Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Hợp tác giáo dục việt nam – hàn quốc (1992 2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 53 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
*****

Đề tài:
HỢP TÁC GIÁO DỤC VIỆT NAM - HÀN QUỐC
(1992 - 2012)

SVTH: Phan Thị Thúy Loan
Lớp 10SLS Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
GVHD: PGS.TS. Lưu Trang
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

- Đà Nẵng, 5/2014 -


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lược sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................ 3
4. Nguồn tư liệu của đề tài ................................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 4
7. Bố cục đề tài .................................................................................................. 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC ( 1992 – 2012)......... 5
1.1.Các nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc ......................... 5
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực ................................................................... 5
1.1.2. Sự tương đồng về lịch sử - văn hóa ........................................................ 8


1.1.3. Nhu cầu hợp tác của Việt Nam và Hàn Quốc ....................................... 11
1.1.4. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hàn Quốc ............................... 13
1.1.4.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam................................................... 13
1.1.4.2.Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc ................................................... 14
1.2. Quan hệ giữa Việt Nam – Hàn Quốc trước 1992..................................... 14
1.2.1. Giai đoạn trước 1948............................................................................. 14
1.2.2. Giai đoạn từ (1948 – 1992) ................................................................... 16
1.3. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trên các lĩnh vực (1992 – 2012)............ 18
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG HỢP TÁC GIÁO DỤC VIỆT NAM – HÀN
QUỐC (1992 – 2012) .................................................................................... 24
2.1.Các nội dung hợp tác giáo dục giữa Việt Nam – Hàn Quốc..................... 24
2.1.1.Tăng cường và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học .............. 24


2.1.2.Liên kết đào tạo và trao đổi .................................................................... 25
2.1.3. Thiết lập các quỹ học bổng hỗ trợ giáo dục đào tạo ............................. 30
2.1.4. Tăng cường giao lưu giữa các trường đại học ...................................... 32
2.2. Thành tựu và hạn chế của hợp tác giáo dục Việt Nam – Hàn Quốc (19922012)................................................................................................................ 34
2.2.1. Thành tựu .............................................................................................. 34
2.2.2. Hạn chế.................................................................................................. 37
2.3. Đặc điểm hợp tác giáo dục Việt Nam – Hàn Quốc (1992- 2012) .......... 39
2.4. Tác động của hợp tác giáo dục Việt Nam – Hàn Quốc đối với hai nước 41
2.5. Một vài kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ hợp tác giáo dục Việt
Nam – Hàn Quốc ............................................................................................. 42
KẾT LUẬN .................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 47


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, đối với Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới giáo dục được
xem là quốc sách hàng đầu. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay với xu thế hội nhập,
vai trò của tri thức ngày càng trở nên quan trọng, nó trở thành động lực của tăng
trưởng kinh tế. Tri thức có vai trị to lớn đối với việc nâng cao trình độ dân trí, sự
hiểu biết của con người về thế giới quan cũng như nhân sinh quan, tác động đến
kinh tế làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm … Phát triển
kinh tế tri thức sẽ tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, giảm bớt nặng nhọc trong lao động, không những tác động mạnh đến sự
phát triển kinh tế mà việc phát triển nền giáo dục, tri thức còn ảnh hưởng đến nhiều
vấn đề lớn của xã hội.Vì vậy, hiện nay, các nước đều dành sự quan tâm hàng đầu
cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về tri thức và phát triển đội ngũ
trí thức. Phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế, phù hợp với
quy luật vận động và phát triển của xã hội. Với một quốc gia có điểm xuất phát thấp
như Việt Nam, nhiều kiến thức đã trở nên lỗi thời, lạc hậu thì chúng ta phải xây
dựng được một nền giáo dục rèn luyện nên những con người Việt Nam kiên cường,
giàu trí tuệ và giàu nghị lực sáng tạo mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
thời hội nhập ngày nay đòi hỏi. Để đáp ứng đòi hỏi trên, bên cạnh việc chủ động cải
cách hệ thống, phương pháp giáo dục hiện có để phù hợp với bối cảnh mới thì vấn
đề đẩy mạnh hợp tác về giáo dục là một trong những nội dung quan trọng để Việt
Nam có một nền giáo dục hoàn thiện hơn, khoa học hơn cũng như bắt kịp với nền
giáo dục hiện đại của thế giới. Hàn Quốc là một quốc gia ở Châu Á, là một trong
những nước có nền giáo dục tốt ở khu vực cũng như trên thế giới, đồng thời là nhà
đầu tư lớn thứ hai vào Việt Nam. Từ năm 1992, sau khi hai nước chính thức thiết
lập quan hệ ngoại giao thì Việt Nam và Hàn Quốc khơng chỉ hợp tác với nhau trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa mà để tiến tới tầm “Quan hệ đối tác toàn
diện trong thế kỷ XXI” như hai nước đã từng đưa ra tuyên bố chung vào tháng 8-

1



2001. Việt Nam - Hàn Quốc cịn có những ký kết, những hiệp định như Hiệp định
Hợp tác Giáo dục tháng 03/2000 và Hiệp định Hợp tác Giáo dục và đào tạo ngày
31/05/2005 đồng thời Chính phủ Việt Nam đã quyết định chọn Hàn Quốc là đối tác
chiến lược trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo dục-đào tạo. Đó là
cơ sở pháp lý nhằm tăng cường hơn nữa về hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước.
Để tìm hiểu về vấn đề hợp tác giáo dục của hai nước Việt Nam – Hàn Quốc như thế
nào? Gồm những nội dung gì? Những thành tựu đạt được, hạn chế còn tồn tại…sự
tác động của vấn đề hợp tác giáo dục đối với hai nước ra sao? Tôi đã chọn đề tài “
Hợp tác giáo dục Việt Nam – Hàn Quốc (1992 – 2012)”nhằm làm rõ những nội
dung trên đồng thời nghiên cứu đề tài như một sự khẳng định vai trò tiên phong,
nền tảng của giáo dục đối với việc xây dựng một quốc gia phát triển vững mạnh
cũng như việc hợp tác giáo dục là một tất yếu để nền giáo dục của mỗi nước được
hoàn thiện hơn và phù hợp với xu thế thời đại, góp phần vào cơng cuộc hội nhập
của mỗi quốc gia vào thế giới.
2. Lƣợc sử vấn đề
Trong thời gian khoảng hai thập niên trở lại đây thì hợp tác giữa Việt NamHàn Quốc phát triển mạnh mẽ mà nổi bật là sự hợp tác về giáo dục giữa Việt Nam Hàn Quốc cùng với đó thì quan hệ giữa hai nước cũng có nhiều chuyển biến tích
cực. Đã có một số tài liệu đề cập tới vấn đề này nhưng cho tới nay chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc về hợp tác giáo dục Việt NamHàn Quốc. Xin điểm qua một số cơng trình sau:
- Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh quốc tế mới, Ngơ Xn Bình
(chủ biên), nxb từ điển bách khoa(2012) cơng trình này tập trung phân tích, đánh
giá quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc kể từ sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức (1992) cho đến cuối thập niên đầu thế kỷ XXI (thời điểm Việt Nam
và Hàn Quốc nâng cấp quan hệ đối tác hợp tác chiến lược – 2009). Lịch sử quan hệ
hai nước trước 1992 cũng được xem xét trong mối tương tác với thời kỳ thiết lập
quan hệ ngoại giao chính thức. Cơng trình này chưa đi sâu vào việc làm rõ vấn đề
hợp tác giáo dục giữa hai nước

