ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀ NH CỬ NHÂN VĂN HỌC
Đề tài:
KHẢO SÁT TỪ CHUYỂN LOẠI TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
Người hướng dẫn:
TS. Trương Thị Diễm
Người thực hiện:
Lê Thi Ánh
̣
Đà Nẵng, tháng 5/2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi: Lê Thi ̣ Ánh, sinh viên lớp 09CVH3, khoa Ngữ Văn, trường Đa ̣i ho ̣c Sư
pha ̣m - Đa ̣i ho ̣c Đà Nẵng, xin cam đoan rằ ng: Công trin
̀ h này do tôi thực hiê ̣n dưới
sự hướng dẫn của TS. Trương Thị Diễm.
Tôi xin chiụ hoàn toàn trách nhiê ̣m về nô ̣i dung, tiń h khoa ho ̣c trong công
trình này.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 05 năm 2013
Người thực hiê ̣n
Lê Thi Ánh
̣
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài Khảo sát từ chuyển loại trong
thơ Chế Lan Viên, Tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình,
chu đáo của Cơ giáo: TS. Trương Thị Diễm – người hướng
dẫn trực tiế p, ta ̣o mo ̣i điề u liê ̣n giúp đỡ tôi trong suố t thời
gian thực hiê ̣n đề tài. Tôi xin được tỏ lòng biế t ơn sâu sắc
đế n Cô.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầ y,
cô giáo trong khoa Ngữ Văn – Trường Đa ̣i ho ̣c Sư Pha ̣m Đà
Nẵng, các thầ y cô trong thư viê ̣n đã giúp đỡ tôi về mo ̣i mă ̣t
trong thời gian qua.
Xin cảm ơn gia điǹ h, ba ̣n bè đã đóng góp những ý
kiế n quý báu cùng những lời đô ̣ng viên tôi trong suố t quá
trình làm khóa luâ ̣n.
Xin trân trọng cảm ơn !
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Lê Thi Ánh
̣
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................4
5. Bố cục của khóa luận ............................................................................................4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..............................5
1.1. Từ loại và hiện tượng chuyển loại ....................................................................5
1.1.1. Các tiêu chí phân định từ loại trong tiếng Việt ...........................................5
1.1.1.1. Tiêu chí ý nghĩa khái quát của lớp từ ......................................................5
1.1.1.2. Tiêu chí đặc điểm hoạt động ngữ pháp của lớp từ ..................................6
1.1.1.3. Tiêu chí chức năng ngữ pháp của từ .......................................................7
1.1.2. Hiện tượng chuyển loại ................................................................................9
1.1.2.1. Khái niệm hiện tượng chuyển loại ..........................................................9
1.1.2.2. Những phương thức chuyển loại ...........................................................12
1.2. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm Chế Lan Viên ...............................................14
1.2.1. Về tác giả Chế Lan Viên .............................................................................14
1.2.2. Giới thiệu chung về thơ Chế Lan Viên ......................................................17
CHƯƠNG 2. TỪ CHUYỂN LOẠI XUẤT PHÁT TỪ TỪ LOẠI THỰC TỪ ...20
2.1. Khảo sát từ chuyển loại trong nội bộ thực từ ................................................20
2.1.1. Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại danh từ .............................................20
2.1.1.1. Danh từ dùng như động từ ....................................................................20
2.1.1.2. Danh từ dùng như tính từ ......................................................................21
2.1.1.3. Danh từ dùng như đại từ .......................................................................24
2.1.2. Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại động từ .............................................24
2.1.2.1. Động từ dùng như danh từ ....................................................................25
2.1.2.2. Động từ dùng như tính từ ......................................................................26
2.1.3. Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại tính từ ...............................................26
2.1.3.1. Tính từ dùng như danh từ ......................................................................26
2.1.3.2. Tính từ dùng như động từ ......................................................................27
2.2. Khảo sát từ chuyển loại từ thực từ sang hư từ ..............................................30
2.2.1. Động từ sang quan hệ từ ............................................................................30
2.2.2. Động từ sang phó từ ..................................................................................32
2.2.3. Động từ sang tình thái từ ...........................................................................35
2.2.4. Danh từ sang quan hệ từ ............................................................................35
2.3. Giá trị của việc chuyển loại xuất phát từ từ loại thực từ trong thơ ............39
Chế Lan Viên ...........................................................................................................39
CHƯƠNG 3. TỪ CHUYỂN LOẠI XUẤT PHÁT TỪ TỪ LOẠI HƯ TỪ .......57
3.1. Khảo sát từ chuyển loại xuất phát từ từ loại hư từ .......................................57
3.1.1. Phó từ sang quan hệ từ ..............................................................................57
3.1.2. Quan hệ từ sang tình thái từ ......................................................................58
3.2. Giá trị của việc chuyển loại xuất phát từ từ loại hư từ trong thơ................60
Chế Lan Viên ...........................................................................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................67
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca hiện đại
Việt Nam thế kỉ XX. Hơn 50 năm lao động nghệ thuật, ông để lại cho đời 13 tập
thơ, trong đó có những thi phẩm đã gây được tiếng vang lớn, trở thành những hiện
tượng nổi bật trong đời sống văn học đương thời. Chế Lan Viên có quan niệm thơ
và phong cách nghệ thuật độc đáo, có ảnh hưởng lớn đến nền thơ Việt Nam hiện
đại. Ông chính là một nhà nghệ sĩ lớn, ln trăn trở tìm tịi trên con đường nghệ
thuật. Hơn nửa thế kỉ sáng tác, ơng đã thử mình trên nhiều khuynh hướng nghệ
thuật và ở chặng đường nào cũng đã gặt hái được những thành công nổi bật. Nhưng
nhà thơ vẫn luôn khơng tự bằng lịng với mình, bởi: Cái trang mơ ước một đời chưa
với tới và khắt khe với chính mình khi nhìn lại đời thơ: Một nghìn câu thơ thì chín
trăm câu dang dở, Ai đón đợi thơ tơi ở cuối con đường (Hồi kí bên trang viết).
