Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Chính sách phát triển giáo dục dưới thời lê thánh tông (1460 – 1497)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.49 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

Đề tài:

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
DƯỚI THỜI LÊ THÁNH TƠNG (1460 – 1497)

SVTH: Nguyễn Đại Minh
Lớp 09 SLS, khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng
GVHD: Th.s Nguyễn Xuyên
Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng

Đà Nẵng - 05/2014


2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là một trong những lĩnh vực quan trọng bậc nhất đối với mỗi quốc gia,
dân tộc. Nước Việt Nam ta cũng vậy khơng chỉ ngày nay mà điều này cịn được minh
chứng trong lịch sử phong kiến, giáo dục như là kim chỉ nam, tôn chỉ cho đường
hướng trị nước và phát triển của triều đại.
Nghiên cứu diễn trình phát triển của lịch sử phong kiến Việt Nam, vương triều
nào, vị vua nào thực hiện tốt chính sách giáo dục thì quốc gia hưng thịnh, hùng mạnh
và có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực. Ngược lại thực hiện khơng tốt thì là sự suy
vong dẫn đến sụp đổ. Dường như tầm quan trọng của nó đã gói gọn trong câu nói nỗi
tiếng của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, ngun khí thịnh
thì nước mạnh và hưng thịnh. Ngun khí suy thì nước yếu mà thấp hèn vì thế các bậc
đế vương, thánh minh khơng đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sỉ


vun trồng ngun khí quốc gia làm cơng việc cần thiết…” [21, tr. 35].
Dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497) nước Đại Việt trở thành một
quốc gia hùng cường trong khu vực là thời đại thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam. Ông là một vị vua anh minh, sáng suốt trong đường lối trị nước, là người:
“Dám tuyên chiến với tất cả sự bảo thủ, trì trệ mà quá khứ để lại, mạnh bạo tiến hành
cải cách trên mọi lĩnh vực; từ thể chế chính trị, điển chương, pháp luật đến kinh tế,
văn hóa, giáo dục...” [31, tr. 11]. Chính những cải cách, cách tân hợp với quy luật đó
đã làm nên sự hưng thịnh đối với triều đại của ông. Thời Lê Thánh Tơng sự phát triển
tồn diện của đất nước gắn liền với nhiều chính sách, trong số đó có chính sách phát
triển giáo dục. Nó khơng chỉ đóng góp chung vào sự phát triển của nền giáo dục dân
tộc, mà cịn góp phần làm nên tên tuổi vĩ đại của Lê Thánh Tơng và triều đại của ơng
trị vì.
Phát triển giáo dục ở thời kì nào trong lịch sử cũng là vấn đề cấp thiết. Đặt vào
thời đại ngày nay việc xây dựng và phát triển nền giáo dục được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm nó thể hiện qua các kì đại hội của Đảng. Đại hội VIII đã khẳng định:
“Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…” [3, tr. 16]. Sự nghiệp giáo dục –
đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, “Nguồn tài nguyên và sự giàu có của một quốc gia khơng phải
nằm trong lịng đất mà chính là nằm trong bản thân trí tuệ con người” [4, tr. 28].
Muốn tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo


3
dục- đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất
xã hội cũng như xây dựng nền văn hoá. Bởi vậy Đảng luôn đặt mục tiêu xây dựng,
phát triển nền giáo dục nước nhà là nhiệm vụ trọng tâm nhằm đưa đất nước phát triển
đi lên bắt kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này cho thấy rằng phát
triển giáo dục là luôn là vấn đề lớn, xuyên suốt trong lịch sử phát triển của dân tộc ta.
Do đó nghiên cứu chính sách phát triển giáo dục dưới thời Lê Thánh Tông không
chỉ làm sáng tỏ được những chính sách về phát triển giáo dục, thành tựu, hạn chế mà

