Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hình tượng nhân vật “người em” trong truyện cổ tích người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.37 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

THÁI THỊ KIM PHƯỢNG

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “NGƯỜI EM”
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI VIỆT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 05/2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “NGƯỜI EM”
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI VIỆT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Đức Luận

Người thực hiện


THÁI THỊ KIM PHƯỢNG

Đà Nẵng, tháng 05/2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi; các kết quả
nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được cơng bố trong
bất kì cơng trình nào khác. Nếu có điều gì sai sót, tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm.

Tác giả khóa luận

Thái Thị Kim Phượng


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, ngồi những nỗ lực khơng ngừng
của bản thân, tơi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ thầy cô, người thân và bạn
bè. Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Tiến sĩ Lê Đức Luận, người trực tiếp
hướng dẫn và hỗ trợ tơi hồn thành khóa luận. Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đến
các thầy cơ khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, các
thầy cô và cán bộ của thư viện nhà trường đã tạo mọi điều kiện để giúp đỡ tơi.
Cuối cùng, tơi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh,
động viên và giúp đỡ để tơi có thể hồn thành tốt nhất cơng trình nghiên cứu
này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả khóa luận


Thái Thị Kim Phượng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................5
5. Bố cục khóa luận ................................................................................................5
NỘI DUNG............................................................................................................6
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN CỔ TÍCH .............................................................................................6
1.1. Khái quát truyện cổ tích ..................................................................................6
1.1.1. Quan niệm về truyện cổ tích ........................................................................ 6
1.1.2. Phân loại truyện cổ tích ................................................................................ 8
1.1.3. Đặc trưng xã hội trong truyện cổ tích ........................................................11
1.2. Nhân vật và nhân vật trong truyện cổ tích ....................................................13
1.2.1. Khái niệm về hình tượng nghệ thuật ..........................................................13
1.2.2. Hình tượng nhân vật trong văn học............................................................14
1.2.3. Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích ......................................................16
1.2.4. Đặc điểm chung của nhân vật “người em” trong truyện cổ tích ................18
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “NGƯỜI EM”
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI VIỆT .................................................21
2.1. Các kiểu nhân vật “người em” trong truyện cổ tích người Việt ...................21
2.1.1. Xét theo giới tính và số phận .....................................................................21
2.1.1.1. Nhân vật “người em” trai ........................................................................21
2.1.1.2. Nhân vật “người em” gái ........................................................................24
2.1.2. Xét theo phẩm chất đạo đức .......................................................................27

2.1.2.1. “Người em” hiền lành, tốt bụng ..............................................................27
2.1.2.2. “Người em” độc ác, gian manh ...............................................................29
2.2. Nhân vật “người em” trong các mối quan hệ................................................31


2.2.1. Trong quan hệ gia đình .............................................................................31
2.2.2. Trên bình diện các mối quan hệ xã hội ......................................................37
2.3. Ý nghĩa hình tượng nhân vật “người em” trong truyện cổ tích người Việt ..40
2.3.1. Phản ánh đời sống xã hội Việt Nam đương thời ........................................40
2.3.2. Bài học đạo đức và khát vọng công bằng của nhân dân ............................42
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT “NGƯỜI EM”
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI VIỆT .................................................46
3.1. Nghệ thuật xây dựng sự kiện, tình huống .....................................................46
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng sự kiện ....................................................................46
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ................................................................48
3.2. Nghệ thuật xây dựng hành động ...................................................................51
3.2.1. Hành động của người anh chị ....................................................................51
3.2.2. Hành động của người em ...........................................................................53
3.3. Các biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật ...............................................56
3.3.1. Biện pháp đối lập .......................................................................................56
3.3.2. Biện pháp lặp lại.........................................................................................58
3.4. Các mơ típ .....................................................................................................61
3.4.1. Mơ típ kết cấu.............................................................................................61
3.4.1.1. Mơ típ mở đầu .........................................................................................61
3.4.1.2. Mơ típ diễn biến ......................................................................................62
3.4.1.3. Mơ típ kết thúc ........................................................................................63
3.4.2. Mơ típ chi tiết nghệ thuật ...........................................................................65
3.4.2.1. Mơ típ thử thách ......................................................................................65
3.4.2.2. Mơ típ bình giá ........................................................................................67
KẾT LUẬN .........................................................................................................69

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................71


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử, mặc dù khơng ít lần bị các thế lực
phong kiến phương Bắc hay các tập đoàn quân phiệt phương Tây xâm chiếm,
đàn áp, đồng hóa nhưng nhân dân Việt Nam vẫn giữ vững đất nước và xây dựng
cho mình một nền văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc. Trong số vô vàn những giá
trị văn hóa mà ơng cha ta đã cố cơng gìn giữ và lưu truyền cho con cháu, không
thể không kể đến kho tàng truyện cổ tích đồ sộ có giá trị vơ cùng q báu.
Truyện cổ tích là nơi các tác giả dân gian gởi gắm niềm tin vào cuộc sống,
vào việc cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, người tốt dù phải chịu nhiều cực khổ
cuối cùng cũng sẽ được sống hạnh phúc. Bởi vậy, trong truyện, các tác giả dân
gian thường xây dựng hệ thống nhân vật có tính cách đối nghịch. Từ các nhân
vật sẽ đẩy truyện lên các xung đột, gỡ nút bằng các lực lượng thần bí và kết thúc
có hậu dành cho những người hiền lành. Các cặp nhân vật đối nghịch trong
truyện cổ tích thường là: dì ghẻ, cha dượng với con riêng của chồng hoặc vợ;
anh chị với em út, phú hộ với người làm thuê…Một trong những tuyến nhân vật
đáng lưu tâm trong hệ thống các nhân vật của truyện cổ tích là nhân vật “người
em”. Nhân vật “người em” trong truyện cổ tích được xây dựng chủ yếu trên sự
đối lập gay gắt với các nhân vật anh chị. “Người em” trong truyện cổ tích thường
là những người hiền lành, hiếu thảo với cha mẹ, vâng lời anh chị, yêu thương
mọi người xung quanh, nhưng họ thường bị các nhân vật anh chị tị nạnh, ghen
ghét, tranh giành hết của cải, tài sản. Dù phải chịu nhiều bất công, thua thiệt
nhưng “người em” vẫn giữ nét tính cách hiền lành, tốt bụng. Tuy bị anh chị hãm
hại, ghét bỏ nhưng “người em”vẫn ln tìm cách giúp đỡ, bênh vực anh chị khi
họ gặp khó khăn…Nhân vật “người em” là hình mẫu lý tưởng để nhấn mạnh và

đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người trong đời sống thực tế.
Nhân vật “người em” trong truyện cổ tích có sức hút vô cùng mãnh liệt, là
mảnh đất màu mỡ để những người nghiên cứu đào sâu, bổ sung cho các công


2
trình nghiên cứu văn học dân gian. Tìm hiểu Hình tượng nhân vật “người em”
trong truyện cổ tích người Việt là dịp để hiểu biết thêm về vị trí, vai trị, ý nghĩa
của hình tượng “người em” trong xã hội đương thời, đồng thời quá đó cũng thấy
được tài năng nghệ thuật và khả năng sáng tạo vô hạn của các tác giả dân gian.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn học dân gian đóng vai trị quan trọng trong sự hình thành và phát triển
của nền văn học dân tộc, bởi lẽ đó mà cho đến nay đã khơng ít cơng trình nghiên
cứu về các khía cạnh khác nhau của văn học dân gian.
Chu Xuân Diên với các công trình nghiên cứu về văn học dân gian như:
Văn học dân gian Việt Nam, Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Mấy vấn
đề văn hóa văn học dân gian Việt Nam…Theo tác giả, truyện cổ tích chủ yếu
phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống trong xã hội đương thời, với
những xung đột khó tránh khỏi, đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, ước
mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân.
Tác giả Đinh Gia Khánh với chuyên luận Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của
truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám đã mở ra một hướng tìm hiểu mới về văn
học dân gian thơng qua truyện cổ tích, ngồi ra chun luận đã đề cập đến các
vấn đề của truyện cổ tích như thi pháp, tâm lí sáng tác và lưu truyền truyện cổ
tích trong dân gian.
Truyện cổ tích cũng đánh dấu tâm huyết của các nhà nghiên cứu đối với
việc sưu tầm, tuyển chọn tác phẩm. Trong số đó phải kể đến tác giả Nguyễn
Đổng Chi với cơng trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Tác giả đã phân
truyện cổ tích thành ba dạng: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế sự và
truyện cổ tích lịch sử. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà nghiên cứu văn học

dân gian Việt Nam đều tán đồng với các phân chia này của ơng. Trong cuốn Yếu
tố thần kì trong truyền thuyết và truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ, tác
giả Nguyễn Định đã chỉ ra ba cách phân loại truyện cổ tích khá nổi bật trong giới
folklore.


3
Việc nghiên cứu văn học dân gian ở nước ta thật sự nở rộ từ năm 1960 khi
các nhà xuất bản lần lượt cho ra đời các bộ giáo trình văn học dân gian. Bộ giáo
trình Lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân gian, Đinh Gia Khánh và Chu
Xuân Diên làm rõ đặc điểm của thể loại truyện cổ tích thơng qua việc so sánh
truyện cổ tích với thần thoại. Với những đặc điểm này có thể giúp người nghiên
cứu nhận diện thể loại truyện cổ tích một cách chuẩn xác hơn.
Về nhân vật nói chung và nhân vật “người em” trong truyện cổ tích Việt
Nam nói riêng cũng đã được các nhà nghiên cứu đề cập cách sơ bộ trong một số
giáo trình hay trong các tạp chí chun ngành. Nói về hình tượng trong văn học
dân gian, tác giả Chu Xuân Diên trong cuốn Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân
gian Việt Nam cho rằng, tính khơng xác định, khơng cụ thể của nhân vật và hoàn
cảnh là đặc điểm tiêu biểu nhất. Kế đó tác giả cũng chỉ ra rằng: “Trong văn học
dân gian, các nhân vật người em út, đứa trẻ mồ cơi, người con riêng…(trong
truyện cổ tích), viên quan huyện, thầy đồ, lý trưởng, nhà sư…(trong truyện
cười), chàng trai và cơ gái, người phụ nữ, người lính…(trong ca dao) v.v…đều là
những nhân vật mang đặc điểm chung nhất cả về bản chất xã hội, tính cách bên
trong và cả hình dáng bên ngồi và hoạt động trong những khơng gian và thời
gian cụ thể”[4, tr.111]. Chính nhận định này, đã góp thêm cơ sở lý luận cho việc
khẳng định các biện pháp nghệ thuật khi xây dựng nhân vật “người em” trong
truyện cổ tích nói riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung.
Tác giả Đỗ Bình Trị trong cuốn Những đặc điểm của thi pháp văn học dân
gian đã khẳng định: “Xung đột trong truyện cổ tích, đặc biệt là trong truyện cổ
tích thần kì, thường diễn ra trong phạm vi những quan hệ gia đình. Ta hiểu vì sao

nhân vật bất hạnh ln ln là thành viên lép vế nhất trong gia đình gia trưởng
ngày xưa: người em út, người con riêng”[29, tr.13]. Trong bài viết Tìm hiểu về
truyện Cây khế cũng chính tác giả này đã nhận định: “Cơ sở lịch sử xã hội của
nhân vật người em út và xung đột anh em trong truyện cổ tích là sự xuất hiện và
tồn tại quyền thừa kế tài sản của người con trưởng (maiôrat) cùng với gia đình