Có thể nói, Thơ là một thể loại rất thành cơng và cũng là sở trường của Chế
Lan Viên. Thơ Chế Lan Viên vừa độc đáo vừa sâu sắc, vừa thẳng thắn mà lại chân
thành. Những tác phẩm của ông không chỉ là những khám phá về mặt nội dung mà
còn là những phát minh về mặt hình thức. Ơng ln quan niệm hình thức cũng là vũ
khí, và chính những phát minh về mặt hình thức ấy đã in đậm dấu ấn cá nhân, tạo
nên một phong cách riêng cho nhà thơ. Chế Lan Viên thành công trên mọi phương
diện, từ đề tài, cảm hứng đến chất liệu, hình ảnh, từ giọng điệu, ngôn ngữ đến thể
thơ và bút pháp…Bởi vậy, thơ ông đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu và phê bình văn học. Tiếng Việt qua thơ Chế Lan Viên rất sinh động, trong
sáng và hấp dẫn. Đặc biệt là đối với người dạy - học văn quan tâm đến vấn đề ngôn
ngữ trong thơ là điều rất cần thiết, bởi có hiểu cách dùng từ ngữ thì mới hiểu và
hiểu sâu được nội dung của tác phẩm.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các tác phẩm của Chế Lan Viên, đặc
biệt là thơ. Mỗi cơng trình nghiên cứu một vấn đề khác nhau nhưng nhìn chung đều
đi vào khẳng định giá trị thơ của ông. Tuy nhiên vấn đề: Khảo sát từ chuyển loại
2
trong thơ Chế Lan Viên lại chưa có một cơng trình nào nghiên cứu. Do đó, nghiên
cứu đề tài: Khảo sát từ chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên, chúng tơi cũng mong
muốn góp thêm một phần nhỏ trong việc chứng minh tính độc đáo, cá tính sáng tạo
rất riêng chỉ có ở Chế Lan Viên. Đồng thời, việc thực hiện đề tài cũng sẽ giúp cho
chúng tơi có một cái nhìn sâu sắc hơn về tài năng sử dụng từ ngữ của Chế Lan Viên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong cuốn Giáo trình Từ pháp học tiếng Việt tác giả Nguyễn Văn Chính đã
khái quát về lịch sử nghiên cứu từ loại tiếng Việt như sau: Vấn đề từ loại đã được
quan tâm, chú ý từ rất sớm, bắt nguồn từ những cơng trình nghiên cứu thời cổ đại
Hy Lạp và La Mã. Tuy vậy, cho đến nay, vấn đề phân định từ loại là không giống
nhau cho tất cả mọi ngôn ngữ. Ngay trong ngôn ngữ Việt, vấn đề từ loại cũng chưa
có sự thống nhất ở các nhà Việt ngữ học.Trong lĩnh vực ngôn ngữ học việc nghiên
cứu về từ loại tiếng Việt đã được các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn,
Hà Quang Năng, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp…chú ý nghiên cứu về ý
nghĩa khái quát của lớp từ, đặc điểm hoạt động ngữ pháp của lớp từ, chức năng ngữ
pháp của lớp từ.
Vấn đề mà chúng tơi khảo sát trong khóa luận này là Từ chuyển loại trong thơ
Chế Lan Viên. Đây là hiện tượng tồn tại khách quan ở mọi ngôn ngữ và là một hiện
tượng rất phổ biến đối với loại hình ngơn ngữ đơn lập.
Nhìn tổng quan, đã có những cơng trình nghiên cứu về từ loại tiếng Việt
trong đó có đề cập đến sự chuyển loại. Những chun luận, các bài nghiên cứu trên
tạp chí Ngơn ngữvề sự chuyển loại có thể kể đến như: Cách xử lí những hiện tượng
trung gian trong ngơn ngữ của Đỗ Hữu Châu in trong tạp chí Ngơn ngữ số 1,1971,
Các cấp bậc khác nhau của hiện tượng chuyển loại trong Tiếng Việt của TS.Trương
Thị Diễm, Xây dựng một hệ thống bài tập trên ngữ liệu ca từ để giảng dạy sinh
động và hiệu quả hơn phần từ loại tiếng Việt cho sinh viên đại học của TS.Trương
Thị Diễm - đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, ĐHSP-ĐHĐN, 2004.
Vấn đề chuyển loại đã được đề cập đến trong một số cơng trình như: Ngữ
pháp tiếng Việt, của Diệp Quang Ban, Giáo trình từ pháp học tiếng Việt của
3
Nguyễn Văn Chính, Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt của Bùi Minh Toán (chủ biên),
Nguyễn Thị Lương, Từ loại tiếng Việt hiện đại của Lê Biên, Ngữ pháp tiếng Việt
của Đỗ Thị Kim Liên. Tuy nhiên ta vẫn chưa thấy có sự nhất quán trong cách sử
dụng thuật ngữ, khái niệm về sự chuyển loại và những phương thức chuyển loại.
Xung quanh tác giả Chế Lan Viên - con người và sáng tác, cũng đã có nhiều
bài viết trong giới nghiên cứu, phê bình văn học trong nhiều năm qua. Song rất ít
cơng trình nghiên cứu về ngơn ngữ. Tuy nhiên, cũng có thể kể đến một số bài viết
của các tác giả sau đã ít nhiều đề cập đến vấn đề ngôn ngữ trong tác phẩm của Chế
Lan Viên như: Hồi Thanh, Xn Diệu, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Hà
Minh Đức…Lịch sử văn học Việt Nam của Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Văn
Long đã khái quát nội dung một số tập thơ của Chế Lan Viên và cũng đã ít nhiều đề
cập đến hình thức nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên. Cụ thể, trong tập Điêu Tàn
Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Văn Long khẳng định: phải nói rằng Điêu Tàn đã
phát lộ một hồn thơ mãnh liệt, chứa đựng một nội lực thi ca đáng khâm phục.
Những hình ảnh kinh dị gây ám ảnh lạ lùng là sản phẩm của trí tưởng tượng phong
phú, sức liên tưởng dồi dào phóng túng [17, tr. 208 ]; cịn trong tập Ánh sáng và phù
sa, họ lại khẳng định: Ngòi bút của Chế Lan Viên phóng khống, uyển chuyển, đa
dạng và biến hoá trong giọng điệu, khi thủ thỉ tâm tình, khi trầm tư suy nghĩ, khi sơi
nổi trẻ trung, khi ngậm ngùi, xa xót... Hồn thơ ơng có khi bay bổng với những hình
ảnh kỳ ảo..., có khi thâm trầm mà thấm thía...Cảm xúc thơ có khi nén chặt , hàm súc
trong các bài tứ tuyệt, có lúc mở ra bát ngát với những câu thơ tự do kéo dài rất
đặc biệt… [17, tr .214 ].