còn đánh giá được ý nghĩa tác động của giáo dục thời kì này trong dịng chảy lịch sử
giáo dục Việt Nam.
Chính những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi quyết định chọn đề
tài: Chính sách phát triển giáo dục dưới thời Lê Thánh Tơng (1460 – 1497) làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Viết về vấn đề giáo dục Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này, chúng tơi phân thành 4 nhóm tiêu biểu sau:
Nhóm các tác phẩm viết theo lối biên niên sử:
Ngoài ra trong các tác phẩm cổ sử như “Đại Việt sử kí tồn thư”của Ngơ Sĩ Liên
và các sứ thành triều Lê, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, hay
cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn đã
ghi lại những vấn đề về giáo dục dưới thời Lê Thánh Tông, tuy nhiên những cuốn sách
này chỉ đề cập một cách sơ lược theo kiểu biên niên mà chưa trình bày một cách hệ
thống cụ thể về những chính giáo dục cũng như những thành tựu, hạn chế về giáo dục
ở thời kì này.
Nhóm các tác phẩm chun đề đã xuất bản:
Trong cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” của tác giả Bùi Minh Hiền, xuất bản
năm 2008, NXB Đại học sư phạm. Tác Phẩm đã khái quát về giáo dục Việt Nam qua
từng từng thời kì, trong đó bàn về nội dung giáo dục, những tích cực và hạn chế, cơ
chế thi cử qua các triều đại phong kiến những kế thừa và phát huy
Trong cuốn “Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945”, của tác giả Vũ Ngọc
Khánh, xuất bản năm 2002, NXB Thanh Niên. Tác Phẩm cũng đã đề cập đến giáo dục
thời phong kiến với những đánh giá về nội dung và chính sách giáo dục của triều đại
phong kiến Việt Nam.
Trong Cuốn “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam”, của
tác giả Lê Văn Giảng, xuất bản năm 2003, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm


4

cũng đã trình bày sơ lược về nền giáo dục Việt Nam dưới thời phong kiến về các khía
cạnh như sự phát triển của nền giáo dục qua các triều đại, nội dung giáo dục, hình thức
và cơ chế tổ chức học hành, thi cử trong hơn 1000 năm qua.
Trong cuốn “Lê Thánh Tông (1442 – 1497) con người và sự nghiệp” do Đại học
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1997, trong đó có bài viết của tác giả Mai Xuân Hải
với bài viết “Khoa cử thời Lê Thánh Tơng” đã trình bày khá cụ thể về số một khía cận
trong nền giáo dục dưới triều vua Lê Thánh Tơng đó là chế độ khoa cử, ơng đã đi sâu
vào trình bày những vấn đề trong khoa cử dưới triều vua Lê Thánh Tông như về phép
thi, trường thi, đối tượng dự thi, về chất lượng đào tạo, những thành tựu của khoa cử
thời Vua Lê Thánh Tông cũng như một số hạn chế.
Nhóm các bài viết đăng trên các báo, tạp chí nghiên cứu
Bài viết “Tiếp cận nền giáo dục khoa cử thời Lê Sơ” của tác giả Phạm Ngọc
Trung “, đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 306, tháng 12 – 2009 đã đề cập một
cách khái quát về nền giáo dục khoa cử dưới triều Lê Sơ trải qua 10 đời vua từ Lê Thái
Tổ đến Lê Tương Dực (1428 – 1527), trong đó có nhắc đến nền giáo dục khoa cử thời
vua Lê Thánh Tông.
Tuy nhiên những bài viết và những tác phẩm kể trên vẫn chưa nghiên cứu đầy đủ
và cụ thể về giáo dục dưới thời vua Lê Thánh Tông mà chỉ dừng lại ở mức độ khảo
lược hay trình bày một vài nội dung khía cạnh nhỏ của vấn đề. Song đó cũng là nguồn
tài liệu tham khảo bổ ích và cần thiết để giúp tơi hồn thành đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề này nhằm mục đích làm sáng tỏ các chính sách phát triển giáo
dục cũng như những thành tựu của nền giáo dục dưới thời vua Lê Thánh Tông. Mặt
khác thấy được một số hạn chế và ý nghĩa của chính sách phát triển giáo dục đối với
triều đại vua Lê Thánh Tông cũng như ý nghĩa đối với nền giáo dục nước ta hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài tập trung hướng đến để nghiên cứu là những chính sách phát
triển giáo dục dưới thời Lê Thánh Tơng. Ngồi ra chúng tơi cịn nghiên cứu những mặt
tích cực, tiến bộ của các chính sách phát triển giáo dục, cũng như một số hạn chế, ý

nghĩa của nó đối với triều đại Lê Thánh Tơng nói riêng và lịch sử giáo dục Việt Nam
nói chung.