2



- Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ năm 1992 đến nay và triển vọng phát triển
đến năm 2020, Nguyễn Hoàng Giáp,Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Văn Dương (đồng
chủ biên), nxb chính trị quốc gia(2011)nội dung cuốn sách tập trung phân tích
những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, bao gồm: tình
hình thế giới và khu vực, chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hàn Quốc sau
chiến tranh lạnh, thực trạng quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trên các lĩnh vực: chính
trị- đối ngoại, kinh tế và văn hóa, giáo dục, khoa học- công nghệ khi hai nước thiết
lập quan hệ ngoại giao chính thức từ tháng 12-1992 đến nay. Đồng thời làm rõ mối
quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong khuôn khổ đối tác, hợp tác chiến lược để thấy
rõ những thuận lợi, khó khăn, hạn chế; đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm tăng
cường mối quan hệ này cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, phục vụ đắc lực cho chiến
lược phát triển của hai nước trong tình hình mới.
Những cơng trình trên là tư liệu khơng thể thiếu trong q trình nghiên cứu
của tơi.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Hợp tác giáo dục Việt Nam- Hàn Quốc (1992- 2012)”, để
thấy được chính sách, nội dung cũng như thành tựu đạt được trong hợp tác giáo dục
Việt Nam- Hàn Quốc (1992- 2010), những tác động của việc hợp tác đối với hai
nước
3.2 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc hợp tác giữa Việt Nam- Hàn Quốc trên
lĩnh vực giáo dục từ năm 1992 đến năm 2012, thành tựu cũng như tác động của việc
hợp tác đó đối với hai nước.
3.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Hàn Quốc
trong khoảng thời gian từ 1992 đến 2012

3



4. Nguồn tƣ liệu của đề tài
Để hoàn thành đề tài này tôi sử dụng các tài liệu sách, kỷ yếu, các cơng trình
nghiên cứu về quan hệ giữa Việt Nam – Hàn Quốc, tài liệu mạng
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tôi đứng trên cơ sở của phương pháp luận chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng.
Tơi kết hợp giữa nhiều phương pháp như phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích nhằm mở thông tin và làm phong phú
thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu và biên soạn.
6. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu đề tài giúp làm rõ những chính sách cụ thể trong hợp tác giáo dục
Việt Nam- Hàn Quốc, nội dung hợp tác cũng như kết quả đạt được, vai trò tác động
của mối quan hệ đối với hai nước. Đồng thời đề tài còn làm rõ những vấn đề còn
tồn tại trong hợp tác giáo dục giữa hai nước cũng như triển vọng của mối quan hệ
trong tương lai. Đề tài cũng cho thấy được vấn đề hợp tác giáo dục cũng là một
trong những nội dung quan trọng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam khơng chỉ
đối với Hàn Quốc mà cịn đối với nhiều quốc gia khác. Hợp tác như thế nào để nền
giáo dục Việt Nam có thể khắc phục được những hạn chế đang tồn đọng, đưa nền
giáo dục Việt Nam theo kịp với nền giáo dục của các nước trên thế giới, đặc biệt là
đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội trong bối cảnh mới.
7. Bố cục đề tài
Đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì nội dung gồm hai
chương:
Chương 1: Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc (1992 – 2012)
Chương 2: Nội dung hợp tác giáo dục Việt Nam – Hàn Quốc (1992 – 2012)

4



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC ( 1992 – 2012)
1.1.Các nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có
nhiều chuyển biến lớn, tác động mạnh mẽ đến quan hệ giữa hai nước.
- Về bối cảnh quốc tế: Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, sau khi chiến tranh
lạnh kết thúc, sự đối đầu Xơ – Mỹ khơng cịn nữa, đối thoại đã thay thế cho đối đầu
và trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô, một trong hai siêu
cường của thế giới đã làm tan rã trật tự quốc tế cũ hình thành từ sau Chiến tranh thế
giới thứ II, mở đầu cho thời kỳ thế giới chuyển từ hai cực sang trật tự một siêu
cường – đa trung tâm. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất về kinh tế và quân sự dù
khơng phải là hồn tồn chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng tương quan lực lượng trên
thế giới đã thay đổi có lợi cho Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, sự phát
triển của Nhật Bản và Tây Âu tạo ra tương quan lực lượng về kinh tế - chính trị cân
bằng hơn cho thế giới. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền của
các nước đang phát triển chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước lớn đã trở thành
một xu thế đáng kể trên thế giới. Tất cả những điều nói trên cho thấy thế giới phát
triển theo xu hướng đa trung tâm.Trong quan hệ quốc tế đang diễn ra một sự sắp
xếp lại lực lượng theo ưu tiên hàng đầu là phát triển kinh tế: “Để tồn tại và phát
triển cũng như bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, các nước phải nhanh chóng hịa nhập
mạnh mẽ vào trào lưu cải cách bởi vì sức mạnh của một quốc giờ bây giờ được đo
chủ yếu bằng sức mạnh kinh tế - tài chính.Cách mạng khoa học kĩ thuật, đặc biệt là
cách mạng thông tin đã dẫn tới việc hình thành nền kinh tế tri thức. Trào lưu cải
cách thể chế và cơ cấu kinh tế ở mỗi nước là những nhân tố có tác động dây chuyền
đang làm thay đổi cơ bản bộ mặt thế giới hiện đại [25, tr.10]

5



Trong thập kỉ 90, hịa bình và phát triển là hai trào lưu lớn trên toàn thế giới.
Nhật Bản và một số nước phương Tây từ địa vị của kẻ chiến bại nay nổi lên thành
những trung tâm quyền lực mới của thế giới, chủ yếu nhờ biết sớm đầu tư vào khoa
học kỹ thuật hiện đại và những ngành cơng nghệ lấy chất xám làm nền móng để
phát triển kinh tế. Nhân tố kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng, đang dần trở thành
vị trí chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế
và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng. Q trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế
giới với sự phân công lao động quốc tế cao độ, sản xuất xã hội hóa ở quy mơ tồn
cầu. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới đã ràng buộc tất cả
những nước nào cũng đặt yêu cầu phát triển kinh tế thành mục tiêu chiến lược của
mình. Những xu hướng mới này dẫn đến sự ra đời và đổi mới của các tổ chức, diễn
đàn hợp tác như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) thành
lập năm 1989, Khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ (MERCOSUR) thành lập năm
1991 …Sự thay đổi trong chính sách ngoại giao của các nước theo hướng tăng
cường hợp tác ra bên ngoài để phát triển đất nước đặc biệt phát triển kinh tế. Trong
bối cảnh quốc tế đó, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc được thiết lập như một quy luật
tất yếu, một sự cần thiết, góp phần vào công cuộc phát triển quan hệ ngoại giao của
mỗi nước để đưa đất nước phát triển hơn.
-Về bối cảnh khu vực: Trong thập niên 90, các nước Đông Nam Á có tốc độ
tăng trưởng cao, trở thành một trong những nhóm nước có nền kinh tế phát triển
năng động nhất thế giới. Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại bao trùm khu vực
khiến những khác biệt về hệ tư tưởng khơng cịn có ý nghĩa như trong thời kỳ chiến
tranh lạnh. Sự đối đầu giữa nhóm các nước ASEAN và Đông Dương ngày càng
giảm và thay bằng đối thoại, hợp tác. Sau nhiều thập kỷ bị phân chia thành hai
nhóm đối địch, giờ đây tất cả các nước Đơng Nam Á đều mong muốn có hịa bình,
ổn định để xây dựng và phát triển kinh tế, biến Đơng Nam Á thành khu vực hịa
bình, hợp tác và phát triển.
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô đưa đến sự thay đổi căn
bản trong cán cân lực lượng thế giới và khu vực. Ở Đông Nam Á, việc cả Liên Xô