Hay trong cơng trình nghiên cứu Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy
tưởng, Nguyễn Bá Thành đã đề cập đến giá trị nghệ thuật ở Điêu Tàn. Cịn Ánh
sáng và phù sa ơng lại đi vào phân tích từng loại suy tưởng, suy tưởng về thơ, tình
yêu, Tổ quốc…
Cũng nghiên cứu về Chế Lan Viên, nhưng Hồ Thế Hà lại tìm hiểu ở một khía
cạnh khác. Trong cuốn Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, ông đã dành hẳn một
chương cho phương thức biểu hiện về chất thơ và đặc điểm của thi pháp biểu hiện,
4
các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, các thể thơ tiêu biểu. Trong cuốn Nghệ thuật thơ
Chế Lan Viên, Đoàn Trọng Huy cũng đã dành những chương riêng biệt nghiên cứu
về ngơn ngữ thơ, hình ảnh thơ, thể loại thơ của Chế Lan Viên.
Như vậy, hầu hết các cơng trình nghiên cứu vừa nêu trên đều đã khẳng định
được tài nghệ của Chế Lan Viên về nội dung thơ ca chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu cơ
chế tổ chức từ ngữ trong các tác phẩm của ông. Do vậy, trên cơ sở tiếp thu những
kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề khảo sát từ
chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên qua một số tập thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Từ chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ khóa luận này, chúng tơi chọn
những tập thơ sau để khảo sát: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1955), Ánh sáng và
Phù sa (1960), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc
(1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1976), Di Cảo (Tập I) trong
cuốn sách của tác giả: Vũ Thị Thường ( Sưu tập, 2002), Chế Lan Viên toàn tập,
NXB Văn học. (Tập 1 và tập 2).
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê;
phương pháp phân loại; Phương pháp đối chiếu, so sánh; Phương pháp tổng hợp,
khái quát.
5. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, khóa luận của chúng tơi gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại thực từ.
Chương 3: Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại hư từ.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Từ loại và hiện tượng chuyển loại
1.1.1. Các tiêu chí phân định từ loại trong tiếng Việt
1.1.1.1. Tiêu chí ý nghĩa khái quát của lớp từ
Trước hết, ta phải hiểu khái niệm từ loại là gì?
Từ loại là lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp được phân chia theo ý nghĩa
phạm trù, theo khả năng kết hợp trong đoản ngữ (cụm từ), trong câu để thực hiện
chức năng ngữ pháp giống nhau.
Ví dụ 1:
Nó nhanh.
Phong cảnh ở đây mĩ lệ.
Như vậy, nhanh và mĩ lệ, tuy khác nhau về ý nghĩa từ vựng nhưng có ý nghĩa
khái quát giống nhau (chỉ tính chất, đặc điểm) và đặc điểm ngữ pháp giống nhau
(cùng làm vị ngữ).
Từ loại tiếng Việt được phân định theo ba tiêu chí. Tiêu chí đầu tiên là dựa
vào ý nghĩa khái quát của lớp từ.
Ý nghĩa từ loại là ý nghĩa khái quát của từng lớp từ, trên cơ sở khái quát hóa
từ vựng thành khái quát hóa phạm trù ngữ pháp chung (phạm trù từ vựng – ngữ
pháp).
Ví dụ 2:
- Sách, vở, giáo viên, sinh viên, học sinh… Các từ trên được phân vào lớp
danh từ, vì cùng chung một ý nghĩa khái qt hóa từ ý nghĩa thực thể, còn gọi là ý
nghĩa sự vật. Ý nghĩa phạm trù ngữ pháp của danh từ.
- Viết, nói, đọc, nghĩ… Các từ trên được phân vào lớp động từ, do ý nghĩa từ
vựng của chúng được khái quát hóa và trừu tượng hóa thành ý nghĩa hoạt động. Ý
nghĩa phạm trù ngữ pháp của lớp động từ.
- Vng, trịn, tốt… Các từ trên được phân vào lớp tính từ, vì cùng chung
một ý nghĩa khái qt chung là ý nghĩa tính chất. Ý nghĩa phạm trù ngữ pháp của
tính từ.
6
- Và, tuy, nhưng,… Biểu thị ý nghĩa quan hệ khi đi vào hoạt động trong cụm
từ, hay trong câu.
Tiêu chí ý nghĩa khái quát của lớp từ là một tiêu chí quan trọng, vì ý nghĩa
khái qt của lớp từ chi phối những đặc điểm trong hoạt động ngữ pháp của từ.
Nhưng nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa khái quát của lớp từ thì chưa đủ. Vì thế, ngồi
tiêu chí về ý nghĩa khái qt của lớp từ, cịn cần phải sử dụng các tiêu chí về hình
thức ngữ pháp.
1.1.1.2. Tiêu chí đặc điểm hoạt động ngữ pháp của lớp từ
Hình thức ngữ pháp của từ tiếng Việt không bộc lộ trong bản thân từ. Từ
tiếng Việt chỉ bộc lộc các đặc điểm ngữ pháp trong hoạt động cấu tạo các đơn vị lớn
hơn: cụm từ và câu. Vì vậy, khi xem xét đặc điểm hoạt động ngữ pháp của từ tiếng
Việt, cần phải dựa vào khả năng kết hợp của từ khi cấu tạo cụm từ và khả năng đảm
nhiệm các thành phần câu.
a. Khả năng kết hợp của từ để cấu tạo cụm từ
Vì từ của tiếng Việt không bộc lộ đặc điểm ngữ pháp của từ loại mà nó là
thành viên qua hình thức ngữ âm, hình thức cấu tạo, hình thức biến đổi của bản thân
nó, mà chỉ thể hiện đặc điểm ngữ pháp khi kết hợp với các từ xung quanh (trước và
sau nó), cho nên cần căn cứ vào các từ xung quanh để xác định đặc điểm ngữ pháp,
bản chất từ loại của từ.
Năm 1948, Lê Văn Lý đã đề xuất tiêu chuẩn phân định từ loại tiếng Việt dựa
vào các từ chứng. Những từ cùng xuất hiện trong cùng một bối cảnh, có khả năng
thay thế nhau ở cùng một vị trí, có tính chất thường xun, được tập hợp vào một
lớp từ. Các từ tạo ra bối cảnh thường xuyên cho các từ có thể thay thế nhau ở vị trí
nhất định,được gọi là từ chứng. Vì vậy, muốn phân định được từ loại của các từ cần
xem xét khả năng kết hợp với các từ chứng.