5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: từ năm 1460 đến năm 1497, là khoảng thời gian vua Lê Thánh
Tông trị vì.
Về nội dung nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu những chính sách phát triển
giáo dục thời Lê Thánh Tông, thành tựu, hạn chế và ý nghĩa của các chính sách đó đối
với sự phát triển của triền đại Lê Thánh Tông và thực tiễn giáo dục Việt nam ngày
nay.
5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau:
-Tài liệu thành văn như: sách, báo tạp chí và các bài viết có các nội dung liên
quan đến vấn đề chính sách phát triển giáo dục dưới thời vua Lê Thánh Tông.
-Tài liệu thu thập được từ các báo đài, internet và các phương tiện truyền thông
khác
Đây là nhưng nguồn tài liệu phong phú cần được khai thác triệt để.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu,
chúng tôi đứng trên cơ sở phương pháp luận của quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng để xem xét, đánh giá các sự
kiện lịch sử. Trong q trình đó chúng tơi còn sử dụng các phương pháp chuyên ngành
lịch sử như: phương pháp logic, kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, đối chiếu, đánh giá vấn đề...
Thu thập xử lý dựa trên các nguồn tài liệu khác nhau như sách, báo các
internet….
6. Đóng góp của đề tài

Góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ về chính sách phát triển giáo dục trong lịch sử
Việt Nam nói chung, chính sách phát triển giáo dục dưới thời Lê Sơ và Lê Thánh
Tơng nói riêng. Đồng thời làm rõ được những tích cực, tiến bộ trong chính sách phát
triển giáo dục của Lê Thánh Tông cũng như một số hạn chế cịn tồn tại trong chính
sách giáo dục của vị minh quân này. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng góp phần bổ
sung kiến thức cho phần giảng dạy lịch sử Việt Nam dưới triều Lê Sơ và lịch sử giáo
dục Việt Nam qua các triều đại phong kiến, đặc biệt là vấn đề trọng dụng hiền tài và
phát triển giáo dục dưới thời vua Lê Thánh Tông. Bên cạnh đó cịn làm sáng tỏ những
tiến bộ, tích cực trong những chính sách đó để kế thừa và rút kinh nghiệm cho công
tác phát triển giáo dục của nước ta hiện nay.


6
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về chính sách giáo dục và sự ra đời chính sách phát triển
giáo dục của Lê Thánh Tơng (1460 – 1497)
Chương 2: Chính sách phát triển giáo dục của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497)


7
NỘI DUNG
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC VÀ SỰ RA ĐỜI CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA LÊ THÁNH TÔNG (1460 – 1497)
1.1. Khái niệm giáo dục và tổng quan về chính sách giáo dục trong lịch sử
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm giáo dục
Nói đến khái niệm về “Giáo dục” có nhiều khái niệm khác nhau, trong đó có
các quan điểm sau:

Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì: “Giáo nghĩa là dạy bảo, mệnh
lệnh, dục là dạy dỗ người ta khiến người ta thoát khỏi trạng thái tự nhiên của tạo vật
sinh ra” [2, tr. 69]. Với cách hiểu đó thì giáo dục là sự dạy bảo nhằm đưa con người
thoát khỏi trạng thái tự nhiên khi vừa sinh ra.
Theo tác giả Bùi Hiền trình bày trong Từ điển giáo dục học thì về cơ bản: “Giáo
dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người” [15, tr. 150]. Định nghĩa này nhấn
mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học,
nhưng không đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo Dewey John trong tiếng anh thì: “Giáo dục được biết đến với từ
“education”, đây là một từ gốc Latinh được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” –
“Ex-Ducere”. Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại
của họ để vươn tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn” [12, tr. 4].
Với cách hiểu này thì giáo dục là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân, đây cũng là mục
tiêu sâu xa của giáo dục, giáo dục là sự dẫn dắt, chỉ hướng, truyền tải lại cho thế hệ sau
tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn.
Theo Phạm Viết Vượng: “Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng
tới mục đích khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người
dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách cả
thầy và trị bằng những tác động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng các yêu cầu tồn tại
và phát triển trong xã hội loài người đương đại.” [36, tr. 9].
Từ các khái niệm trên ta thấy rằng giáo dục được hiểu theo hai nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng giáo dục là sự hình thành nhân cách được tổ chức một
cách có mục đích, có tổ chức thơng qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo
dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh


8
nghiệm xã hội của lồi người. Với cách hiểu đó thì đây là quá trình phát triển con
người về mặt sinh lý, tâm lý và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và

biến đổi về chất.
Giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là
quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động
cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong
xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực.
1.1.2. Tổng quan về chính sách giáo dục Việt Nam trước thời Lê Thánh Tông
Giáo dục Việt Nam thời Bắc thuộc
Giáo dục là một trong những nhiệm vụ chiến lược cho bất kì quốc gia nào trên
thế giới. Ở nước ta suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, việc học hành thi cử tuy đã có
nhưng giáo dục thời kỳ này mang tính chất nơ dịch, đồng hóa văn hóa nhằm mục đích
biến nước ta thành quận huyện của chúng. Trong đó văn hóa giáo dục được chúng sử
dụng như một phương tiện rất quan trọng. Phong kiến Phương Bắc đã tìm mọi cách để
đưa văn hóa Trung Hoa vào nước ta để thực hiện âm mưa Hán hóa dân tộc Việt. Tuy
vậy, việc áp đặt nền giáo dục nô dịch của phong kiến Phương Bắc cũng đưa lại nhiều
điểm tích cực, tiến bộ trong việc phát triển giáo dục, văn hóa của nước ta. Người Việt
đã khơn khéo chắt lọc những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của Trung Hoa, đồng thời
giữ lại những nét tốt đẹp trong văn hóa Việt. Bên cạnh đó, chính sách giáo dục của
phong kiến Phương Bắc cũng đã góp phần phát hiện, đào tạo những nhân tài người
Việt, trong số đó có những người từng đỗ đạt và làm quan trong triều đình phong kiến
Trung Hoa: “Căn cứ vào sử liệu, ngay từ đời Tần (221TCN – 207TCN), nước ta đã có
người sang du học ở Lạc Dương (Kinh đô Trung Hoa lúc đó). Lí Ơng Trọng đã thi đỗ
và làm quan ở triều đại nhà Tần” [28, tr. 8].
Để phục vụ cho mục đích truyền bá văn hóa Hán, đồng hóa dân tộc Việt, Phong
kiến Phương Bắc đã có nhiều chính sách mở rộng hệ thống giáo dục ở nước ta, trong
đó việc mở rộng xây dựng hệ thống trường lớp và truyền bá chữ Hán được xem là
những mục tiêu quan trọng: “Đến đầu công nguyên, Hán Vũ Đế đưa người Trung
Quốc sang nước ta, ở lẫn lộn với dân bản xứ, dạy họ học đọc, học viết qua loa để võ
vẽ biết được tiếng Trung Quốc”. [28, tr. 8].
Đồng thời, Chúng cũng tích cực truyền bá văn hóa hán và đưa Nho giáo vào
nước ta làm công cụ để đồng hóa dân tộc Việt: “Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và