6


và Mỹ đều giảm sự có mặt về quân sự của mình đã tạo ra một khoảng trống quyền
lực ở đây. Việc Mỹ rút khỏi khu vực vào năm 1992 đã làm mất đi chỗ dựa truyền
thống về an ninh của một số nước Đông Nam Á. Về kinh tế, sự nổi lên của các nền
kinh tế lớn Trung Quốc, Ấn Độ và sự ra đời của các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực
như APEC, MERCOSUR tạo nên sự cạnh tranh bất lợi cho một số nước Đông Nam
Á. Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ở châu Á cũng gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh
tế một số nước Đơng Nam Á. Để đối phó với những thách thức trong thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh và đảm bảo mơi trường quốc tế thuận lợi cho việc duy trì đà tăng
trưởng kinh tế của mình cũng như tạo ưu thế cạnh tranh đối với những nền kinh tế
đang nổi lên, các nước Đơng Nam Á phải tìm cách cải thiện tiềm lực kinh tế và vị
thế chính trị của mình trên trường quốc tế. Các nước Đơng Nam Á đã có những điều
chỉnh hết sức quan trọng trong chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ ASEAN với các nước, các khu vực và các tổ chức quốc tế để
thực hiện mục tiêu phát triển trong hịa bình và ổn định. Bên trong, các nước Đơng
Nam Á tăng cường hợp tác một cách tồn diện với nhau và mở rộng cơ cấu của
ASEAN thành ASEAN -10 (năm 1999). Việc mở rộng ASEAN là một sự kiện có ý
nghĩa lịch sử to lớn vì đây là lần đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á hình thành một
Hiệp hội bao gồm tất cả các nước trong khu vực từ những nhóm nước khác nhau,
đặc biệt nó là tổ chức khu vực duy nhất tập hợp tất cả các nước trong khu vực với
các trình độ phát triển kinh tế và chế độ chính trị, văn hóa khác nhau. Các nước
Đơng Nam Á đã cùng nhau thiết lập nên một tổ chức khu vực để bảo vệ các lợi ích
chung của họ, duy trì khoảng cách với các nước lớn và hạn chế hoặc cân bằng ảnh
hưởng từ các nước lớn.
Như vậy, có thể thấy bối cảnh chung của quốc tế và khu vực từ thập niên 90
của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ XXI đang chuyển dần từ xu thế đối đầu
sang đối thoại, các nước tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia thay cho cho việc

chạy đua vũ trang như trước đây, các nước mở rộng quan hệ ngoại giao hơn kể cả
giữa những nước trước đây từng là đối thủ của nhau hay những nước khác nhau về
thể chế chính trị. Trong bối cảnh đó năm 1992 Việt Nam và Hàn Quốc chính thức

7


thiết lập mối quan hệ ngoại giao, nhằm tăng cường hơn nữa sự hợp tác về giáo dụ
cũng như hợp tác trên các lĩnh vực khác giữa hai nước.
1.1.2. Sự tương đồng về lịch sử - văn hóa
Việt Nam, Hàn Quốc tuy khơng phải nằm ở vị trí lân cận, láng giềng nhưng
đều là hai quốc gia ở châu Á, đều trải qua một quá trình dài xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước và có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa.
-Về lịch sử hình thành đất nƣớc: Ở Hàn Quốc, các cơng trình khảo cổ cho
thấy rằng quốc gia được thành lập đầu tiên ở Hàn Quốc là vào khoảng thế kỷ thứ X
TCN, cũng tương đương với thời điểm khởi đầu của lịch sử Việt Nam. Vào thời nhà
Hán, nước cổ Choson của Hàn Quốc bị xâm lược và sau một thời gian dài chống
xâm lược, đã bị thất thủ hoàn toàn vào năm 108 TCN. Trong thời kì đơ hộ, nhà Hán
đã chia miền Bắc Bán đảo Hàn ra làm 4 quận. Giống như Hàn Quốc, Việt Nam bị
nhà Hán xâm lược vào năm 111TCN, trước Hàn Quốc 3 năm, nước Nam Việt cũng
bị chinh phục và bị người Hán chia thành 3 quận (Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam).
Trong suốt quá trình bị đô hộ cả hai nước đều liên tiếp nổ ra các cuộc đấu tranh
chống phong kiến Trung Quốc. Ở Hàn Quốc qua các cuộc đấu tranh, bốn quận mà
nhà Hán lập ra bị xoá bỏ, ba quốc gia tự trị được thành lập: Koguryo, Paekche và
Shilla, Bán đảo Hàn chuyển sang thời kỳ Tam Quốc. Thời kỳ Tam Quốc được hình
thành từ khoảng đầu sau Cơng ngun đến khoảng giữa thế kỷ thứ VII thì bán đảo
Hàn được thống nhất,
Từ khoảng thế kỷ thứ X đến thứ XIV, nước Cổ Choson, đã có quan hệ giao
lưu quốc tế và trao đổi thương mại rất sôi nổi. Vào thời Koryo, chế độ chính trị
cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ triết lý Khổng Giáo. Thế nhưng, trong cuộc sống

hằng ngày thì đạo Phật có sức ảnh hưởng hơn cả. Nhìn lại lịch sử Việt nam, Việt
Nam giành lại độc lập từ Trung Quốc vào thế kỷ thứ X đến năm 1070 nhà Lý đã
cho xây dựng Văn Miếu và ban hành chế độ thi cử từ năm 1075, và vào năm 1076
đã cho xây Quốc Tử Giám. Tư tưởng xã hội trọng tâm trong các đời Lý, Trần đều là
Phật giáo, tương tự như Koryo. Như vậy có thể thấy thời phong kiến ở Việt Nam,

8


Hàn Quốc đều chịu ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc về chế độ giáo dục, khoa cử,
thiết chế chính trị, tư tưởng tôn giáo.
Vào thế kỷ XIX, cả Hàn Quốc và Việt Nam đều thất bại trong cuộc chiến
chống sự xâm lược của các cường quốc phương Tây, phải hứng chịu nỗi đau là nạn
nhân của thời kỳ thuộc địa. Đầu thế kỷ XX, các nhà tri thức Choson đã đọc cuốn
“Việt Nam vong quốc sử” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu và họ rất lấy làm
ấn tượng, bức xúc với nội dung tác phẩm. Choson cũng bị một quốc gia cùng ở
phương Đông là Nhật Bản xâm lược và phải chịu ách áp bức bóc lột của chế độ cai
trị thuộc địa Nhật suốt 36 năm. Việt Nam, vào khoảng giữa thế kỷ XIX, cũng là nạn
nhân của chế độ cai trị thuộc địa khắc nghiệt của thực dân Pháp. Ngoài ra, khoảng
1940, Việt Nam lại phải chịu ách thống trị của quân phát xít Nhật lúc bấy giờ đang
hồnh hành trên tồn Bán đảo Đơng Dương. Vì sự nghiệp giành lại độc lập từ Nhật
Bản và Pháp, các nhà hoạt động cho phong trào độc lập của hai nước cũng có những
cuộc tiếp xúc với nhau.
Năm 1945, Việt Nam và Hàn Quốc thoát khỏi sự cai trị của chế độ thuộc địa,
giành lại độc lập, thế nhưng, đất nước lại bị phân chia và rơi vào vịng xốy chiến
tranh của thời kỳ Chiến tranh lạnh. Năm 1950, Hàn Quốc đã trải qua bi kịch của
cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc. Khi chiến tranh kết thúc, những gì cịn lại
chỉ là sự nghèo nàn và những đống hoang tàn đổ nát. Đầu những năm 1960, Hàn
Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với GDP bình quân đầu
người chỉ đạt 80 USD/người. Nói cụ thể hơn thì Hàn Quốc đứng thứ 4 trong các