Ví dụ1:
Những, các, vài/sinh viên (học sinh)/này, kia, ấy.
Lượng từ
danh từ
chỉ từ
7
Tất cả/ những/ cái/ con/ gàmái/ đen/ ấy.
3
2
1
D1 D2
-1
-2
Trên đây là một cụm danh từ, gồm có 7 vị trí. Vị trí trung tâm là danh từ chỉ
loại (D1) và danh từ chỉ sự vật (D2). Phía trước danh từ là từ "cái" chỉ xuất(1), từ
chỉ lượng (2), từ chỉ tổng thể (3). Phía sau danh từ có hai vị trí: định ngữ (1), và từ
chỉ định (2).
Ví dụ 2: Những từ: nhà, bàn, chim, người, nhà máy, con, cái…đều có khả
năng kết hợp với các chỉ từ (này, kia, ấy, nọ, đó…) ở phía sau: nhà này, bàn này,
chim này, người này, con ấy, nhà máy kia,… hay với các từ chỉ lượng tức số lượng,
lượng từ (sáu, bảy, vài, mươi,…) ở phía trước: vài người, sáu nhà máy, những đứa
trẻ, tất cả mọi người,…Như vậy, khả năng kết hợp (ở trước và ở sau) với các từ
chứng đó xác định các từ trên thuộc từ loại danh từ.
Tiêu chí về khả năng kết hợp của từ được các nhà nghiên cứu tiếng Việt điều
chỉnh, bổ sung và được cơng nhận là một trong số tiêu chí quan trọng trong việc phân
định từ loại. Cùng với ý nghĩa khái quát, căn cứ vào khả năng kết hợp của từ trung tâm
với những từ xung quanh mà xếp từ loại cho những từ đó. Chính vì vậy, đặc trưng về khả
năng kết hợp của các lớp từ là dấu hiệu chủ yếu về ngữ pháp, có tác dụng quyết định
trong việc phân định, quy loại các lớp từ tiếng Việt về mặt từ loại.
b. Khả năng cấu tạo câu, đảm nhiệm chức vụ các thành phần câu
Đây cũng là một phương diện bộc lộ đặc điểm và bản chất ngữ pháp của các từ
trong tiếng Việt. Hoạt động cấu tạo câu chủ yếu được xem xét ở năng lực đảm nhiệm vai
trị của hai thành phần chính (chủ ngữ và vị ngữ) trong nịng cốt của câu đơn bình thường.
Căn cứ vào đó có thể phân biệt những từ có thể đảm nhiệm vai trị các thành
phần chính (danh từ, động từ, tính từ, đại từ) và các từ chỉ đảm nhiệm được vai trò
của các thành phần phụ (số từ, phó từ), hoặc chỉ đảm nhiệm vai trị nối kết các thành
phần câu (quan hệ từ). Ngồi ra cịn có những từ loại khơng đảm nhận vai trị cấu
tạo một thành phần nào trong cấu trúc ngữ pháp cơ bản của câu, mà chỉ thể hiện ý
nghĩa tình thái của câu (tình thái từ, trợ từ, thán từ).
1.1.1.3. Tiêu chí chức năng ngữ pháp của từ
Tham gia vào cấu tạo câu, từ có thể đứng vào từng vị trí khác nhau trong
câu, hoặc có thể thay thế nhau ở từng vị trí đó và cùng biểu thị một mối quan hệ về
8
chức năng ngữ pháp với các thành phần khác trong cấu tạo câu thì xếp vào cùng
một từ loại. Cho nên, ta có thể dùng tiêu chí chức năng ngữ pháp mà từ đảm nhiệm
để làm cơ sở khi phân loại.
Ví dụ 1:
Sinh viên // rất thơng minh.
Bộ đội // rất dũng cảm.
Nông dân // rất cần cù.
CN
VN
Trong câu, danh từ thường làm chủ ngữ, động từ và tính từ thường làm vị ngữ.
Tuy nhiên, có vấn đề là một từ có thể giữ một hoặc hơn một chức năng ngữ
pháp trong câu, nên cần phải xem xét chức năng ngữ pháp nào của từ là chủ yếu để
làm căn cứ phân loại. Vì thế, khơng thể dựa chủ yếu vào tiêu chí này để phân định
từ loại. Do đó, tiêu chí chức năng ngữ pháp ít ổn định hơn so với tiêu chí ý nghĩa
khái quát và đặc điểm hoạt động ngữ pháp của lớp từ. Việc chỉ dựa vào một tiêu chí
duy nhất để phân định từ loại tiếng Việt sẽ mang lại kết quả không cao, không bao
qt tồn bộ diện mạo từ loại tiếng Việt. Chính vì vậy, việc phân định từ loại tiếng
Việt được dựa vào tập hợp ba tiêu chí: ý nghĩa khái quát của từ, khả năng kết hợp
của từ và chức năng cú pháp chủ yếu của từ. Trong đó, các tiêu chí 1 và 2 có tác
dụng nhiều hơn trong việc tập hợp và quy loại từ.Ba tiêu chí đó phải có quan hệ
chặt chẽ, thống nhất khi xem xét từ loại của từ.
Ta có thể đưa sơ đồ về hệ thống từ loại tiếng Việt như sau:
Từ loại tiếng Việt
Hư từ
Thực từ
Danh
từ
Động
từ
Tính
từ
Đại từ
Số từ
Phụ từ (định
từ, chỉ từ,
phó từ)
Sơ đồ khái quát hệ thống từ loại tiếng Việt
Quan hệ
từ
Tiểu từ (tình
thái từ, trợ từ,)
9
1.1.2. Hiện tượng chuyển loại
1.1.2.1. Khái niệm hiện tượng chuyển loại
Hiện tượng chuyển di từ loại là một hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ
và đặc biệt là trong các ngơn ngữ thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập. Chuyển loại là
một hiện tượng tích cực trong ngơn ngữ, là một biểu hiện của quá trình tự điều
chỉnh hệ thống ngôn ngữ, là một trong các phương thức cấu tạo từ. Hiện tượng
chuyển loại là một quá trình cần được xem xét trên quan điểm đồng đại động. Việc
phân biệt chuyển loại với đồng âm và với đa nghĩa; việc chỉ ra các mức độ khác
nhau của quá trình chuyển loại; phân biệt chuyển loại đã ổn định với kiêm nhiệm từ
loại và với chuyển loại lâm thời là một việc làm cần thiết trong quá trình nghiên cứu
từ loại tiếng Việt.