thái thú Cửu Chân là Nhâm Diên đã dựng trường học dỗ dân ta theo con đường lễ


9
nghĩa. Lễ nghĩa ở đây chính là Nho giáo. Như vậy, Nho giáo và nhà trường đã xuất
hiện ở nước ta từ thế kỷ thứ I CN” [28, tr. 8].
Tới thời Nhà Đông Hán, công tác giáo dục và Hán hóa vẫn tiếp tục được đẩy
mạnh: “Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp đã chiêu nạp nhiều danh sĩ Trung Quốc sang ta
lánh nạn, cho dựng nhà học để cùng giảng bàn thi, thư lễ nghĩa. Nhiều nho sĩ khác
cũng chạy sang ở rải rác khắp Giao Châu. Nhân dân ta đã tự lập nên trường học mời
họ làm thầy dạy cho con em. Nhiều thầy giáo giỏi cả về Nho, phật. Trong xã hội lúc đó
đã xuất hiện một số nho sĩ người Việt học rất giỏi, đỗ cao như Lí Tiến, Lí Cầm,
Trương Trọng, Khương Cơng Phục, Tinh Thiều…” [28, tr. 9].
Tuy vậy, về đại thể việc học ở nước ta suốt từ Hán đến Đường, rồi Ngũ đại
khơng phát triển sâu rộng được do chính sách đồng hóa của họ. Đặc biệt là nhà Đường
đã triệt để và hạn chế việc học và thi cử. Điển hình như năm 845, nhà Đường chỉ cho
phép số người Việt đi thi Tiến sĩ không quá 8 người, thi Minh Kinh không quá 10
người.
Đến đến cuối đời Đường, chiến tranh diễn ra liên miên ở Trung Quốc dẫn đến
cục diện phân liệt thành ngũ đại. Trong điều kiện đó nhiều cuộc khởi nghĩa ở nước ta
đã nổ ra, tạo nên các triều đại tự chủ: Ngô (939 – 965), Đinh (968 – 980), Tiền Lê (986
– 1009). Trong điều kiện đó tình hình giáo dục ở nước ta do chiến tranh liên miên nên
khơng có điều kiện để phát triển: “Lúc này, tuy Nho giáo đã có mặt trên đất nước ta từ
lâu song khơng có điều kiện phát triển. Nó chỉ dừng lại ở các tầng lớp trên là chủ yếu,
đặc biệt là các tầng lớp tăng lữ Phật giáo” [28, tr. 9].
Bên cạnh sự xâm nhập của Nho Giáo, các ý thức hệ Phật giáo và Đạo giáo cũng
ảnh hưởng, bắt rễ sâu rộng vào xã hội nước ta từ lâu, trước cả đạo Nho: “Ngay từ thế
kỷ thứ III, đạo Phật đã du nhập vào nước ta qua nhiều con đường thủy, bộ, qua việc
giao lưu buôn bán, di dân và truyền đạo. Lúc đó, nhà Hán có 3 trung tâm Phật giáo
lớn ở Lạc Dương, Bành Thành và Luy Lâu (hay Liên Lâu). Luy Lâu là trung tâm lớn

nhất nằm ở nước ta (Thuận Thành, Hà Bắc ngày nay), từ đây có những đường thủy, bộ
liên hệ với Lạc Dương, Bành Thành. Đây còn là nơi dừng chân, trung trạm của các
tăng lữ phật giáo từ Ấn Độ sang Trung Quốc và ngược lại. Vì vây, Luy Lâu cịn là một
trường học tơn giáo lớn đào luyện được nhiều người tài giỏi, uyên bác thông cả tam
giáo (nước ta có Mâu tự, Khương Tăng Hội là những thiền sư rất giỏi thời nay)” [25,
tr. 79].
Tóm lại, nền giáo dục chính thống của Việt Nam đã hình thành phôi thai, đặt cơ
sở ban đầu cho công cuộc giáo hóa sau này. Nho học đã ra đời trong hoàn cảnh đất