4
phụ quyền và chế độ tư hữu”[24, tr.216]. Những nhận định này giúp ta hiểu thêm
về số phận bất hạnh của nhân vật “người em” trong gia đình và nguyên nhân của
những nỗi bất hạnh đó.
Với bài viết Hệ thống nhân vật cổ tích trong kiểu truyện người em đăng
trên tạp chí Văn học nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan đã nhận định
rằng: “Người em là tên gọi chung của các nhân vật đồng dạng có những sự
tương đồng về tính cách, hành động và số phận. Cùng với người mô côi, người
con riêng…, người em được xem là nhân vật trung tâm của truyện cổ tích và là
một trong những nạn nhân đầu tiên của sự tan rã dịng họ hoặc sự tan rã của đại
gia đình bộ tộc”[13]. Với bài viết này, tác giả cũng cho rằng trong mối quan hệ
với anh, chị, người em trong truyện cổ tích thường phải chịu nhiều bất cơng,
thua thiệt.
Qua việc tìm hiểu một số cơng trình nghiên cứu về văn học dân gian phần
truyện cổ tích cũng như các nội dung có liên quan đến nhân vật “người em”
trong truyện cổ tích, chúng tơi nhận thấy các tác giả, các nhà nghiên cứu, phê
bình đã chỉ ra được đặc trưng, cách phân loại truyên cổ tích cũng như đã chỉ ra
được hệ thống nhân vật “người em”, nguồn gốc của những bất hạnh họ phải
chịu…Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy chưa có một cơng
trình khoa học nào nghiên cứu về hình tượng “người em” có tính chun sâu.
Do đó, trong khóa luận của mình, trên cơ sở tham khảo những ý kiến đánh
giá, những phát hiện mới mẻ của những các tác giả đi trước, chúng tơi sẽ cố gắng
đưa ra một cái nhìn cụ thể về nhân vật “người em” trong truyện cổ tích.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật “người em” trong truyện cổ tích người Việt
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát trong cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng
Chi, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội và cuốn Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam


5
phần truyện cổ tích người Việt của hai tác giả Chu Xuân Diên, Lê Chí Quế
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, phân loại: Sử dụng phương pháp này, chúng tơi đi
khảo sát những truyện cổ tích trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và Tuyển
tập truyện cổ tích Việt Nam phần truyện cổ tích người Việt, lựa chọn, thống kê
những truyện có nhân vật “người em” để tiếp tục phân loại nhân vật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này giúp chúng tôi rất
nhiều trong việc tìm hiểu về nhân vật trong việc đối sánh với các nhân vật anh
chị
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Mục đích của phương pháp này là giúp
người viết có cái nhìn vừa cụ thể vừa chi tiết về các phương diện chính yếu tạo
nên đặc trưng nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng “người em”.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung đề tài có ba
chương sau:
Chương 1. Khái quát chung về truyện cổ tích và nhân vật trong truyện cổ
tích
Chương 2. Đặc điểm hình tượng nhân vật “người em” trong truyện cổ tích
người Việt
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật “người em” trong
truyện cổ tích người Việt



6

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH
VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
1.1. Khái qt truyện cổ tích
1.1.1. Quan niệm về truyện cổ tích
Trước Cách mạng tháng Tám 1945 một số nhà nghiên cứu đã hiểu cổ tích
theo nghĩa: cổ tức là cũ, tích là dấu vết để lại, cổ tích là những chuyện từ xưa cịn
truyền lại. Hiểu theo nghĩa đó, khái niệm truyện cổ tích được mở ra rất rộng, nó
bao hàm tồn bộ kho tàng truyện cổ dân gian. Nhà nghiên cứu cổ tích Nguyễn
Đổng Chi viết: “Khi nói đến mấy tiếng truyện cổ tích hay truyện đời xưa chúng
ta đều sẵn có quan niệm rằng đấy là một danh từ chung bao gồm hết thảy các
loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại. Cũng
vì thế xác định nội dung của từng loại truyện cổ tích này khác nhau để đi đến
phân loại truyện cổ tích vẫn là cơng việc hứng thú và ln ln có ý nghĩa…”[2,
tr.24]. Như vậy danh từ truyện cổ tích trước đây được dùng chung cho các loại
truyện kể dân gian bao gồm thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngơn, truyện cười.
Truyện cổ tích ra đời cuối thời kì cơng xã ngun thủy, phát triển, tồn tại và diễn
biến qua các thời kì khác nhau của xã hội cho đến mãi gần đây. Do đó truyện cổ
tích có quan hệ mật thiết với các loại truyện kể dân gian khác, hiện tượng xâm
nhập, lẫn lộn giữa các thể loại của truyện kể dân gian cũng từ đó mà trở nên hết
sức phổ biến. Đó là nguyên nhân khiến cho nhiều truyện kể dân gian Việt rất khó
xếp loại.
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất của các nhà nghiên cứu về khái
niệm truyện cổ tích. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã
thống nhất về những đặc điểm cơ bản của truyện cổ tích. Ngày nay, nhờ sự phát



7
triển của khoa nghiên cứu văn học dân gian, dựa vào đặc trưng riêng của từng
nhóm truyện khác nhau, các nhà folklore đã chia truyện kể dân gian thành năm
thể loại (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn).
Việc đưa ra định nghĩa và đặc điểm của thể loại truyện cổ tích cũng đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Định nghĩa truyện cổ tích xuất hiện khá nhiều
trong các cơng trình nghiên cứu điển hình như: Lý luận văn học, Phương Lựu;
Từ điển văn học, Đỗ Đức Hiểu; 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân…Trong
số đó phải kể đến cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau:
“Truyện cổ tích là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy
nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản
ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những vấn đề khác nhau của con người trong
cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng
(chủ yếu là gia đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết
liệt”[10, tr.368.]. Nhà nghiên cứu cổ tích Nguyễn Đổng Chi thì cho rằng:
“Truyện cổ tích là truyện được xây dựng nên bằng trí tưởng tượng nghệ thuật,
đặc biệt là những điều tưởng tượng về thế giới thần kì, những câu chuyện không
quan hệ với những điều kiện của đời sống thực làm thỏa mãn người nghe thuộc
mọi tầng lớp xã hội ngay cả dù cho họ tin hay không tin vào những điều được
nghe kể”[2, tr.32].
Định nghĩa về truyện cổ tích cũng đã được in khá nhiều trong các giáo trình
của nhiều trường đại học. Theo Nguyễn Bích Hà trong Giáo trình văn học dân
gian, của Nxb Đại học Sư phạm thì: “Truyện cổ tích là những truyện kể có yếu
tố hoang đường kì ảo. Nó ra đời từ sớm nhưng đặc biệt nở rộ trong xã hội có sự
phân hóa giàu nghèo, xấu tốt. Qua những số phận khác nhau của nhân vật, truyện
trình bày kinh nghiệm sống, quan niệm đạo đức, lý tưởng và mơ ước của nhân
dân lao động về một xã hội công bằng, dân chủ, hạnh phúc”[9, tr.75]. Trong Mấy

vấn đề về phương pháp luận giảng nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến


8
Tựu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là một loại
truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với q trình tan rã của chế
độ cơng xã ngun thủy, hình thành của gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp
trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính phổ
biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất riêng tư
giữa người trong phạm vi gia đình xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư
cấu kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và
mơ ước của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức thẩm mỹ, giáo dục và giải trí
của nhân dân trong những thời kỳ, những hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội
có giai cấp”[26, tr.42].
Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm cách đưa ra khái niệm chuẩn xác về truyện
cổ tích, tuy nhiên đây không phải là một công việc dễ dàng. Nhìn chung có thể
thấy rằng, truyện cổ tích là những truyện kể dân gian được xây dựng dựa trên sự
tưởng tượng và hư cấu của quần chúng nhân dân. Nó hướng vào những số phận,
những mâu thuẫn có tính chất phổ biến của xã hội có giai cấp. Truyện cổ tích
phản ánh đời sống và khát vọng của nhân dân lao động, nó đáp ứng nhu cầu
nhận thức và thị hiếu của nhân dân.
1.1.2. Phân loại truyện cổ tích
Cho đến nay, mặc dù đã có cái nhìn khá chuẩn xác về thể loại truyện cổ
tích, nhưng các nhà nghiên cứu ở nước ta vẫn chưa có sự thống nhất một cách
triệt để về cách phân loại truyện cổ tích. Tuy đã có một số cách phân loại được
nêu lên nhưng chưa có một cách phân loại nào được giải thích một cách đầy đủ
trên những tiêu chí rõ ràng và nhất qn.
Nguyễn Đổng Chi trong cơng trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam cho
rằng: “Nếu cần phải chia thì, theo ý chúng tơi, nên chia ra làm ba loại sau đây:
truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích lịch sử” [2, tr.52]. Trái

với ý kiến trên, Hồng Tiến Tựu trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt
Nam chia truyện cổ tích thành ba bộ phận chính là: truyện cổ tích thần kì, truyện


9
cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích lồi vật. Cùng chung ý kiến với Giáo sư
Hoàng Tiến Tựu là nhóm tác giả Lê Chí Quế, Nguyễn Quang Nhơn, Nguyễn
Hùng Vĩ trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam.
Trong Lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân gian của Đinh Gia Khánh
và Chu Xuân Diên lại chia truyện cổ tích thành hai loại: cổ tích thế sự và cổ tích
lịch sử. Cũng chia truyện cổ tích thành hai loại, nhưng Đỗ Bình Trị trong cuốn
Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học Việt Nam lại chia thành: truyện cổ tích thần
kì và cổ tích sinh hoạt. Nguyễn Định trong cuốn Yếu tố thần kỳ trong truyền
thuyết và truyện cổ tích người Việt ỏ Nam Trung bộ đã chỉ ra 3 cách phân loại
truyện cổ tích khá phổ biến trong giới nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam
như sau: “Cách thứ nhất chia truyện cổ tích thành hai tiểu loại: 1. Truyện cổ tích
thế sự, 2. Truyện cổ tích lịch sử; Cách thứ hai chia truyện cổ tích thành 3 tiểu
loại: 1.Truyện cổ tích thần kì (hoang đường), 2. Truyện cổ tích thế sự (sinh
hoạt), 3. Truyện cổ tích lịch sử; Cách thứ ba chia truyện cổ tích thành ba tiểu
loại: 1.Truyện cổ tích lồi vật (truyện cổ tích động vật, 2. Truyện cổ tích thần kì,
3. Truyện cổ tích sinh hoạt ( cổ tích thế sự, cổ tích thế tục, cổ tích hiện thực)” [8,
tr.163].
Trong q trình tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy phần lớn các nhà nghiên cứu
đều tán thành chia truyện cổ tích thành 3 tiểu loại chính: truyện cổ tích lồi vật,
cổ tích thần kì và cổ tích sinh hoạt.
Truyện cổ tích lồi vật: là những truyện kể dân gian hướng về sinh hoạt của
xã hội lồi vật. Truyện cổ tích lồi vật lấy các con vật làm nhân vật trung tâm,
đặc biệt là các lồi vật có quan hệ mật thiết, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống con
người như: con trâu, con khỉ, con sáo, con thỏ…Truyện cổ tích lồi vật là sự
nhân cách hóa các con vật bắt nguồn từ quan niệm cổ xưa trong thần thoại đồng

thời là một biện pháp nghệ thuật phản ánh và nhận thức của con người trong xã
hội đương thời. Do đó, truyện cổ tích lồi vật vừa có nội dung sinh vật học, vừa
mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.


10
Truyện cổ tích thần kì: là loại truyện tiêu biểu và quan trọng nhất của thể
loại cổ tích. Truyện cổ tích thần kì chứa đựng hai thế giới, một thế giới ứng với
hiện thực và một thế giới không mang tính hiện thực. Yếu tố thần kì đóng vai trị
cực kì quan trọng trong truyện cổ tích thần kì, nó tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của cốt truyện. Ở loại truyện này, tuy nhân vật chính là những con người
trong thực tại, nhưng các lực lượng thần kì, siêu nhiên như ơng bụt, bà tiên…
đóng một vai trị quan trọng khơng kém. Khi các nhân vật chính gặp khó khăn,
bế tắc, khi xung đột mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thì các yếu tố thần kì
xuất hiện và giúp nhân vật vượt qua thử thách.
Truyện cổ tích sinh hoạt: là những truyện cổ tích khơng có hoặc ít có yếu tố
thần kì. Ở loại truyện này, nhân dân lao động thường hướng sự chú ý của mình
vào thực tế cuộc sống, các mâu thuẫn, xung đột được giải quyết một cách hiện
thực không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Do đó, trong loại truyện này, yếu tố
thần kì chỉ làm cho câu chuyện thêm sinh động, ly kỳ hấp dẫn hoặc chỉ can thiệp
khi nào thực sự cần thiết.
Tuy nhiên, trong bài viết “Nhận diện truyện cổ tích thần kì người Việt”
đăng trên tạp chí Khoa học Công nghệ Đại học Đà Nẵng, tác giả Lê Đức Luận đã
chỉ ra những bất cập trong việc phân loại truyện cổ tích như trên. Theo tác giả,
nếu phân chia truyện cổ tích thành ba loại như trên, thì những tất cả những
truyện cổ tích có yếu tố kì ảo đều được xếp vào loại cổ tích thần kì. Để phân giới
loại truyện cổ tích có yếu tố kì ảo, tác giả đã đưa ra năm tiêu chí, dựa trên năm
tiêu chí đó, tác giả đã chỉ ra ba tiểu loại truyện có yếu tố kì ảo. Tiểu loại thứ nhất
tác giả gọi tên là cổ tích hoang đường, tiểu loại này nói về ma quỷ, tiên thoại,
phật thoại, đây là nhóm truyện thể hiện đề tài tín ngưỡng, tơn giáo. Tiểu loại thứ