Tiếng Việt thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập, khơng biến đổi hình thái. Số
lượng vỏ âm thanh mà người Việt sử dụng làm vỏ ngữ âm cho hình vị tối đa chỉ có
4 vạn tiếng khác nhau [7, tr.46]. Vì thế, để khắc phục mâu thuẫn giữa cái hữu hạn
của số lượng cái biểu hiện (vỏ ngữ âm của từ) và cái vô hạn của cái được biểu hiện
(hiện thực khách quan cần phản ánh), sự xuất hiện từ mới bằng phương thức dùng
chất liệu sẵn có để tạo nên các từ phức như từ ghép, từ láy hay việc xuất hiện từ đa
nghĩa, từ đồng âm trong ngôn ngữ ngày càng nhiều là một tất yếu. Chính sự phát
triển của xã hội, nhận thức của con người và nhu cầu giao tiếp xã hội là động lực
thúc đẩy ngơn ngữ phải biến đổi.
Sự có mặt của hiện tượng chuyển di từ loại trong ngôn ngữ cũng là vì lẽ trên.
Đứng trên quan điểm đồng đại - động, chúng ta nhận thấy rằng tĩnh chỉ là tạm thời,
tương đối. Vì thế, đường ranh giới của sự phân loại khơng phải bao giờ cũng dứt
khốt, tuyệt đối, vơ điều kiện, bởi vì “mọi ranh giới trong tự nhiên và trong xã hội
đều di động và quy ước đến một mức nào đó” (Lênin). Bản chất của tín hiệu ngôn
ngữ là vận động.
Xét một cách sâu xa, hiện tượng chuyển di từ loại là biểu hiện giữa mối quan
hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, chuyển loại diễn ra là do sự thay đổi
cách thức phản ánh của người Việt, chứ không phải là sự thay đổi đối tượng phản
10
ánh. Đó là sự thay đổi cấu trúc sở biểu của từ. [6, tr.178].
Về hiện tượng chuyển di từ loại có một số định nghĩa đáng chú ý như sau:
Theo tác giả Diệp Quang Ban: “Chuyển di từ loại – Chuyển loại là một hiện
tượng một từ khi thì dùng với ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại này, khi thì
được dùng với ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại khác” [4, tr. 153].
Tác giả Hà Quang Năng viết: “Chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ,
nhờ đó một từ mới thuộc phạm trù từ loại này được tạo ra từ một từ loại khác mà
vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh, đồng thời tạo ra ý nghĩa mới có quan hệ nhất định với
ý nghĩa của từ xuất phát, và nhận những đặc trưng ngữ pháp mới (thể hiện ở khả
năng kết hợp và chức năng làm thành phần câu) khác với đặc trưng ngữ pháp của từ
xuất phát” [15, tr.173].
Tác giả Hồ Lê thì khẳng định chuyển loại là một hiện tượng đặc thù của tiếng
Việt: “Sự chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ, có khả năng tạo từ mới trên cơ sở
từ đã có, bằng cách giữ nguyên vỏ âm của từ cũ, tạo ra một nghĩa mới và đưa vào
những đặc trưng ngữ pháp khác với đặc trưng ngữ pháp của từ cũ” [14, tr. 164].
Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH (1983) thì cho: “Chuyển loại là hiện
tượng về những từ cùng gốc, cùng hình thức ngữ âm, mà có thể dùng theo từ loại
khác nhau” [26, tr. 92].
Các nhà Đông phương học Xô-viết đã khẳng định rằng việc chuyển di "các
từ từ loại này sang từ loại khác mà không thay đổi vỏ âm thanh của chúng (tức là
hiện tượng chuyển loại) là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các ngôn
ngữ này (ngôn ngữ đơn lập)” [dẫn theo Hà Quang Năng, 18, tr.144]. Loại của từ
không phải là bất di bất dịch. Giữa các loại của từ có một bộ phận chuyển hố lẫn
nhau. Chuyển loại cũng là một phương thức cấu tạo từ.
Khi khảo sát về từ loại tiếng Việt, chúng ta thường gặp hiện tượng: có những
từ có thể được dùng với những đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của từ loại này hay
của từ loại khác.
Ví dụ 1:
a. Anh ấy vác cuốc1 ra cuốc2 đám đất trước nhà để trồng khoai.
DT
ĐT
11
b. Công việc tiến hành rất thuận lợi1. Những thuận lợi2 ấy làm anh ta phấn khởi.
TT
DT
Tóm lại, hiện tượng chuyển loại là hiện tượng một từ khi thì được dùng với ý
nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại này, khi thì được dùng với ý nghĩa và đặc
điểm ngữ pháp của từ loại khác.Từ những định nghĩa trên, ta thấy ở những tác giả
khác nhau có những cách định nghĩa hiện tượng chuyển loại khác nhau nhưng đều
có chung đặc điểm sau:
a. Từ chuyển loại có hình thức đồng âm
Một từ thuộc từ loại này khi chuyển thành một từ thuộc từ loại khác vẫn giữ
nguyên vỏ ngữ âm thì chúng là hai từ đồng âm khác từ loại.
b. Từ chuyển loại có yếu tố nghĩa từ vựng chung
Yếu tố nghĩa từ vựng chung đó là cơ sở của ý nghĩa từ loại, là thành phần
trong ý nghĩa khái quát của từ. Khi một từ chuyển loại (thành một từ khác, đồng
âm), yếu tố nghĩa từ vựng chung sẽ được giữ lại trong cả hai từ, do đối tượng phản
ánh (thực thể, quá trình, đặc trưng, quan hệ) trong từ khơng thay đổi. Vì vậy, xét kĩ
về mặt ý nghĩa, thì từ ban đầu và từ chuyển loại có cơ sở đồng nhất ở yếu tố nghĩa
từ vựng chung. Từ ban đầu và từ chuyển loại chỉ thay đổi ở ý nghĩa ngữ pháp.
c. Từ chuyển loại có khả năng kết hợp và chức năng ngữ pháp khác với từ ban
đầu
Ví dụ:- Tơi đang suy nghĩ về một bài tốn khó.
- Những suy nghĩ ấy cần được quan tâm.
Thống nhất một cơ sở lý thuyết cũng như khảo sát thực tế những vấn đề nêu
trên là điều không đơn giản. Trong giới hạn của một đề tài khóa luận chúng tơi chủ
yếu tập chung khảo sát từ chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên.