10
nước bị ngoại bang đô hộ, bởi vậy không thể thoát khỏi những ảnh hưởng sâu đậm cả
về nội dung, phương pháp giáo dục. Song về tổ chức chủ yếu lại do dân tự lo liệu với
sự hỗ trợ của các tăng lữ, các thiền sư. Tuy vậy, nền Hán học ngoại nhập này trước sức
quật cường của dân tộc ta sẽ phải biến đổi, khúc xạ đi trở thành nền giáo dục nho học
chính thống Việt Nam tử thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX.
Giáo dục Việt Nam thời kỳ tự chủ (từ 939 – 1009)
Sau hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, nước ta giành lại được độc lập, nhưng chưa xây
dựng được triều chính vững vàng. Mở đầu Khúc Thừa Dụ, tuy mới danh nghĩa là Tiết
độ sứ, giữ chức phận phiên thần của chế độ đô hộ Tùy – Đường, nhưng thực chất đã
giành toàn bộ quyền cai trị đất nước vào tay ơng. Ơng lấy chính sách khoan dân thay
cho chế độ hà khắc sách kinh tế, xã hội, nhằm đưa đất nước lên theo con đường hưng
thịnh. Sau Khúc Thừa Dụ là các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của Ngơ Quyền,
Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn… Nhưng do những biến cố của triều đại mà chỉ tồn tại được
trong một thời gian ngắn rồi đều suy vong. Trong thời gian nắm chính quyền mặc dù
vẫn trên danh nghĩa là phiên thần của phong kiến phương Bắc, tuy nhiên các triều đại
đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm cũng cố
chính quyền, xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, cũng cố và phát triển nền văn
hóa giáo dục trong nước.
Như vậy trong khoảng 100 năm, nước ta đã xảy ra 5 lần hưng vong của các triều

đại mà những người đứng đầu hầu hết là những thủ lĩnh quân sự. Trong bối cảnh lịch
sử đó, nền giáo dục của đất nước chưa có điều kiện phát triển mạnh. Theo sử sách cịn
ghi lại thì thời ấy những nhà sư là tầng lớp trí thức tinh thơng cả Nho học lẫn Phật học
và đạo học: “Họ mở trường lớp tại các chùa để dạy cho các sãi và các thiện nam, tín
nữ. Chính các trường học nhà chùa này đã đào tạo được nhiều người vừa thông hiểu
kinh pháp, vừa giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Phạn. Có thể dẫn ra một số thiền sư nổi tiếng
như sau: Sư Đỗ Pháp Thuận rất uyên bác về Nho và Phật, thiền sư Ngơ Chân Lưu
được Đinh Tiên Hồng và Lê Đại Hành tin dung, thiền sư Đa Bảo học trị xuất sắc của
Khng Việt có cơng trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Vạn Hạnh
tinh thông Tam Giáo, sau là thầy dạy Lý Công Uẩn, tham gia vào việc đưa Lý Công
Uẩn lên làm vua, được phong làm Quốc sư” [28, tr. 14].
Có thể thấy, thời kỳ này này giáo dục Phật giáo chiếm vai trò trọng tâm và chi
phối sự phát triển của giáo dục của đất nước. Tiếp thu sâu sắc học thuyết của Phật
giáo, Song các thiền sư, những trí thức dân tộc đương thời, với tinh thần yêu nước đã
có sự chọn lọc kiến thức để giúp vua, cứu nước, bảo vệ bản sắc riêng của dân tộc


11
mình. Với trình độ cao về chữ Hán, họ đã sử dụng để làm phong phú thêm tiếng việt,
góp phần tạo ra chữ Nôm ngày một phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.
Giáo dục Việt Nam từ thời Lý đến đầu thời Lê Sơ (1009 – 1460)
Đến năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh chết cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt
thời kỳ hưng vong và suy tàn của các nhà nước phong kiến đầu tiên trên nước ta xây
dựng theo con đường giành quyền tự chủ nhưng vẫn dưới sự bảo hộ của phong kiến
Phương Bắc; một thời kỳ mới bắt đầu, thời kỳ mở màn cho sự ra đời và phát triển của
nhà nước phong kiến độc lập. Khởi đầu của triều đại đó là sự ra đời của nhà Lý. Năm
1009 Lý Công Uẩn được triều thần suy tôn lên làm vua lập ra triều Lý, mở ra một kỷ
nguyên rực rỡ, kỷ nguyên Đại Việt. Tuy vậy, trải qua 1000 năm Bắc thuộc và nạn
tranh chấp của thập nhị sứ quân, vận nước bây giờ đang đứng trước mn vàn khó
khăn, nghiêng ngửa. Đối nội, phải cũng cố vững chắc chế độ phong kiến, phục hồi và