nước nghèo nhất trên thế giới. Đến năm 2006, GDP bình quân đầu người đã đột phá
lên mức 24.000 USD/người, tăng 300 lần chỉ trong vòng 46 năm. Đối với Việt
Nam, sau khi giành lại độc lập vào năm 1945, Việt Nam lại phải chịu nhiều thử
thách do chiến tranh và đất nước bị chia cắt. Trải qua 9 năm kháng chiến chống
thực dân Pháp, sau đó lại tiếp tục đấu tranh chống Mỹ xâm lược trong suốt hơn 20
năm, đến năm 1975, Việt Nam được hoàn toàn thống nhất đất nước. Sau giải phóng
năm 1975, Việt Nam nỗ lực vì mục tiêu ổn định xã hội và phát triển kinh tế nhưng
đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Để hội nhập quốc tế và khắc phục những

9


khó khăn về kinh tế, Việt Nam đã theo đuổi chủ trương cải cách và áp dụng chính
sách “Đổi mới” vào năm 1986 và đang thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
đất nước, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Như vậy sau khi giành độc lập, thoát khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cả hai nước đều ra sức tập trung phát triển kinh
tế, thực hiện các chính sách đổi mới nhằm đưa đất nước đi lên.
Về văn hóa: Cùng với sự tương đồng về lịch sử, Việt Nam, Hàn Quốc cũng có
nhiều nét tương đồng về văn hố. Việt Nam ở Đơng Nam Á, Hàn Quốc ở Đông Bắc
Á nhưng cả hai nước đều ở vị trí bán đảo nối liền với đại lục và nhìn ra đại dương.
Tính bán đảo và đại dương tạo ra nhiều điều kiện địa lý - văn hoá gần gũi của hai
nước.
Trên nền tảng nông nghiệp trồng lúa, cơ cấu xã hội, tổ chức xóm làng, gia
đình của hai nước cũng có nhiều nét tương đồng trong truyền thống như kính trọng
người lớn tuổi, coi trọng gia đình, bạn bè và láng giềng.
Xuất phát từ nền văn hoá ẩm thực, lấy gạo làm lương thực chính, cư dân hai
nước thích ăn rau củ, thuỷ sản và đều dùng đũa. Người Hàn Quốc trồng lúa gạo, lúa
mì, lúa mạch nhưng vẫn thích ăn cơm như người Việt Nam. Món Kim Chi của Hàn
Quốc cùng hương vị với món dưa muối phổ biến của người Việt Nam.
Trong lịch sử sinh tồn và phát triển lâu dài của mình, hai nước đã nhiều lần

phải đương đầu với hoạ xâm lược của nhiều thế lực lớn mạnh. Lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm đó đã hun đúc nên tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc sâu sắc
của nhân dân mỗi nước. Trải qua những năm tháng gian khổ, Việt Nam và Hàn
Quốc đã tái thiết đất nước trên nền đổ nát của chiến tranh. Hai nước nằm trong khu
vực ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc và đều sớm tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của
nền văn minh nổi tiếng này. Tuy nhiên, trên cơ sở một cội nguồn văn hoá bản địa
bền vững, những yếu tố ngoại nhập đều phải thích nghi, kết hợp với điều kiện nội
sinh, làm phong phú nền văn hoá dân tộc và nâng cao bản sắc dân tộc. Khổng giáo
vào Hàn Quốc cũng như vào Việt Nam đều phải kết hợp với văn hố và tín ngưỡng
dân gian. Cả hai nước đều sớm có một nền giáo dục và thi cử phát triển theo tinh
thần Nho giáo: “Chữ Hán vào Việt Nam được đọc theo âm Việt thành chữ Hán -

10


Việt và người Việt dùng chữ Hán ghi âm Việt thành chữ Nôm” [33, tr.286] cũng gần
như thế, “người Hàn Quốc tiếp nhận chữ Hán và từ đó tạo ra chữ Idu và chữ Hanji.
Thế kỷ XV người Hàn Quốc sáng tạo ra chữ Hangul theo hệ chữ cái” [33, tr.288].
Về tôn giáo: Phật giáo và Thiên Chúa giáo cũng sớm du nhập vào hai nước và được
nhân dân tiếp nhận…
Như vậy có thể thấy về mặt lịch sử- văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc vẫn có
nhiều nét tương đồng bên cạnh sự khác biệt. Chính những điểm tương đồng này sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu hợp tác giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực
trong quá khứ, hiện tại cũng như là tương lai
1.1.3. Nhu cầu hợp tác của Việt Nam và Hàn Quốc
Mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc được xây dựng dựa trên ngun tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi khi mà nước này nhìn thấy được ở nước kia những
nhu cầu cần cho sự phát triển của nước mình. Vì thế có thể nói hợp tác Việt Nam –
Hàn Quốc xuất phát từ nhu cầu của cả hai nước
Việt Nam là một nước ở khu vực Đông Nam Á có nhiều tài nguyên thiên

nhiên, đang phát triển, có lợi thế về nhân cơng rẻ lại có tình hình chính trị, xã hội ổn
định, kinh tế tăng trưởng tương đối cao, đang tích cực hội nhập quốc tế và khu vực;
Hàn Quốc có nền kinh tế đứng hàng thứ 10 trên thế giới, đứng thứ 4 châu Á sau
Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và đứng thứ 13 thế giới, các ngành cơng nghiệp của
Hàn Quốc rất phát triển, có lợi thế về công nghệ, kỹ thuật cao và vốn. Có thể khẳng
định rằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Hàn Quốc
là một quyết định lịch sử phù hợp với lợi ích của hai nước, đưa quan hệ giữa hai
nước bước sang một giai đoạn mới, hướng tới tương lai, hợp tác cùng phát triển.
Do có sự ổn định về chính trị - xã hội, chi phí sản xuất cịn tương đối thấp, lực
lượng lao động và tài nguyên thiên nhiên dồi dào mà Việt Nam đã thiết lập được
mạng lưới cung ứng ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp, tận dụng được thị
trường tự do ASEAN và cơ chế Hiệp định giữa Hàn Quốc - ASEAN.
Việt Nam có tầm quan trọng nhất định trong việc triển khai chiến lược của
Hàn Quốc ở Đông Nam Á, là nhân tố mà Hàn Quốc khơng thể bỏ qua trong chính

