch, lượng cung khá ổn định trong thời gian tương đối dài trong khi đó nhu
cầu của khách hàng thì thường xuyên thay đổi, làm nảy sinh độ chênh lệch thời
vụ giữa cung và cầu. Chính vì vậy mà trong kinh doanh du lịch có tính thời vụ.
Đúng như Giáo sư, Tiến sĩ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch
thế giới đã nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy
nhiêu định nghĩa”.
1.1.2. Tính thời vụ trong du lịch
1.1.2.1. Khái niệm tính thời vụ trong du lịch
a) Tính thời vụ trong du lịch
Du lịch là ngành kinh doanh dịch vụ là chủ yếu (hoạt động kinh doanh ở
đây chủ yếu là phục vụ chứ không phải là sản xuất). Do tác động của nhiều nhân
tố khác nhau mà hoạt động du lịch mang tính thời vụ. Tính thời vụ đó đã gây
những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh du lịch. Nghiên cứu tính thời
vụ của du lịch luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của các nhà khoa học và
các nhà kinh doanh thuộc lĩnh vực này.
22
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 cho đến cuối những năm 60 của thế kỉ
trước, việc nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch tập trung chủ yếu vào nguồn gốc,
bản chất, đặc điểm của thời vụ du lịch và những nhân tố quyết định độ dài của thời
vụ du lịch.
Thời gian gần đây, tuy vẫn quan tâm đến khía cạnh lý thuyết của vấn đề
này, song các tổ chức quốc gia và quốc tế về du lịch tập trung nhiều hơn vào việc
soạn thảo, thực nghiệm và ứng dụng những kế hoạch tổng hợp nhằm hạn chế
những tác động bất lợi của tính thời vụ du lịch, kéo dài đáng kể thời vụ trong du
lịch.
Theo Tiến sĩ Trần Văn Thông: “Thời vụ du lịch được hiểu là những biến
động lặp đi, lặp lại hàng năm của cung và cầu các dịch vụ hàng hóa du lịch dưới
tác động của một số nhân tố xác định”.
Theo PGS.TS Trần Đức Thanh: “Tại một điểm du lịch cụ thể, có thể quan
sát thấy cường độ hoạt động của du lịch khơng đồng đều theo thời gian. Có những
lúc, hầu như khơng có khách, ngược lại, có những giai đoạn nhất định, dòng du
khách đổ về quá sức chịu tải của khu vực. Hiện tượng có hoạt động du lịch lặp lại
khá đều đặn vào một số thời điểm trong năm gọi là mùa hay thời vụ du lịch”.
Cho đến nay, nhiều tác giả có chung quan điểm về tính thời vụ trong du lịch
như sau: Tính thời vụ trong du lịch là sự dao động lặp đi, lặp lại đối với cung và
cầu của các dịch vụ và hàng hóa du lịch, xảy ra dưới tác động của các nhân tố nhất
định. Thời vụ du lịch là khoảng thời gian của một chu kì kinh doanh, mà tại đó có
sự tập trung cao nhất của cung và cầu du lịch.
Ở đây phải nhấn mạnh rằng: Việc xác định thời vụ của từng loại hình du
lịch: du lịch nghỉ núi, du lịch nghỉ biển, du lịch chữa bệnh, du lịch hội thảo,…
được thực hiện dễ hơn, bởi các dao động của từng loại hình du lịch thường chỉ
diễn ra một lần trong năm.
Trên thực tế, tính thời vụ du lịch của một trung tâm, một đất nước nào đó là
tập hợp và sự tác động tương hỗ giữa các dao động theo mùa của cung và cầu của
các loại hình du lịch được kinh doanh tại đó.
Sự chênh lệch về thời gian giữa các thể loại du lịch và cường độ biểu hiện
của từng thể loại du lịch chính là nguyên nhân tạo ra đường cong thể hiện các dao
động thời vụ của toàn bộ hoạt động du lịch.
Thời gian của mùa vụ du lịch là một đại lượng thay đổi chứ khơng phải là
bất biến. Nó phụ thuộc vào tính chất và xu hướng phát triển của hoạt động du lịch.
23
b) Các mùa trong du lịch
Cường độ nhu cầu du lịch không giống nhau giữa các tháng trong năm tạo
ra các thời kì có lượng cầu khác nhau, đó là các mùa trong du lịch.
- Mùa chính du lịch là khoảng thời gian có cường độ tiếp nhận khách du
lịch cao nhất.
- Mùa trái du lịch là khoảng thời gian có cường độ thu hút khách du lịch
thấp nhất (cịn gọi là mùa chết).
Ngồi ra, người ta cịn xác định khoảng thời gian kề trước và kề sau mùa
chính du lịch:
- Trước mùa du lịch là khoảng thời gian có cường độ thấp hơn mùa chính,
xảy ra trước mùa chính du lịch.
- Sau mùa du lịch là khoảng thời gian có cường độ thấp hơn mùa chính ,
xảy ra sau mùa du lịch.