hai là cổ tích thần kì, nhóm truyện này thể hiện lý tưởng xã hội của nhân dân “ở
hiền gặp lành”. Đây là nhóm truyện mà nhân vật chính là những người bình dân
bất hạnh. Tiểu loại thứ ba là cổ tích hóa thân, đây là nhóm truyện thể hiện những
vấn đề nhân sinh, thường bắt đầu bằng cụm từ “sự tích”. Từ những kiến giải trên,


11
tác giả đi đến kết luận cho rằng loại truyện cổ tích kì ảo có ba tiểu loại là: cổ tích
hoang đường, cổ tích thần kì, cổ tích hóa thân. Với việc xếp loại truyện cổ tích
thần kì thuộc vào cổ tích kì ảo, tác giả đã đi đến khẳng định: “Như vậy, truyện cổ
tích có các loại: cổ tích kì ảo, cổ tích sinh hoạt hay cổ tích hiện thực và cổ tích
động vật”[19, tr.70]. Việc phát hiện ra những bất cập trong cách phân loại truyện
cổ tích thần kì của tác giả giúp giới nghiên cứu văn học dân gian có cái nhìn mới
về việc phân loại truyện cổ tích.
1.1.3. Đặc trưng xã hội trong truyện cổ tích
Truyện cổ tích ra đời từ cổ đại, tồn tại và phát triển qua nhiều thời kỳ xã hội
khác nhau, gắn liền với q trình tan rã của thời đại cơng xã nguyên thủy và phát
triển mạnh trong xã hội có giai cấp. Trong thời kỳ phân hóa giai cấp “cùng với
sự phát triển của sức sản xuất, sức mạnh thể lực được đề cao, vai trị của người
đàn ơng trong sản xuất và quản lí xã hội ngày càng lớn dần thay thế cho vai trò
của người phụ nữ. Chế độ phụ quyền được xác lập và nhanh chóng thay thế chế
độ mẫu quyền. Người phụ nữ trở thành những người bé nhỏ bị phụ thuộc”[9,
tr.78]. Truyện cổ tích phát triển song song với quá trình tan rã của gia đình mẫu
quyền, hình thành hệ thống gia đình phụ quyền nơi mà người đàn ơng có quyền
làm chủ gia đình và trật tự gia đình được thiết lập theo tơn ti lớn nhỏ. Sự phân
biệt nam nữ, sự phân chia tài sản thừa kế không đồng đều giữa các người con
thường là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn gia đình và xã hội thời đại cổ
tích. “Như vậy, những biến đổi xã hội là nguồn gốc sâu xa kéo theo những biến
đổi gia đình và ngược lại, mâu thuẫn gia đình khơng đơn giản chỉ là mâu thuẫn
giữa thành viên này với thành viên khác mà chính là hình ảnh của mâu thuẫn xã

hội thu nhỏ hay tăng cấp. Vì thế, những mâu thuẫn trong truyện cổ tích thường
gây gắt và căng thẳng hơn ngồi thực tế. Vì vậy mà mâu thuẫn gia đình trong
truyện cổ tích thường gay gắt và căng thẳng hơn mâu thuẫn ngoài đời”[9, tr77].
Truyện cổ tích phản ánh và lý giải chân thực những vấn đề xã hội, những mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội.


12
Xã hội trong truyện cổ tích là một xã hội mà ở đó mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên khơng cịn là mối quan tâm hàng đầu (khác với thần thoại).
Khi xã hội nguyên thủy tan rã cũng là lúc con người đã biết cộng tác, liên minh
với nhau tạo thành những cộng đồng lớn mạnh, đủ sức chống lại thiên nhiên,
chống lại những cộng đồng lớn mạnh khác. Mặt khác, khi xã hội có giai cấp hình
thành cũng là lúc “quan hệ bình đẳng bị phá vỡ, cộng đồng bị chia rẽ thành
những cá nhân riêng lẻ, khẳng định khuynh hướng phát triển cá nhân là tất yếu
của xã hội”[9, tr.76]. Con người dần ý thức vai trị của mình trong xã hội, đồng
thời tìm cách khẳng định vị thế của mình trong xã hội ấy, những mối quan hệ tốt
đẹp dần bị phá bỏ thay vào đó mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh giữa người với người.
Cũng từ đó, con người bắt đầu phân tranh, đố kị với nhau về mọi thứ. Xã hội mà
truyện cổ tích phản ánh sức sản xuất đã tương đối cao, đời sống con người đỡ
chật vật hơn trước, tri thức phát đạt, tình cảm phong phú nhưng cũng là lúc mâu
thuẫn giữa người với người trở nên gay gắt. Nhân dân lao động đồng thời cũng
là chủ thể sáng tạo bắt đầu chú tâm vào những vấn đề nảy sinh trong xã hội tìm
cách giải thích các hiện tượng xã hội và mô tả các cuộc đấu tranh giữa người với
người thơng qua cổ tích. Như thế, truyện cổ tích phơi bày hiện thực xã hội ngột
ngạt, đầy dãy những bất công ngang trái.
Không chỉ phơi bày thực trạng xã hội bất cơng, truyện cổ tích cịn là sự
ngợi ca của các tác giả dân gian hướng vào dân chúng, những người lao động
thật thà chất phác. Mặc dù xã hội tồn tại những bất công, “cá lớn nuốt cá bé”,
nhưng những người bình thường, thậm chí nghèo khó cùng cực vẫn giữ niềm tin

vào cuộc sống. Họ sống hiền lành, hịa nhã với mọi người, họ có lịng hiếu thảo,
thơng minh, trọng tình nghĩa. Các nhân vật với những phẩm chất tốt đẹp là niềm
tin của các tác giả dân gian về một xã hội trong sáng lành mạnh. “Những chủ để
chính của truyện cổ tích phản ánh những chuyển biến xã hội ngay trong lịng nó.
Trong mn vàn những vấn đề của xã hội, truyện cổ tích chú ý nhiều sự thay đổi
địa vị và quyền lợi của những thành viên nhỏ bé”[9, tr.77]. Những đứa trẻ mồ