11


sách của mình đối với các nước trong khu vực. Mặt khác, nhân tố Hàn Quốc có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết trong chính sách đối ngoại và phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế Việt Nam đang trải
qua những diễn biến tương tự mà Hàn Quốc đã trải qua trong những thập kỷ trước
đây. Những kinh nghiệm về quản lý, phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực của
Hàn Quốc rất cần thiết cho sự phát triển đất nước của Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Một nét đặc trưng điển hình trong quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc, nếu
so sánh với rất nhiều quan hệ song phương khác của Việt Nam, là Hàn Quốc sẵn
sàng chia sẻ những kinh nghiệm của mình và sẵn sàng hỗ trợ một cách đầy đủ nhất
cho Việt Nam. Chính phủ Hàn Quốc đã coi Việt Nam là một trong những quốc gia
đối tác quan trọng về hợp tác phát triển và đã đề xuất thực hiện Chiến lược Đối tác

quốc gia (CPS) với Việt Nam giai đoạn 2011-2015 gắn liền với Chiến lược Phát
triển kinh tế - xã hội, Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội và Khuôn khổ Chiến lược
ODA của Việt Nam lực sẽ được đưa ra để nâng cao khả năng xử lý các vấn đề trên
của Việt Nam.
Bên cạnh hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa thì hiện Việt Nam và Hàn Quốc
còn chú trọng đến hợp tác trên lĩnh vực giáo dục. Bởi trong thời kì hiện nay tri thức
được xem là một sức mạnh quan trọng cho sự ổn định và phát triển của một quốc
gia. Đối với mỗi nước sự thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực, sự tăng cường
cạnh tranh về kinh tế đòi hỏi giáo dục cũng phải từng bước thay đổi để đáp ứng
được nhu cầu của tình hình mới. Đồng thời mỗi nước không chỉ dựa vào nền giáo
dục truyền thống mà cần phải giao lưu, học hỏi những điểm tốt của nền giáo dục
của nước ngoài để hoàn thiện nền giáo dục của nước mình. Việt Nam và Hàn Quốc
cũng khơng nằm ngồi xu thế đó, với truyền thống hiếu học của nhân dân hai nước
cũng như đòi hỏi đổi mới của nền kinh tế và đặc biệt những thành tựu về giáo dục
mà hai nước đạt được trong thập kỉ vừa qua cùng với việc thiết lập quan hệ ngoại
giao trên các lĩnh vực khác thì Vịêt – Hàn cũng đã hợp tác nhau trên lĩnh vực giáo

12


dục nhằm học hỏi, trao dồi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau để nền giáo dục của cả hai
nước ngày càng tiên tiến đáp ứng nhu cầu đổi mới của thời đại.
Như vậy, từ nhu cầu cũng như lợi ích nhận được trong hợp tác lẫn nhau mà
Việt Nam – Hàn Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1992 trong đó có
cả hợp tác về giáo dục.
1.1.4. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hàn Quốc
1.1.4.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam
Tháng 12- 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI. Đại hội VI Đảng Cộng Sản đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại. Đại hội đã xác định những chủ

trương lớn trong quan hệ quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới đó là: chủ
trương thêm bạn bớt thù; tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ.
Có thể nói Đại hội VI “ngồi việc khởi xướng cho cơng cuộc đổi mới đất nước, còn
là Đại hội chuyển hướng và mở cửa cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam”, [14,
tr.527]. Đó là sự hình thành tư duy mới và chính sách mới của Việt Nam trong bối
cảnh lịch sử mới. Sau đó tháng 5 – 1988 Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VI)
ra nghị quyết 13, cụ thể hóa đổi mới tư duy đối ngoại nhằm làm cho công tác đối
ngoại Việt Nam theo kịp với những diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới và
kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thế giới trong một thời đại
đang có những thay đổi sâu sắc.
Đến Đại hội VII, Đảng Cộng Sản Việt Nam(6-1991) về cơ bản đã hoàn chỉnh
đường lối đối ngoại của Việt Nam là: Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại, và tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển” [27,tr.102]. Như
vậy, trên cơ sở tư duy mới khoa học và cách mạng của Đảng và nhà nước Việt Nam
về công tác đối ngoại từ năm 1990 đến nay đường lối và chính sách đối ngoại nêu
trên được triển khai mạnh mẽ, đạt hiệu quả thiết thực, to lớn.

13


1.1.4.2.Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc
Đối với Hàn Quốc, sau 3 thập kỉ cải cách, phát triển kinh tế, đến cuối thập kỉ
80, đầu thập kỉ 90 Hàn Quốc đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về phát triển kinh
tế, trở thành “một trong bốn con rồng châu Á”. Tiếp tục chính sách “quốc tế
hóa”,đầu thập niên 90 Hàn Quốc thực hiện chính sách “tồn cầu hóa” đưa đất nước
Hàn Quốc mau chóng hội nhập khu vực và thế giới. Ngay từ tháng 6/1988 Hàn
Quốc đã triển khai “chính sách phương Bắc”, thiết lập quan hệ ngoại giao với
Hung-ga-ri, Ba Lan, Nam Tư, Ru- ma- ni, Tiệp Khắc. Năm 1989 kim ngạch buôn
bán giữa Hàn Quốc và Liên Xơ đã đạt 600 triệu USD, cịn với Trung Quốc đã lên

tới 3,8 tỷ USD. Và như đã biết tháng 9- 1991, Hàn Quốc đã thiếp lập quan hệ ngoại
giao chính thức với Liên Xơ và một năm sau với Trung Quốc (8-1992). Điều đáng
chú ý ở đây là, Hàn Quốc đã đạt được sự cơng nhận chính thức của các nước đồng
minh hoặc bạn bè truyền thống của CHDCND Triều Tiên ( Liên Xô, Trung Quốc,
Hung- ga- ri, Ba Lan, Ru- ma- ni, Tiệp Khắc...)mà không phải đổi bằng sự công
nhận của các nước đồng minh của Hàn Quốc như Mỹ, Nhật đối với CHDCND
Triều Tiên.
Như vậy, tư duy mới và đường lối đổi mới của Việt Nam trong đó có đổi mới
chính sách đối ngoại đã bắt gặp chính sách , “tồn cầu hóa” của Hàn Quốc. Cùng
mạch đập trong dòng chảy của thời đại ngày nay, thời đại của thế giới đa cực, đa
phương hóa quan hệ quốc tế, mẫu số chung mà Việt Nam, Hàn Quốc đạt được là lợi
ích kinh tế, lợi ích văn hóa... để cùng phát triển trong cùng tồn tại hịa bình. Chính
điểm chung trong phương hướng đối ngoại là tiền đề cần thiết cho sự hợp tác giữa
Việt Nam – Hàn Quốc trong đó có hợp tác về giáo dục, khi mà cả hai nước đều xem
giáo dục là “quốc sách hàng đầu”.
1.2. Quan hệ giữa Việt Nam – Hàn Quốc trƣớc 1992
1.2.1. Giai đoạn trước 1948
Việt Nam – Hàn Quốc tuy mới thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức từ năm
1992, nhưng trong quá khứ từ nhiều thế kỉ trước hai dân tộc đã có được những mối
dây liên hệ với nhau.

14


Theo nhiều nguồn tư liệu phát hiện từ những thập niên 30 cuối thế kỉ XX và
theo nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy “trong cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIII đã
có hai người hồng tử triều Lý của Việt Nam do những biến động của lịch sử đã lần
lượt sang định cư ở Hàn Quốc và trải qua nhiều đời con cháu họ đã có nhiều đóng
góp trong cơng cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Đại Hàn” [27, tr.133]. Đây là cơ
sở cho việc tạo lập mối quan hệ giữa Việt Nam với hai miền Nam – Bắc Triều Tiên.