1.1.2.2. Đặc điểm tính thời vụ trong du lịch
Như đã trình bày ở phần trên, thời gian và cường độ của thời vụ du lịch
không phải là cố định mà chúng biến đổi dưới tác động của nhiều nhân tố. Dưới sự
tác động của các nhân tố khác nhau, thời vụ du lịch có những đặc điểm riêng:
a) Tính thời vụ trong du lịch là một hiện tượng phổ biến và khách quan ở
hầu hết tất cả các nước, các vùng có hoạt động du lịch.
Về mặt lý thuyết, nếu một vùng du lịch kinh doanh nhiều loại hình du lịch
và đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong các tháng của năm (luôn giữ
được lượng khách và doanh thu nhất định) thì tại vùng đó, tính thời vụ du lịch là
khơng tồn tại. Tuy nhiên, khả năng này là rất khó thực hiện vì có rất nhiều yếu tố
tác động đến hoạt động du lịch (lượt khách, doanh thu,…) làm cho hoạt động đó
khó có thể đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong năm. Vì vậy, tính thời
vụ trong du lịch là hiện tượng phổ biến và tất yếu.
b) Thời gian và cường độ các mùa có sự khác biệt, phụ thuộc vào từng loại
khách du lịch. Các trung tâm dành cho du lịch thanh niên thường có mùa ngắn hơn
và có cường độ mạnh hơn so với những trung tâm an dưỡng. Nguyên nhân ở đây
là do thanh, thiếu niên thường hay đi theo đoàn, hội và vào các dịp nghỉ hè, nghỉ
tết ngắn hạn.
c) Thời gian và cường độ các mùa có sự khác biệt, phụ thuộc vào mức độ
khai thác tài nguyên du lịch và điều kiện đón tiếp phục vụ khách du lịch. Ở những
24
nơi có các cơ sở lưu trú chính xây dựng dưới dạng những cơng trình ổn định và
kiên cố (khách sạn, motel, khu điều dưỡng,…) thì mùa du lịch kéo dài hơn và
cường độ của mùa du lịch chính khơng chênh lệch quá cao so với thời gian còn lại.
Và ngược lại, ở đâu sử dụng nhiều nhà trọ hoặc cơ sở lưu trú dưới dạng camping
thì ở đó mùa du lịch ngắn hơn và cường độ khá cao.
Đặc điểm này là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau như:
Những nơi có chủ yếu là các cơ sở lưu trú chính thì việc đầu tư và bảo
dưỡng sẽ tốn kém hơn đẫn đến các nhà kinh doanh phải có các biện pháp kéo dài
thời vụ du lịch hơn. Ngược lại, những nơi có thời vụ du lịch ngắn hơn thì nhu cầu
đầu tư và xây dựng các cơ sở lưu trú chính ít hơn. Vì vậy, các cơ sở lưu trú dạng
nghỉ trọ hay camping là lựa chọn phù hợp, vừa linh hoạt và vừa tốn ít chi phí hơn.
d) Với từng loại hình du lịch khác nhau thì thời gian và cường độ các mùa
du lịch cũng khác nhau. Ví dụ như: Du lịch chữa bệnh thường có mùa dài hơn và
cường độ vào mùa chính yếu hơn so với loại hình du lịch nghỉ ngơi vùng biển
thường có mùa du lịch ngắn hơn nhưng với cường độ mạnh hơn.
e) Thời gian và cường độ du lịch khác nhau tùy thuộc vào điều kiện phát
triển du lịch và kinh nghiệm kinh doanh du lịch của từng quốc gia, từng vùng.
Nếu cùng kinh doanh một loại hình du lịch, với các điều kiện về tài nguyên
du lịch tương đối như nhau thì ở các nước, các vùng phát triển hơn, có kinh
nghiệm kinh doanh du lịch nhiều hơn thì thời vụ du lịch thường được kéo dài hơn
và cường độ của mùa du lịch yếu hơn. Ngược lại, tại các nước, các vùng mới phát
triển và có ít kinh nghiệm kinh doanh du lịch (chính sách tiếp thị, quảng cáo chưa
tốt) thì thường có mùa du lịch ngắn hơn và cường độ mùa du lịch chính là mạnh
hơn.
f) Một nước hoặc một vùng du lịch có thể có một hoặc nhiều mùa du lịch
phụ thuộc vào khả năng đa dạng hóa các loại hình du lịch ở đó.
Một nước hay một vùng chỉ phát triển một loại hình du lịch là chủ yếu như
nghỉ biển hay nghỉ núi thì ở đó chỉ có một mùa du lịch là vào mùa hè hoặc mùa
đông. Nhưng nếu tại một khu nghỉ mát biển lại có nhiều nguồn nước khống có
giá trị thì ở đó sẽ phát triển mạnh hai thể loại du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè
và du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh vào mùa đông. Như vậy, tại nơi đó có hai mùa
du lịch trong một năm.
VD: Những địa điểm du lịch ở Việt Nam thường có một mùa du lịch trong
năm như: Sa Pa (mùa đông), Tam Đảo (mùa đông), Cù Lao Chàm (mùa hè),…
25