Đối tượng của đề tài chúng tơi thực hiện, như đã nói là tồn bộ từ chuyển
loại trong thơ Chế Lan Viên. Chúng tôi dựa trên cơ sở lý thuyết đã trình bày và dựa
vào sự phân tích nghĩa của các nhà từ điển học trong cuốn Từ điển tiếng Việt để tiến
hành khảo sát. Kết quả khảo sát sẽ soi sáng những vấn đề lý thuyết và giúp chúng
tôi thấy rõ đặc điểm từ chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên.
12
1.1.2.2. Những phương thức chuyển loại
Trong tiếng Việt, chúng ta thường gặp một số trường hợp chuyển loại sau
đây:
- Chuyển loại trong nội bộ thực từ
+ Chuyển loại từ danh từ sang động từ, tính từ
Ví dụ 1:
Nước Việt Nam là một.
DT
Một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.
TT
+ Chuyển loại từ danh từ sang đại từ
Ví dụ 2:
Nhà tơi có hai người anh đi bộ đội.
Anh đi em nhé!
+ chuyển loại động từ <=> tính từ <=> danh từ: thường gặp đối với lớp từ đa
tiết ghép gốc Hán Việt: quần chúng, ý thức, khuyết điểm, hịa bình v.v … Từ tiếng
Việt thường khó định loại khi đứng riêng một mình.
Ví dụ 3:
Chúng ta chưa ý thức đầy đủ vấn đề kế hoạch hóa gia đình. (động từ)
Cơ ta chưa có ý thức học tập tốt. (danh từ)
+ Chuyển loại từ động từ <=> danh từ: từ chỉ hành động như cày, bừa, cưa,
đục, v.v… chuyển loại thành tên gọi đồ vật tương ứng như (cái) cày, (cái) bừa, (cái)
cưa, (cái) đục v. v…; từ chỉ hành động đa tiết như: suy nghĩ, đắn đo, lo ngại v.v…
chuyển thành tên gọi khái niệm hay sự vật trừu tượng (những) suy nghĩ, (những)
đắn đo, (những) lo ngại v.v…
+ Chuyển loại từ tính từ <=> danh từ: từ chỉ tính chất đa tiết thường chuyển
thành danh từ chỉ sự vật trừu tượng: khó khăn, gian khổ, sung sướng v.v… thành
(mọi) khó khăn, (mọi) gian khổ, (mọi) sung sướng v.v…
+ Chuyển loại trong nội bộ từ loại danh từ: danh từ chỉ đồ vật như chén, bát,
thuyền, xe, mâm v.v… chuyển thành danh từ chỉ đơn vị (vật chứa đựng) như (một)
13
chén rượu, (một) bát cơm, (một) thuyền cá, (một) xe gạo v.v…
- Chuyển loại từ thực từ sang hư từ
+ Chuyển loại từ danh từ <=> quan hệ từ: một số danh từ chỉ vị trí: trên,
dưới, trong, ngồi v.v… chuyển thành kết từ: (ngồi) trên ghế, (đi) dưới nước, (họp)
trong hội trường, (ăn) ngồi hiệu.
Ví dụ 4: - Rừng là của quý cần bảo vệ. (danh từ)
- Rừng của chúng ta.(quan hệ từ)
+ Chuyển loại từ động từ <=> quan hệ từ: một số kết từ có nguồn gốc động
từ: cho, bằng, vào, để v.v…
Ví dụ 5:
Cuốn sách để trên bàn. (động từ)
Nói để mọi người rõ. (quan hệ từ)
Ví dụ 6:
Gia đình tơi ở Hà Nơi. (động từ)
Chị ấy học ở Hà Nội.(quan hệ từ)
+ Chuyển loại động từ sang phó từ: ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại…
Ví dụ 7:
Ai vào Nam, ai ra Bắc. (động từ)
Tơi đi vào Nam con anh An đi ra ngồi Bắc. (phó từ)
Ví dụ 8:
Ngày xn bước chân người rất nhẹ, mùa xuân đã qua bao giờ (Trịnh Công
Sơn, Đêm thấy ta là thác đổ). (động từ)
Một hôm bước qua thành phố lạ, thành phố đã đi ngủ trưa (Trịnh Cơng
Sơn, Đêm thấy ta là thác đổ). (phó từ)
+ Chuyển loại từ động từ sang tình thái từ
Ví dụ 9:
Mẹ đi chợ. (động từ)
Em hát đi! (tình thái từ)
- Chuyển loại trong nội bộ hư từ: một số phụ từ (định từ, phó từ) có thể thực
14
hiện chức năng liên kết của kết từ (quan hệ từ): cịn, rồi v.v…
+ Chuyển loại từ phó từ<=> quan hệ từ
Ví dụ 10:
Tơi cịn học. (phó từ)
Nó học cịn tơi ngủ. (quan hệ từ)
Ví dụ 11:
Có thể nói, chuyển di từ loại là hiện thực của đời sống ngôn ngữ. Nhưng
cũng cần phân biệt hiện tượng chuyển loại đã ổn định trong ngôn ngữ với hiện
tượng chuyển loại chỉ có tính chất lâm thời trong điều kiện và hồn cảnh giao tiếp
cụ thể, đặc biệt, ít phổ biến và thường mang tính chất tu từ. Trường hợp rất Việt
Nam, rất Hà Nội, rất Huế được xem là chuyển hóa từ loại lâm thời. Chúng chỉ tồn
tại trong những ngữ cảnh cụ thể do sáng tác riêng của người nói.
Ví dụ 13:
“Nón rất Huế nhưng đời khơng phải thế”, “Ta là ai mà còn trần gian thế”.
“Huế” và “trần gian” lâm thời được chuyển loại từ danh từ sang tính từ.
1.2. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm Chế Lan Viên
1.2.1. Về tác giả Chế Lan Viên
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Phan, sinh ngày 23 – 10 – 1920 (tức
ngày 12 tháng 9 năm Canh Thân) trong một gia đình viên chức nghèo tại xã Cam
An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Họ Chế trong bút danh là do Hàn Mặc Tử đặt
khi Tử viết bài Thi Sĩ Chàm tặng Chế Bồng Hoan. Còn chữ Lan Viên lấy ý tưởng từ
người bạn thơ Yến Lan và ấn tượng vườn lan nhiều hoa nhà bạn. Bút danh ấy đã
theo người thơ suốt cả đời thơ – đời người và để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bao
bạn đọc yêu thơ.