phát triển các mặt kinh tế, ổn định cuộc sống xã hội và lòng dân. Đối ngoại phải đề
phịng các thế lực ngoại xâm ln ln dịm ngó, chờ mọi cơ hội để xâm lăng. Bởi vậy
phải bắt tay vào việc xây dựng và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền
vững mạnh.
Rõ ràng với những u cầu mới mẻ, nặng nề đó địi hỏi phải có lớp người hiền
tài đơng đảo. Buổi ban đầu, các triều đại Lý, Trần đã tuyển dụng hiền tài bằng phép
tiến cử, nhiệm cử và cầu hiền. Song việc tuyển dụng này khơng được là bao. Muốn có
một đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương, phải đào tạo một lớp người mới,
phải có một nền giáo dục chính quy của nhà nước. Vấn đề là vương triều Lý đầu tiên
đã lựa chọn nền giáo dục nào? Phật giáo, Đạo giáo hay Nho giáo?.
Trong 61 năm đầu triều Lý, chưa thấy có tổ chức gì về giáo dục. Sử sách chỉ ghi
lại một số sự việc chứng tỏ cả 3 đạo Phật, Lão, Nho đã xuất hiện trong cuộc sống xã
hội, nổi bật nhất là đạo Phật: “Các quan nhà Lý đều rất sùng đạo Phật. Chùa tháp
được xây dựng khắp nơi. Năm 1018, vua Lý Thái Tổ sai sứ sang nhà Tống xin kinh
Tam Tạng. Năm 1036, Lý Thái Tông xuống chiếu chép kinh Đại Tạng cất ở kho Trùng
Hưng” [27, tr. 34].
Bên cạnh đó Đạo giáo và Nho giáo cũng được nhà nước tạo nhiều điều kiện cho
phát triển. Đồng thời để xây dựng một đất nước độc lập, tự chủ, thực sự vững mạnh,
Lý Công Uẩn nhận thức được rõ ràng rằng sứ mệnh dựng nước và sứ mệnh đổi mới
sâu sắc phải thực hiện trên cả 3 mặt: Đổi mới triều đại, đổi mới chế độ và đổi mới xã
hội. Trong đó địi hỏi phải xây dựng ra một nền văn hóa giáo dục mới độc lập, tự chủ
góp phần xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền vững mạnh.


12
Xuất phát từ yêu cầu đó nhà Lý đã có rất nhiều chính sách quan tâm phát triển
giáo dục. “Năm 1070, 60 năm sau ngày dời đô ra Thăng Long, Lý Thánh Tông cho
xây dựng văn miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối và tạc tượng 72 vị tiên hiền là
học trò giỏi của Khổng Tử” [28, tr. 18].
Bên cạnh đó, nhà Lý cịn cho mở nhiều trường học để dạy cho Hoàng tử và các