13
côi lang thang, những thành viên bị hắt hủi bị biến thành những người thừa, bị
chính cộng đồng của mình loại bỏ trở thành đối tượng thương cảm của các tác
giả dân gian. Các tác giả dân gian quan tâm đến số phận những người bất hạnh
với tình thương và sự thiện cảm, với sự tinh cậy và tinh thần chở che, qua đó
biến các nhân vật bất hạnh thành những nhân vật trung tâm của vẻ đẹp đạo đức
và tài năng. Điều đó cũng thể hiện rằng, xã hội vẫn chưa đi đến mức tận cùng
của sự xấu xa, ở đâu đó vẫn cịn rất nhiều người tốt, khiến cho người lao động dù
sống khó khăn vất vả đến đâu vẫn giữ được niềm tin lành mạnh, trong sáng vào
cuộc đời.
1.2. Nhân vật và nhân vật trong truyện cổ tích
1.2.1. Khái niệm về hình tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là một khái niệm mở. Khi khái niệm này khi được
đưa vào văn học đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và đưa ra
những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, xét ở góc độ khái quát nhất thì ý kiến về
hình tượng nghệ thuật nhìn chung là thống nhất.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Hình tượng nghệ thuật chính là khách thể
đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm
nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ
thuật. Bằng chất liệu cụ thể nó làm người ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn,
tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên hay một sự
kiện xã hội được cảm nhận. Hình tượng có thể được tồn tại qua chất liệu vật chất

nhưng giá trị của nó là ở phương diện tinh thần. Nhưng nói tới hình tượng nghệ
thuật người ta thường nghĩ tới hình tượng con người, bao gồm cả hình tượng một
tập thể (như hình tượng nhân dân hoặc hình tượng Tổ quốc) với những chi tiết
biểu hiện cảm tính phong phú” [10, tr.147]. Lê Đức Luận trong cơng trình
nghiên cứu Điểm nhìn nghiên cứu văn học cũng cho biết: “Hình tượng là hình
ảnh cuộc sống có ý nghĩa văn hóa xã hội như một biểu tượng. Hình ảnh chỉ đơn


14
thuần là hiện thực cuộc sống, là các yếu tố cấu thành hiện thực của tác phẩm.
Hình tượng là hình ảnh có tính khái qt, biểu trưng”[18, tr.252].
Qua các khái niệm trên về hình tượng nghệ thuật ta có thể hình dung hình
tượng nghệ thuật là phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực theo quy luật
của nghệ thuật chỉ có ở nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật phản ánh hiện thực
cuộc sống nhưng không phải là sự sao chép ngun xi những gì có thật mà là sự
tái hiện có chọn lọc, sáng tạo qua trí tưởng tượng phong phú của người viết. Dựa
vào tài năng, sức sáng tạo và từ thực tế cuộc sống người nghệ sĩ trăn trở, suy tư,
dồn nén để rồi hình thành nên những hình tượng nghệ thuật vừa giống với cuộc
đời lại vừa mang cảm quan nghệ thuật riêng của người nghệ sĩ. Trong nghệ
thuật, hình tượng nghệ thuật là đối tượng trung tâm giúp người thưởng thức cảm
nhận một cách sâu sắc nhất đời sống xã hội. Thơng qua hình tượng nghệ thuật
người đọc không chỉ đánh giá tác phẩm mà có thể đánh giá tài năng của người
sáng tạo chính xác và khách quan nhất.
1.2.2. Hình tượng nhân vật trong văn học
Văn học là một loại hình nghệ thuật ngơn từ lấy hình tượng nghệ thuật làm
đặc trưng cơ bản để phản ánh hiện thực. Hình tượng trong văn học chủ yếu là
hình tượng con người, cụ thể là nhân vật trong văn học. Vì văn học lấy ngơn từ
làm chất liệu nên nhân vật của văn học là nhân vật của tưởng tượng, liên tưởng.
“Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người hay những sự vật mang
cốt cách của con người được xây dựng bằng các phương tiện của nghệ thuật

ngôn từ”[18, tr.42]. Trong văn học, vai trò của nhân vật được xác định là then
chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Nhân vật khơng chỉ là hình thức cơ bản thể hiện quan niệm
nghệ thuật nhà văn mà cịn là hình thức cơ bản để khái quát những những quy
luật của đời sống.
Nhân vật đóng một vai trị hết sức quan trọng trong văn học. “Nhân vật văn
học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể khơng có tên


15
riêng như thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích,
ngụ ngơn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói người. Khái niệm nhân vật văn
học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, khơng chỉ một con người cụ thể nào cả,
mà chỉ một hiện tượng nào đó nổi bật trong tác phẩm…”[10, tr.235]. Nhân vật
trong văn học là một phạm trù nghệ thuật mang tính ước lệ, do đó khơng thể
đồng nhất nó với con người có thật trong cuộc sống. “Xét về bản chất, nhân vật
văn học là sự khái quát hóa tính cách con người trong xã hội thực tại được tái
hiện trong tác phẩm văn học. Bởi cuộc sống xã hội của con người vô cùng phong
phú nên khi tái hiện trong tác phẩm văn học những tính cách đó một mặt đạt tính
khái quát cao, mặt khác lại đạt được chiều sâu hơn cả những hiện tượng trong
thực tại, bởi vậy sự biểu hiện ra của chúng trong tác phẩm văn chương vô cùng
đa dạng…Xét về chức năng, mọi loại nhân vật là các dạng phát ngôn của tác giả
về một mặt của cuộc sống. Khi khái quát những vấn đề xã hội, những tính cách
xã hội, các tác giả thể hiện tư tưởng của mình: thù ghét, yêu thương; phê phán
xây dựng…Mỗi nhân vật trong tác phẩm văn học bởi vậy là một phát ngôn của
tác giả” [8, tr.35].
Truyện cổ tích muốn khái quát những quy luật chung của cuộc sống nên
nhân vật cũng cần phải mang tính khái qt cao. Bởi vậy, nhân vật thường khơng
có tên họ và thường tượng trưng cho một kiểu người trong xã hội. Chàng trai mồ
cơi, nghèo khó tượng trưng cho những người cùng khổ. Cơ gái xấu xí, tật nguyền