7 tuổi (năm 1927), nhà thơ đã theo gia đình vào An Nhơn, Bình Định. Ơng
lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư để kiếm
sống. Sau này, cũng tại mảnh đất có nhiều Tháp Chàm, gần bể , Chế Lan Viên bắt
đầu làm thơ và tham gia Cách mạng tháng Tám. Vì vậy, ơng rất gắn bó với thành
Đồ Bàn xưa. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan
15
Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Và chính quê
hương thứ hai ấy đã là ám tượng nghệ thuật trong thơ Chế những năm đầu làm bạn
với Nàng thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi, thời kỳ đang sống và đi học ở huyện
lỵ An Nhơn. Có thơ, truyện ngắn đăng trên các báo Tiếng trẻ, Khuyến học, Phong
hóa từ những năm 1935 – 1936.
Năm 17 tuổi, đang là học sinh năm thứ ba trường Trung học Quy Nhơn với
bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay với nhan đề Điêu Tàn, có lời
tựa đồng thời là lời tuyên ngôn của “Trường thơ loạn”. Từ đây cái tên Chế Lan Viên
trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam và dư luận đã đặc biệt chú ý đến nhà thơ trẻ
tài năng và đặc sắc này. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được
người đương thời gọi là “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định và để lại dấu ấn độc đáo
cho Thơ mới đương thời.
Năm 1939, Chế Lan Viên ra Hà Nội học, rồi vào Sài Gòn làm báo, ra Thanh
Hóa và quay về Huế dạy học. Năm 1942, cho ra đời tập văn xuôi Vàng Sao, tập thơ
triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí. Sau đó viết tập bút ký triết luận
Gai Lửa và một tập thơ tập thơ không tên cùng viết những năm ấy (1941 - 1942).
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy
Nhơn. Sau đó, ông ra Huế tham gia Đoàn Xây Dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu
Trọng Lư, Đào Duy Anh … Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho
báo Quyết Thắng, Cứu quốc, Kháng chiến của Việt minh Trung Bộ. Phong cách thơ
của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông hoạt động văn nghệ và
báo chí ở Liên khu Bốn và chiến trường Bình Trị Thiên. Tháng 7 năm 1949, trong
chiến dịch Tà Cơn – đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên vinh dự gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Những bài thơ Chế Lan Viên sáng tác trong thời kỳ kháng chiến được tập
hợp trong tập thơ Gửi các anh (in 1955). Năm 1954, Hòa bình lập lại, Chế Lan Viên
tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn Học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông
16
cơng tác ở phịng văn nghệ, Ban tun huấn trưng ương và đến cuối năm 1958 trở
lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Suốt cả thời kỳ chống Mỹ,
anh công tác trên miền Bắc. Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội Nhà Văn
Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa các khóa IV, V, VI, ủy viên Ban văn hóa – giáo dục
của quốc hội. Và các hoạt động đối ngoại trên các diễn đàn văn học quốc tế ở Liên
Xô, Pháp, Nam Tư, Ấn Độ, Tây Âu v.v … Những hoạt động ấy giúp anh có nhiều
thay đổi trong dịng thơ của mình, cũng như giúp anh bên cạnh sáng tác thơ còn viết
bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Sau ngày thống nhất đất nước (tháng 4/1975), ông vào công tác tại miền
Nam. Chế Lan Viên mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ
Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất. Lễ truy điệu và hỏa táng được tổ chức vào ngày 26
tháng 6 năm 1989, thọ 69 tuổi.
Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, một nhà văn hóa đã có những đóng
góp to lớn cho nền thơ Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chế Lan Viên đã được nhận
Huân chương Độc Lập hạng II (1988). Ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 1996 (đợt I).
Có thể nói, Chế Lan Viên là một nhà thơ gắn bó Đời và Thơ mình với Dân
tộc và sự nghiệp Cách mạng, đồng thời luôn thể hiện những khao khát sáng tạo của
một bản lĩnh, một tâm hồn thi sĩ. Nhiều tác phẩm của Chế Lan Viên đã có tiếng
vang lớn, in đậm dấu ấn trong lòng độc giả, trở thành những đỉnh cao thành tựu của
thơ Việt Nam hiện đại. Sáng tác của Chế Lan Viên cùng những hoạt động văn hóa
phong phú của ơng đã có tác động tích cực và ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống
văn hóa Việt Nam hiện đại.
Sinh thời, và sau khi ông mất, mỗi tác phẩm của Chế Lan Viên cũng như sự
nghiệp sáng tác của ơng đã được giới nghiên cứu phê bình chú ý, và dù có những ý
kiến khác nhau nhưng nhìn chung Chế Lan Viên được đánh giá như một thi sĩ tài
năng, một phong cách đặc sắc.
17
1.2.2. Giới thiệu chung về thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, nhà hoạt động văn hóa có vị trí quan
trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Trong hơn 50 năm cầm bút, Chế Lan Viên
đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn và đa dạng. Chế Lan Viên vừa làm thơ, vừa
viết văn, viết tiểu luận, phê bình. Ở lĩnh vực nào, anh cũng là một cây bút tài năng,
không lẫn với ai được, có nhiều đóng góp xuất sắc.
Trước hết, Chế Lan Viên là một nhà thơ. Gọi sự tồn tại của mình là một kiếp
sống phụng khai thần bút, với niềm đam mê sáng tạo thường trực và bất tận, thi
nhân đã để lại cho nhân loại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với 1025 bài thơ. Và
hiếm có nhà thơ nào như Chế - nổi tiếng cả trên ba chặng đường thơ của dân tộc :
trước 45 là Điêu Tàn (thi sĩ – lãng mạn), 45 – 75 là Ánh sáng và phù sa (thi sĩ –
chiến sĩ), và sau 75 là Di cảo thơ (thi sĩ – triết nhân). Đây quả thật là ba niềm sửng
sốt (chữ dùng của Trần Mạnh Hảo) mà Chế Lan Viên tạo ra cho cuộc đời.
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng
nghĩa “Trường thơ loạn”. Tập thơ Điêu tàn viết lúc ông mới 17 tuổi “đột ngột
xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị. Nó dựng lên một thế
giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma… Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở
nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi,
bí mật”. (Chế Lan Viên, Điêu tàn-Tác phẩm và dư luận)
Là một cậu bé mới lớn, nhưng trong thế giới tâm hồn Chế, dường như khơng
hề có những cảm xúc trong sáng, hồn nhiên của tuổi hoa niên. Có phải cuộc đời đầy
đắng xót cộng với bản tính nhạy cảm nghệ sĩ đã làm nên một Chế Lan Viên sầu và
già trước tuổi ?. Chế quan niệm : “Thi sĩ khơng phải là người. Nó là người Mơ,
người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là quỉ, là Tinh, là u. Nó thốt hiện tại.