Người Việt Nam đầu tiên nhập cư vào Triều Tiên cuối thế kỉ XII là “Lý
Dương Cơn tự là Ngun Minh, hồng tử thứ ba của Vua Lý Nhân Tông (1072 –
1128) tên là Càn Đức sang cư trú tại miền biển Đông bán đảo Triều Tiên”
[31,tr.146]. Do lúc bấy giờ triều đình nhà Lý có chính biến, ơng đã đem gia quyến
xuống thuyền lánh nạn sang Triều Tiên. Sau khi nhập cư vào Triều Tiên, các con
cháu của Lý Dương Cơn đều có những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước Triều Tiên. Người thứ hai nhập cư vào Triều Tiên là Lý Long Tường. Năm
1225 Trần Thủ Độ phế bỏ Triều Lý, lập triều Trần để nhường ngôi cho cơng chúa
Lý Chiêu Hồng. Trước tình hình đó, Lý Long Tường, hồng tử con thứ của vua Lý
Anh Tơng (1138 – 1175), em vua Lý Cao Tông (1176 – 1210) và là chú của vua Lý
Huệ Tông (1211 – 1224) đã cùng với một số tùy tùng đem theo đồ thờ cúng tổ tiên
chạy về phía đơng rồi vượt biển đến huyện Bồn Tân nước Triều Tiên lánh nạn. Có
thể nói thế kỉ XIII là thời kì đỉnh cao của quan hệ Việt – Triều, khi hậu duệ nhà Lý
đã sinh sống và giữ nhiều trọng trách trong triều đình phong kiến Cao Ly (Triều
Tiên) và lập nhiều chiến công lẫy lừng trong việc đánh thắng quân xâm lược Mông
– Nguyên. Hậu duệ nhà Lý đã được ban thưởng, phong chức tước, cấp đất, cấp dân
cho hưởng lộc, cho dựng nhà lưu niệm( gọi là Thụ Hồng Mơn) và đề biển ghi công
đức. Đây là sự kiện, điểm đặc biệt trong quan hệ hai nước.
Tiếp theo những sự kiện trên quan hệ Việt Nam – Triều Tiên nói chung Hàn
Quốc nói riêng tiếp tục phát triển trong thời kỳ trung đại qua các hoạt động của các
sứ thần hai bên như Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng,
Nguyễn Tông Quái, Lê Qúy Đôn, Hồ Sĩ Đồng, Phan Huy Ích, Đoàn Nguyên Tuấn,
Nguyễn Đề...các cuộc gặp gỡ như vậy có thể do hai nước chủ động giao hẹn với

15


nhau hoặc có thể gián tiếp thơng qua việc đi chầu ở Trung Hoa. Nội dung của các
cuộc gặp gỡ thường là “hai bên trao đổi với nhau về những thơng tin về chế độ,
phong tục, tập qn, khí hậu, nơng sản...hoặc các đề tài nghệ thuật văn hóa như thơ

phú, nhạc, họa...”[27, tr.125]. Tuy quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ này khơng
được thường xun, cịn rời rạc và gián tiếp không giống như quan hệ với những
nước khác lân bang của Việt Nam cũng như Hàn Quốc nhưng đã có những trao đổi
đầu tiên, liên tục trong suốt thời trung đại. Quan hệ hai nước thời kì này là quan hệ
giữa hai quốc gia, triều đại phong kiến tồn tại bình đẳng, độc lập. Tuy việc giao lưu,
tiếp xúc giữa hai nước không được thường xuyên do hoàn cảnh địa lý cách xa nhau
nhưng cũng nhờ những giao lưu, tiếp xúc ban đầu này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hai bên có những hiểu biết ban đầu, cũng như cho việc phát triển mối quan hệ giữa
hai nước thời kỳ sau này.
1.2.2. Giai đoạn từ (1948 – 1992)
Nếu như trong suốt thời kì lịch sử lâu dài từ cổ trung đại đến 1948 quan hệ
Việt – Triều là mối quan hệ bình thường, thì giai đoạn 1948 – 1992 là giai đoạn
quan hệ Việt – Hàn trở nên bất bình thường, khơng thân thiện, thậm chí có khi đối
đầu, căng thẳng. Sự bất bình thường trong quan hệ Việt - Hàn (1948-1992) có thể
chia làm 3 giai đoạn:
Từ năm 1948 đến 1954 là giai đoạn mở đầu cho mối quan hệ bất bình thường.
Năm 1948, bán đảo Triều Tiên tách ra thành lập hai nhà nước riêng lấy vĩ tuyến 38
làm giới tuyến: Bắc Triều Tiên thành lập nước CHDCND Tiều Tiên, Nam Triều
Tiên thành lập nước Cộng Hịa Triều Tiên (Hàn Quốc) theo chính thể Cộng Hòa .
Nhưng “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chỉ thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại
giao với CHDCND Triều Tiên, không thừa nhận và không thiết lập bất kì mối quan
hệ nào với Hàn Quốc. Tương tự Hàn Quốc cũng không thừa nhận và không thiết
lập mối quan hệ nào đối với Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, trong khi đó lại ủng hộ
và quan hệ với chính quyền bù nhìn Bảo Đại và thực dân Pháp” [39, tr.7].
Từ năm 1954 đến 1975 là giai đoạn đỉnh cao của sự bất bình thường trong
quan hệ Việt – Hàn. Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tiếp tục thừa nhận và quan hệ

16



tồn diện với Cộng Hịa Dân chủ Nhân Dân Triều Tiên. Trong khi đó “Hàn Quốc
đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam để đáp lại u cầu
của chính phủ Việt Nam Cộng Hịa (ngụy quyền Sài Gòn) dưới sự dật giây của Mỹ.
Từ 1967 – 1972, số quân Hàn Quốc được huy động cao nhất đưa sang Việt Nam
lên tới 48.830 người. Trong 8 năm 7 tháng (từ 9-1964 đến 3-1773) tổng số lượt
quân Hàn Quốc đã tham gia vào cuộc chiến tại Việt Nam là 325.517 người” [40,
tr.128]. Trong suốt quá trình lịch sử của mình từ 1948, đây là lần đầu tiên Hàn Quốc
gởi quân ra nước ngoài tham gia vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Sự can dự này
trở thành một sự kiện nổi bật trong lịch sử hiện đại Hàn Quốc và đã gây ra những
ảnh hưởng sâu sắc đối với mọi lĩnh vực chính trị, quân sự , ngoại giao, kinh tế, xã
hội và tâm lý của Hàn Quốc. Chính sự can dự này đã tác động mạnh mẽ đến mối
quan hệ đồng minh Hàn – Mỹ và gây ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Việt Nam.
Đương nhiên, về phía Việt Nam cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một cuộc
chiến tranh chính nghĩa, cịn Mỹ và đồng minh của Mỹ (trong đó có Hàn Quốc) lao
vào cuộc chiến tranh phi nghĩa do họ gây ra nên phải chịu trách nhiệm trước lịch sử
và nhân dân Việt Nam về cuộc chiến tranh này. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam
(1954- 1975), “Việt Nam – Hàn Quốc trên bình diện quốc tế thuộc về hai cực đối
lập nhau trong trật tự thế giới hai cực Ianta do hai siêu cường Xô – Mỹ đứng đầu
và chi phối” [14, tr.28]. Nhưng quan trọng hơn cả nhận thức tư tưởng và cả trên
thực tế chiến trường mỗi bên đều coi bên kia là kẻ thù. Tuy nhiên Việt Nam luôn
phân biệt rõ kẻ thù là quân đội Hàn Quốc đồng minh của Mỹ với nhân dân yêu
chuộng hòa bình và tiến bộ Hàn Quốc.
Từ năm 1975 , Việt Nam vẫn tiếp tục chỉ thừa nhận CHDCND Triều Tiên và
phải đối phó với những hoạt động bao vây phong tỏa, cấm vận, chống phá của chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ câu kết với thế lực phản cách mạng chống độc lập
dân tộc và CNXH trên thế giới và khu vực gây ra. Hàn Quốc tiếp tục đứng về phía
Mỹ chống Việt Nam trong giai đoạn này , đó là một sự thật lịch sử. Quan hệ Việt –
Hàn hời kỳ này tiếp tục lạnh nhạt, băng giá, đối đầu căng thẳng. Tuy nhiên đến thập
niên 80 của thế kỉ XX trở đi khi chiến tranh lạnh kết thúc rồi trật tự thế giới hai cực