tượng trưng cho những người bất hạnh. Lão nhà giàu keo kiệt tượng trưng cho
kẻ xấu. Mụ phù thủy tượng trưng cho kẻ ác. Chàng tráng sĩ tượng trưng cho
những vị cứu đời…Mỗi nhân vật đảm nhiệm một chức năng và đóng vai trị như
một tình tiết trong cốt truyện. Cái mà người ta quan tâm là nhân vật đó giữ chức
năng gì, đại diện cho loại người nào chứ khơng phải nhân vật đó tên gì, ở đâu.
Trong các câu chuyện cổ tích, thơng qua việc xây dựng những nhân vật gắn với
những tình huống hành động, các tác giả dân gian gởi gắm niềm tin của mình
vào cuộc sống. Đồng thời, cùng với việc xây dựng những tuyến nhân vật có tính


16
cách đối nghịch, các tác giả dân gian còn phản ánh trung thực xã hội phân chia
giai cấp đương thời, bởi lẽ chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát
tính cách của con người. Mà tính cách là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng
lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật cũng mang tính lịch sử.
Do đó, thơng qua việc khái quát tính cách nhân vật trong truyện cổ tích, ta có thể
hiểu được phần nào đấy xã hội đương thời.
1.2.3. Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích
Trong truyện cổ tích, hệ thống nhân vật đa dạng và có tính hiện thực rõ rệt
hơn các thể loại khác của truyện kể dân gian. Nhân vật trong truyện cổ tích
khơng chỉ bó hẹp trong hệ thống nhân vật nơi trần thế mà còn mở rộng ra hệ
thống nhân vật nơi tiên giới, nhân vật ma quỷ; khơng chỉ có nhân vật trung tâm
mà cịn có cả nhân vật quần chúng…Hệ thống nhân vật được xây dựng ở nhiều
phương diện phân loại khác nhau như: nhân vật chính - nhân vật phụ, nhân vật
phù trợ - nhân vật đối kháng, nhân vật cõi trần - nhân vật phi trần thế, nhân vật
chính diện - nhân vật phản diện…Đấy là cả một thế giới xã hội với đầy đủ mọi
lứa tuổi, tầng lớp, giới tính với những đặc điểm tâm lý, tính cách, ngoại hình,
hành động khác nhau. Nhìn chung có thể chia nhân vật trong tryện cổ tích thành
các loại nhân vật sau:
Các nhân vật thần kì siêu nhiên: Đây là tuyến nhân vật khơng có thật trong

cuộc sống hiện tại nhưng lại là niềm tin của nhân dân vào một xã hội công minh,
nơi mà người tốt sẽ được đền ơn, người xấu sẽ bị xử phạt. Đầu tiên trong tuyến
nhân vật này phải kể đến các nhân vật trên thượng giới, Ngọc Hồng và các vị
thần trên thiên đình như Nam Tào, Bắc Đẩu, Thiên Lôi…Loại nhân vật này có
nguồn gốc thần thoại nhưng đã được cổ tích hóa. Ngọc Hồng được xem là nhân
vật thần linh có quyền lực tối cao nhất, là chúa tể mn lồi, quản lý sinh linh
trên trời và dưới đất. Xã hội trên trời, nơi Ngọc Hoàng và các vị thần ở được
nhân dân mô phỏng giống như kiểu tổ chức xã hội ở trần gian thời phong kiến,
nhưng đây là mơ hình xã hội lý tưởng, công bằng. Tiếp đến là vị thần cai quản


17
cõi âm ty - Diêm Vương, trong truyện cổ tích Diêm Vương là một nhân vật có
quyền xét xử linh hồn người chết. Người có cơng, sống tốt ở trần thế thì được
đầu thai vào kiếp khác, kẻ sống ác thì bị hành hạ dưới các tầng địa ngục đủ thứ
các loại cực hình. Đây cũng niềm tin của nhân dân vào thế giới sau khi chết,
nhắc bảo mọi người phải sống tốt ở cuộc sống trần thế để không bị đầy hỏa ngục
khi linh hồn lìa khỏi thể xác. Vua Thủy tề (Long Vương) và các thủy thần cũng
được xếp vào hàng những nhân vật thần thánh. Đây là nhân vật được nhân dân
rất kính sợ bởi phần lớn công việc làm ăn, sinh sống của người Việt đều gắn với
sông nước. Tuyến nhân vật cuối cùng phải kể đến là: Tiên, Bụt (hay Phật) và các
nhân vật siêu nhiên thần kì khác như chim thần, trăn tinh, hồ ly, ma, quỷ… Loại
nhân vật này khơng có nơi chốn cố định (trên trời, dưới âm phủ hay dưới nước)
mà thường ở những khu vực đặc biệt trong cõi trần như núi cao, rừng rậm, hang
động…Loại nhân vật này đa dạng và có thể chia làm hai bộ phận đối lập: nhân
vật cứu giúp con người làm việc theo thiên chức, trừng trị kẻ ác tiêu biểu là bụt,
tiên và nhân vật yêu quái thù ghét và hãm hại con người như đại bàng, hồ tinh,
trăn tinh…
Nhân vật là người: Bao gồm nhiều kiểu nhân vật thuộc mọi tầng lớp, mọi
giới tính, lứa tuổi…Đầu tiên phải kể đến những người nông dân nghèo khổ,

lương thiện bị đối xử bất công, những người bất hạnh, thấp cổ bé họng trong xã
hội phong kiến, phổ biến nhất là nhân vật mồ côi, nhân vật người em út…Họ là
những con người chính nghĩa mang mang đầy đủ nét đẹp và tính tốt của con
người. Loại nhân vật này thường đóng vai trị trung tâm của các câu chuyện cổ
tích. Đối lập với tuyến nhân vật thiện ở trên là tuyến nhân vật ác: các nhân vật bề
trên, dì ghẻ, anh chị trong gia đình phụ quyền, hoặc những giàu có như phú ơng,
địa chủ…Họ là những người phi nghĩa, mang đủ các tính xấu: độc ác, tham lam,
ích kỉ. Ngồi ra cần phải kể đến các nhân vật là các bậc đế vương, quan lại. Đây
là hệ thống nhân vật khá đa dạng, có nhân vật được nhân dân xây dựng thành
những con người liêm chính, giản dị, sống gần gũi với nhân dân cũng có những