Nó xáo trộn dĩ vãng. Nó ơm trùm tương lai. Người ta khơng hiểu được vì nó nói
những cái vơ nghĩa, tuy rằng, những cái vơ nghĩa hợp lí” ( Tựa Điêu Tàn). Thế giới
trong ông không phải là thực tại xanh non mà là thế giới của hư vô, của Chiêm quốc
đổ nát, của những bãi tha ma và đêm tàn, chồng chất u buồn, chồng chất đớn đau.
Hình ảnh thơ đầy quái đản và ma mi bao trùm vũ trụ thơ. Không gian âm phủ và
18
thời gian dĩ vãng đã mấy trăm năm với những tiếng khóc hời ai ốn, não nũng ấy
khiến ai một lần đặt chân ghé qua cũng rùng mình ớn lạnh. Chế từ bỏ cõi đau
thương của cuộc đời thực tại nhưng lại tìm đến một cõi đau thương khác. Đấy là cõi
lạ - cõi âm – cõi của bi kịch. Và trong cõi ấy, Chế đã thăng hoa đến rợn ngợp, với
những sự vượt ngưỡng về trí tuệ, vượt ngưỡng về cảm xúc của một hồn thơ.
Năm 1955 Chế Lan Viên xuất bản tập thơ Gửi các anh gồm 14 bài thể hiện
sự chuyển biến quan trọng trong tư tưởng và hồn thơ Chế Lan Viên. Sau Cách
mạng tháng Tám, thơ ông đã “đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm
nhuần ánh sáng của cách mạng”, và có những thay đổi rõ rệt. Có thể nói rằng,
Chế Lan Viên đã đi từ phù du đến “Ánh sáng và phù sa” , từ “thung lũng đau
thương ra cánh đồng vui”. Năm 1960, Ánh sáng và phù sa – đứa con tinh thần
được mọi người yêu mến và ngưỡng mộ của Chế ra đời. Đây là một thành công đặc
sắc, đánh dấu bước phát triển mới của thơ Chế Lan Viên. Như cách nói của Chế, thi
nhân đã đi“từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” với những sự đổi mới về
cảm xúc thi ca. Bắt gặp trong Ánh sáng và phù sa là những vần thơ hòa nhập vào
cuộc sống hiện tại, vào đời sống kháng chiến, với đất nước, với nhân dân, với Bác
Hồ…
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ Chế Lan Viên đã đạt
nhiều thành tựu mới với các tập thơ : Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967),
Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973) và Ngày vĩ đại (1975) kết tụ
khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận và tính thời sự của những năm nhà
thơ tham gia kháng chiến chống Mỹ, tham gia Ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam,
tham dự nhiều diễn đàn văn hóa quốc tế trên thế giới… Sau 1975, âm hưởng hùng
tráng của những ngày chống Mỹ cứu nước vẫn còn vang vọng trong các tập thơ :
Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977). Và vào những năm cuối đời,
khi đã trải qua biết bao nhiêu bể dâu của cuộc đời, cái tôi thi sĩ lại trăn trở thế sự
trong những vần thơ Hoa trên đá (1984) và Ta gửi cho mình (1986).
Suốt một đời miệt mài với thơ ca đến tận những giây phút cuối cùng của
cuộc đời, con người nặng nợ với văn chương ấy đã về với hư vô vào ngày
19
19.06.1989, để lại cho đời biết bao niềm tiếc nuối khôn nguôi. Sau khi ông mất,
những Di cảo thơ của ông được nhà văn Vũ Thị Thường – vợ nhà thơ, sưu tầm,
tuyển chọn và xuất bản : Di cảo thơ I in năm 1992, Di cảo thơ II in năm 1993 và
được giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1994. Tập Di cảo thơ III xuất bản
năm 1996 và nhiều bài thơ để lại của Chế Lan Viên còn tiếp tục được sưu tầm, tập
hợp.
20
CHƯƠNG 2
TỪ CHUYỂN LOẠI XUẤT PHÁT TỪ TỪ LOẠI THỰC TỪ
2.1. Khảo sát từ chuyển loại trong nội bộ thực từ
Như đã trình bày ở cơ sở lý luận hiện tượng chuyển loại là hiện tượng phổ
biến trong các ngôn ngữ và đặc biệt là trong các ngôn ngữ thuộc loại hình ngơn ngữ
đơn lập.Ta thấy ở những tác giả khác nhau có những cách định nghĩa hiện tượng
chuyển loại khác nhau. Nhưng trong đề tài này, chúng tôi chỉ tiến hành “khảo sát từ
chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên”. Chúng tơi khảo sát dựa theo tiêu chí từ
chuyển loại của tác giả Diệp Quang Ban:
- Từ chuyển loại có hình thức đồng âm
- Từ chuyển loại có yếu tố nghĩa từ vựng chung
- Từ chuyển loại có khả năng kết hợp và chức năng ngữ pháp khác với từ ban
đầu.
Căn cứ vào các tiêu chí phân định từ loại tiếng Việt và đặc điểm của sự
chuyển loại. Chúng tôi phân loại, thống kê từ chuyển loại trong thơ Chế Lan Viên
thành những phương thức chuyển loại sau đây: Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại
thực từ, từ chuyển loại xuất phát từ từ loại hư từ.
2.1.1. Từ chuyển loại xuất phát từ từ loại danh từ
Căn cứ vào đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm ngữ pháp và khả năng kết hợp của
từ, chúng tôi tiếp tục chia hiện tượng chuyển loại của danh từ thành các loại sau:
2.1.1.1. Danh từ dùng như động từ
Danh từ là những từ biểu thị ý nghĩa sự vật, sự việc. Sự vật có thể là người
hoặc các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên.
Chúng tôi nhận thấy từ chuyển loại của danh từ dùng như động từ là một
hiện tượng khá khiêm tốn trong thơ Chế Lan Viên. Với số từ là 8/70 từ chiếm 11,4
%. Số lần chuyển loại của danh từ dùng như động từ là 23/299 lần chiếm 7,7 %.
Ví dụ:
- Hướng
Khi cuộc đời rõ hướng