17


Ianta tan rã, trật tự thế giới đa cực hình thành, các nước khơng cịn bị ràng buộc về
quan hệ đối ngoại bởi cực này hay cực kia. Trong xu thế đó thì quan hệ Việt Nam –
Hàn Quốc bắt đầu có những tiến triển mới.Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan
hệ bn bán tư nhân qua trung gian; từ 1983 bắt đầu có quan hệ bn bán trực tiếp
và một số quan hệ phi chính phủ. Ngày 20/4/1992, Việt Nam và Hàn Quốc ký thoả
thuận trao đổi Văn phòng liên lạc giữa hai nước. Ngày 22/12/1992, Bộ trưởng
Ngoại giao hai nước ký Tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ,
quan hệ hai nước chính thức được thiết lập và bước sang một chương mới.
1.3. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trên các lĩnh vực (1992 – 2012)
Từ khi Việt Nam – Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm
1992, qua 20 năm đến năm 2012 thì hai nước đã có sự hợp tác trên hầu hết các lĩnh
vực, mối quan hệ ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp đã và đang đạt
được nhiều thành tựu to lớn:
-Quan hệ chính trị: Đã đạt được thành tựu to lớn, thể hiện trên những khía
cạnh chính sau đây:
Thứ nhất: Hai nước đã tiến hành một cách thường xuyên những chuyến thăm
và gặp nhau ở cấp cao hàng năm.
Các nhà lãnh đạo cấp cao Hàn Quốc đến thăm Việt Nam có: Thủ tướng Lee
Young Dug (8/1994), Chủ tịch Quốc hội Kim Soo Han (8/1996), Tổng thống Kim
Young Sam (11/1996), Tổng thống Kim Tae Chung (12/1998) thăm chính thức Việt
Nam và dự Hội nghị cấp cao ASEAN – 6, Thủ tướng Lee Han Dong (08 –
11/4/2002), Chủ tịch Quốc hội Pac Kwan Yeong (30/09 – 04/10/2003), Tổng thống
Rô Mu Hiên (10-12/10/2006), Tổng thống Rô Mu Hiên nhân dịp dự Hội nghị APEC
– 14 tại Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Lim Che Châng (19 – 25/04/2008), Tổng thống
Lee Myung Bak (20 – 22/10/2009), Chủ tịch Quốc hội (14 – 18/11/2009)…
Các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm Hàn Quốc có: Thủ tướng Võ Văn
Kiệt (5/1993), Tổng bí thư Đỗ Mười (4/1995), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh

(3/1998), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (22-25/8/2001) và hai bên đã nhất trí
nâng cấp quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước lên “Quan hệ đối tác toàn diện trong

18


thế kỷ XXI”, Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng (29/8 – 2/09/2002), Thủ
tướng Phan Văn Khải (15 – 19/09/2003), Phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa
(6/2004), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (21 – 25/7/2004), Chủ tịch nước Trần
Đức Lương dự Hội nghị APEC – 13 tại Hàn Quốc tháng 11/2005, Phó thủ tướng
thường trực Nguyễn Sinh Hùng (21 – 24/5/2007), Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh (14
– 16/11/2007), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (19 – 23/3/2008), Uỷ viên Bộ
Chính trị, thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang (12 – 16/5/2008), Thủ tướng
chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức từ 28 – 31/5 kết hợp dự Hội nghị cấp
cao kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại ASEAN – Hàn Quốc từ 31/5 – 2/6/2009 và
Thủ tướng hai nước đã thỏa thuận sẽ nâng cấp quan hệ hai nước lên tầm “ Đối tác
hợp tác chiến lược”, và công bố vào dịp Tổng thống Lee Myung – Bak thăm chính
thức Việt Nam dự kiến vào quý IV/2009, chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang từ ngày 8 – 10/11/2011…
Như vậy, trong vòng 20 năm qua, các chuyến thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh
đạo cấp cao hai nước đã diễn ra thường xuyên, liên tục. Qua các chuyến thăm đó,
nhiều hiệp định quan trọng trên các lĩnh vực thể hiện quan hệ giữa hai nước đã được
ký kết, sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau ngày càng được tăng cường, sự khác biệt
ngày càng được thu hẹp và sự tương đồng ngày càng tăng lên…tạo cơ sở cho việc
tăng cường quan hệ hai nước. Hàn Quốc ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa, cải
cách của Việt Nam, hợp tác tích cực với Việt Nam trên trường Quốc tế, ủng hộ Việt
Nam gia nhập nhiều diễn đàn, tổ chức quốc tế (APEC, WTO, Uỷ viên không
thường trực trên bán đảo Triều Tiên; hoan nghênh các nổ lực của phía Hàn Quốc
nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên thơng qua thương lượng
hịa bình. Hai nước đã phối hợp một cách chặt chẽ trên các diễn đàn đa phương và

tổ chức quốc tế, khu vực như: Liên Hiệp Quốc, WTO, APEC, ASEM, ASEAN,
ASAN – 3, ARF, EAS.
Thứ hai: Hai nước đã xây dựng được mối quan hệ hiểu biết, tin cậy lẫn nhau.
Có thể nói, tuy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc được thiết lập chưa lâu so với các
mối quan hệ quốc tế khác của Việt Nam cũng như Hàn Quốc, nhưng các nhà lãnh