18
nhân vật được nhân dân xây dựng thành những con người xấu xa, bất cơng, bất
nghĩa. Việc xây dựng hình tượng các bậc đế vương là niềm hy vọng của nhân
dân vào một xã hội tốt đẹp, công bằng, đồng thời, nó cũng được lấy từ hình ảnh
những vị vua trong xã hội đương thời.
Nhân vật là loài vật: Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích khơng chỉ có
thần linh, con người mà cịn có cả lồi vật. Thế giới nhân vật loài vật xuất hiện
chủ yếu trong các câu chuyện cổ tích về lồi vật, đó là những con vật đã được
thuần hóa và những con vật sống trong hoang dã. Chúng được xây dựng trên cơ
sở nhân cách hóa, nhằm lí giải những đặc điểm sinh học và thói quen của chúng.
Khơng dừng lại ở việc giải thích về các lồi vật, các tác giả dân gian muốn thơng
qua đó để nói chuyện về cách ứng xử trong đời sống xã hội loài người. Các loài
vật thường xuất hiện trong truyện cổ tích là: con trâu, cịn ngựa, chim bồ câu,
chim sẻ, cuốc, quạ, con cóc…
1.2.4. Đặc điểm chung của nhân vật “người em” trong truyện cổ tích
Trong hệ thống nhân vật truyện cổ tích, nhân vật “người em” thuộc kiểu
nhân vật chức năng, nghĩa là họ khơng có đời sống nội tâm. Họ có tính cách nhất
định từ đầu đến cuối tác phẩm, ở đây, nhân vật “người em” từ đầu đến cuối tác

phẩm được miêu tả là những con người hiền từ, dù gặp rất nhiều thử thách họ
vẫn giữ được phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mình. Như bất kỳ loại nhân vật nào
trong truyện cổ tích, nhân vật “người em” là sản phẩm của sự đồng sáng tạo,
phản ánh đầy đủ và rõ nét hiện thực, thể hiện niềm tin và mơ ước của nhân dân.
Hình tượng nhân vật “người em” mơ tả sinh động số phận bất hạnh của người
em trong xã hội phụ quyền.
Trong những kiểu truyện “người em” mâu thuẫn xã hội được ẩn dưới quan
hệ giữa các cá nhân trong phạm vi gia đình. Nhân vật “người em” được xây
dựng với nguyên tắc cơ bản là phản ánh mối xung đột trong gia đình giữa người
anh, chị với “người em”, tố cáo sự gian mưu của những người làm anh chị trong
việc phân chia tài sản, phân công lao động. Cao Huy Đỉnh trong Tìm hiểu tiến


19
trình văn học dân gian Việt Nam có viết: “Một kiểu truyện cổ tích phổ biến về
người em hiền lành, chăm chỉ lao động nhất định sẽ được hưởng hạnh phúc đối
lập với người anh độc ác, gian tham, nhất định phải đền tội…”, đồng thời tác giả
cũng chỉ ra đặc tính của các nhân vật đối lập: “Thường thường, người anh (chị)
cả bao giờ cũng lười biếng, độc ác, tham lam. Còn người em, nhất là người em út
(trai hay gái) bao giờ cũng hiền lành, thật thà, ngoan ngoãn và dũng cảm. Mọi
liên hệ ruột thịt bị phá vỡ hồn tồn vì những tính xấu đó của người anh (chị)”[7,
tr.62]. Nói như vậy, vơ hình chung tác giả đã đi đến khẳng định, phần lớn các
nhân vật “người em” đều thuộc tuyến nhân vật thiện, họ là những con người tài
giỏi, hiền lành, xinh đẹp, hay giúp đỡ người khác.
“Người em” trong truyện cổ tích được biết đến là những con người “thấp cổ
bé họng”, tội nghiệp đáng thương. Họ phải chịu sự đối xử tệ bạc, sự hắt hủi từ
phía những người thân trong gia đình mình, đặc biệt là người anh, người chị.
Không chỉ chịu sự ghẻ lạnh về tinh thần, “người em” còn phải chịu sự đối xử bất
công trong cách phân chia tài sản, họ thường bị chiếm đoạt hết gia tài bố mẹ để
lại. Xét về địa vị và hoàn cảnh sống trong tương quan với anh, chị “người em” là

kẻ nghèo hèn, không tài sản, không nơi nương tựa, hầu như không có địa vị gì
trong xã hội. Nét tính cách nổi bật của “người em” là hiền lành, tốt bụng, thật
thà, sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ anh chị mình mặc dù đã từng bị họ hãm hại, ghét
bỏ. Có nhiều ý kiến cho rằng, “người em” trong phần các câu chuyện cổ tích thật
thà đến mức ngốc nghếch, ngờ nghệch. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận lại rằng
“người em” trong truyện cổ tích phần lớn là những nhân vật chức năng, theo
kiểu đơn tính cách và tuyệt đối hóa, nghĩa là họ đã tốt thì sẽ tốt từ đầu đến cuối
truyện. Bởi vậy khơng khó để lí giải tại sao dù bị hết lần này đến lần khác lừa
gạt, hãm hại “người em” vẫn sẵn sàng tha thứ cho anh chị mình.
Một đặc điểm nữa cũng cần được lưu tâm ở nhân vật “người em” đó là ở
giai đoạn đầu của cuộc đời họ thường phải chịu nhiều bất hạnh, oan ức nhưng
sau đó họ lại được hạnh phúc, giàu có. Đây là một mơ típ rất quen thuộc trong


×