19


đạo hai nước đã xây dựng được sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Điều này thể hiện
rõ qua các cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước. Chỉ trong thời
gian gần đây, có ít nhất hai lần Tổng thống Hàn Quốc phát biểu về mối quan hệ tin
cậy này. Trong buổi hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân chuyến thăm
chính thức Hàn Quốc của Thủ tướng năm 2009, ngài Tổng thống Hàn Quốc Lee
Myung Bak đã nói: “ Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc là mối quan hệ đặc biệt”.
Trong hội đàm với Chủ tịch Trương Tấn Sang nhân chuyến thăm Hàn Quốc của
Chủ tịch vào tháng 11/2011, Tổng thống Lee Myung Bak đã nhấn mạnh: “Hàn
Quốc là người bạn thân thiết và chân thành nhất” và là “đối tác tốt nhất và thực
chất”của Việt Nam
Thứ 3: Thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam – Hàn Quốc.
Trên cơ sở sự phát triển nhanh chóng của quan hệ hai nước kể từ khi Việt
Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, đặc biệt, sau khi thiết lập
“quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI”, quan hệ hai nước đã được mở rộng
trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế - thương mại, xã hội, văn hóa, du lịch…,sự
tin cậy giữa hai bên ngày càng nâng cao. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam
năm 2009 của Tổng thống Lee Myung Bak, nguyên thủ hai nước đã thỏa thuận nâng
cấp quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc lên thành quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược”
vì hịa bình, ổn định và phát triển. Theo đó, hai vị ngun thủ nhất trí tăng cường
giao lưu, hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực: hợp tác chính trị - an ninh, hợp
tác kinh tế, hợp tác phát triển và khoa học kỹ thuật, hợp tác tư pháp - lãnh sự, hợp

tác văn hóa – xã hội, hợp tác khu vực và trên các diễn đàn quốc tế. Việc thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược là một thành tựu to lớn của Việt Nam – Hàn Quốc và sự
kiện này cũng chứng tỏ Hàn Quốc có vị trí rất quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam và ngược lai.
-Quan hệ kinh tế: Trong 20 năm qua quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc
đã phát triển nhanh chóng và đạt được những kết quả to lớn. Cho đến nay, Hàn
Quốc đã trở thành đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam về đầu tư, thương mại,
ODA, du lịch, hợp tác lao động. Trong thời gian qua, ngoài những tuyên bố chung

20


trong đó có đề cập về quan hệ kinh tế, hai nước còn ký nhiều hiệp định quan trọng
về kinh tế như: Hiệp định hợp tác kinh tế - khoa học kỹ thuật (2/1993), hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư – sửa đổi (9/2003), hiệp định hàng không, hiệp định
thương mại (5/1993), hiệp định tránh đánh thuế hai lần (5/1994). Tất cả những gì đã
đạt được đó đã tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế chung giữa hai nước phát
triển.
- Về thương mại, tổng kinh ngạch thương mại hai nước tăng nhanh và đạt quy
mô lớn. Năm 1992 là 493 triệu USD, năm 1995: 1545 triệu USD, năm 2002: 2207
triệu USD, năm 2005: 4257,7 triệu USD, năm 2010: 12853,6 triệu USD. Sự tăng
trưởng liên tục như vậy trong những năm qua đã đưa Hàn Quốc trở thành bạn hàng
lớn của Việt Nam. Lãnh đạo hai nước quyết tâm đưa tổng kinh ngạch xuất nhập
khẩu lên 20 tỷ USD trước năm 2015 và hướng tới mục tiêu 30 tỷ USD
- Đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam đã tăng lên rất nhanh chóng từ
năm 1992 đến nay, từ chỗ mới chỉ có 9 dự án với hơn 100 triệu USD năm 1992 đã
nâng lên tới 2605 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 23 tỷ USD (tính đến tháng
7/2011), tức là khoảng 230 lần. Với con số đó, Hàn Quốc đứng thứ nhất cả về số dự
án lẫn vốn đăng ký trong tổng số 100 nền kinh tế có FDI tại Việt Nam. Tỷ trọng
FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam trong suốt giai đoạn từ khi thiết lập quan hệ ngoại

giao tới nay chỉ chiếm gần 7% trong tổng số FDI vào Việt Nam và chiếm gần 5%
tổng số vốn FDI của Hàn Quốc đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên đầu tư của Việt Nam ra nước ngồi nói chung và vào Hàn Quốc nói
riêng thì vẫn cịn hạn chế. Tính đến năm 2010, Việt Nam mới chỉ có 13 dự án đầu tư
ở Hàn Quốc với tổng số vốn là 3,2 triệu USD.
-Về viện trợ phát triển ODA, Việt Nam là nước được Hàn Quốc ưu tiên trong
lĩnh vực ODA. Tổng mức ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam từ 1993 đến
2008 là 471,4 triệu USD (trước 2006: 30 triệu; 2006 – 2008: 100 triệu USD). Đầu
tháng 8/2008, hai bên ký thỏa thuận khung về việc Hàn Quốc cung cấp 1 tỷ USD
vốn vay ưu đãi EDCF trong giai đoạn 2008 – 2011. Với cam kết này, Hàn Quốc trở
thành nhà tài trợ lớn thứ hai cho Việt Nam sau Pháp. Trong buổi tiếp Chủ tịch nước

21


Trương Tấn Sang, nhân dịp Chủ tịch thăm Hàn Quốc vào tháng 11/2011, tổng thống
Lee Myung Bak khẳng định: “Hàn Quốc coi Việt Nam là một đối tác quan trọng ở
khu vực và là một trong những đối tác quan trọng trong chính sách cung cấp viện
trợ chính thức (ODA) của Hàn Quốc. Hàn Quốc sẽ tăng nguồn vốn ODA cho Việt
Nam trong những năm tới”.
- Về hợp tác lao động: Hàn Quốc trong những năm vừa qua là nước mà nhiều
lao động Việt Nam có nguyện vọng đến làm việc. Số lượng lao động Việt Nam
được ký hợp đồng và sang làm việc luôn đứng đầu trong số các nước đưa lao động
sang Hàn Quốc. Với sự phục hồi và nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế Hàn
Quốc và sự cố gắng của Việt Nam, số lượng lao động được đưa sang Hàn Quốc
tăng dần theo từng năm. Hiện nay, Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lao động lớn
thứ ba của Việt Nam với khoảng 54.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn
Quốc.
- Về văn hóa – giáo dục: Việt Nam là nơi hội tụ nhiều dịng chảy văn hóa.
Tính giao thoa hội tụ văn hóa Việt – Hàn phản ánh thơng qua phong tục tập quán,

cách thức ăn uống, trang phục, sinh hoạt ma chay, cưới hỏi, tơn giáo tín ngưỡng;
tinh thần đồn kết dân tộc, năng động sáng tạo; kiên cường buất khuất, lịng u
nước, ý chí tự lực tự cường; tinh thần tương thân tương ái; tính chất hịa đồng, nhạy
cảm, dễ tiếp cận và hịa nhập, cá tính bộc trực, thẳng thắn, trọng nghĩa khinh
tài…vốn là truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của hai dân tộc. Trên cơ sở đó hai nước
đã ký nhiều hiệp định hợp tác văn hóa như: vào tháng 8/1994, bản ghi nhớ về hợp
tác văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch tháng 10/2008 cùng nhiều thỏa thuận hợp
tác giao lưu thanh niên và giáo dục khác. Theo đó, hai bên thường xuyên trao đổi
các đồn văn hóa – nghệ thuật, tổ chức các hoạt độngn giao lưu văn hóa, nghệ thuật
, triển lãm, điện ảnh. Năm 2006, Hàn Quốc đã thành lập trung tâm văn hóa Hàn
Quốc tại Hà Nội.
Trong hợp tác về văn hóa thì việc hợp tác trên lĩnh vực giáo dục là một mảng
quan trọng vủa cả hai nước. Bộ giáo dụcViệt Nam đã chọn Hàn Quốc làm đối tác
chiến lược thơng tin trong giáo dục – đào tạo. Chính phủ và nhiều trường đại học,

22


×