đại quan và mở các khoa thi để tuyển chọn người tài: “Đến năm 1076, Lý Nhân Tông
cho xây dựng Quốc Tử Giám, đồng thời kén chọn các quan văn học bổ vào lo việc
giảng dạy. Bên cạnh đó, để khuyến khích việc học tập, triều đình cịn cho mở các khoa
thi nhằm tạo điều kiện cho các sĩ tử có cơ hội dự thi và đỗ đạt: Năm 1075, nhà Lý mở
khoa thi Minh Kinh đầu tiên, sau đó nhà Lý mở thêm một số kì thi: Năm 1077 mở thêm
kì thi viết, thi tính, thi Hình luật, người nào đỗ đạt mới bổ làm quan” [17, tr. 52].
Đến năm 1195, mở thêm khoa thi tam giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Tuy
nhiên, chế độ thi cử thời Lý chưa được xây dựng quy củ, nề nếp về cả nội dung, hình
thức và thời gian mở khoa thi.
Nhìn chung, những chính sách phát triển giáo dục của nhà Lý chỉ bó hẹp trong
phạm vi triều đình, chứ chưa quan tâm đến việc học tập trong dân gian, vì vậy giáo
dục triều Lý còn nhiều hạn chế.
Kế tục sự nghiệp của Nhà Lý, nhà Trần cũng đã nhận thức được yêu cầu bức
thiết của việc xây dựng phát triển nền giáo dục nước nhà, vì vậy đã đề ra các chính
sách phát triển giáo dục tương tự như nhà Lý, tuy nhiên có những đổi mới về quy mô
trường lớp và đối tượng người học: “Năm 1236, Nhà Trần cho đổi Quốc Tử Giám
thành Quốc tử viện và mở rộng đối tượng con em các quan văn vào học” [28, tr. 18].
Năm 1236, mở rộng Quốc học ở kinh đô gọi là Hạ Viện. Năm 1291, lập thêm
nhà Quốc học ở phủ Thiên Trường. Đây là nhà “quốc lập” đầu tiên trong lịch sử được
tổ chức ở địa phương. Tại nhà Quốc học, mở rộng đối tượng học tập, ngoài con em
quý tộc, quan lại, còn cho con em thường dân nhưng phải là loại tuấn tú đến học. Năm
1253, nhà nước sửa sang Quốc học viện, xuống chiếu mời Nho sĩ trong nước đến Quốc
Tử viện giảng Tứ thư lục kinh. Năm 1272, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức,
thơng hiểu kinh sách làm tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Ngoài Quốc tử viện là trường học cấp cao ở Kinh đô, thời Trần cịn có nhiều nhà
học dân lập ở địa phương như: trường phủ Thiên Trường, trường Lạn Kha thư viện (ở
chùa Phật Tích), trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc và trường của Chu Văn
An: “…Nay quy chế ở kinh đơ đã đủ mà ở châu, huyện thì cịn thiếu làm thế nào để
mở rộng giáo hóa cho dân được? nên hạ lệnh cho các lộ, phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải



13
Đông đều đặt 1 học quan cho ruộng công theo thứ bậc khác nhau, phủ châu lớn thì 15
mẫu, phủ châu vừa thì 10 mẫu để cung phí cho nhà học (một phần để cúng ngày mồng
1, một phần về nhà học, 1 phần để đèn sách). Quan lộ và các Đốc học dạy bảo học trò
cho nên tài nghệ, cứ đến cuối năm chọn người nào ưu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ
thân hành chọn thi để lấy dùng” [19, tr. 201].
Đồng thời cùng với việc mở rộng đối tượng học tập, mở rộng trường lớp việc tổ
chức các kì thi cũng đều đặn hơn, quy củ hơn. Năm 1232, mở kì thi Thái học sinh đầu
tiên, các kì thi Thái học sinh được tổ chức với niên hạn 7 năm một kì. Cả thời Trần có
tất cả 14 khoa thi. Khoa thi cuối cung vào năm Bính Tý (1369). Dưới thời Trần, từ
năm 1327, bên cạnh Kinh trạng ngun (Trạng ngun của vùng Kinh đơ) cịn có Trại
trạng nguyên (Trạng nguyên của vùng trại từ Thanh Hóa trở vào). Điều này chứng tỏ
nhà Trần đã mở rộng quy chế tuyển sinh chọn nhân tài cho đất nước, khuyến khích
việc học tập ở vùng xa kinh thành. Đồng thời, các vị tân khoa được nhà vua trọng đãi:
ban mũ áo, dự yến tiệc, được dẫn đi thăm kinh thành Thăng Long trong 3 ngày.
Qua đây ta thấy dưới thời Trần đã có sự quan tâm đến việc phát triển giáo dục,
khuyến khích học tập hơn so với thời Lý, việc học không chỉ dành cho con em, hoàng
tộc, mà đã mở rộng trong dân gian, trường lớp cũng được mở mới nhiều, có nhiều
chính sách ưu đãi cho người đỗ đạt hơn trước.
Tuy vậy, hệ thống trường học của nhà nước phong kiến Lý – Trần từ bậc ấu học
đến bậc đại học suốt gần 4 thế kỷ phát triển hết sức chậm chạp, ít ỏi, chỉ có ở kinh đơ
và một số phủ, châu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Việc học tập ở các địa
phương hầu như hoàn toàn do dân tự lo liệu, chủ yếu là do nhà chùa và các nho sĩ mở.
Sử sách không ghi chép về số lượng trường lớp, song chắc chắn khơng phải ít, vì phải
cung cấp số lượng nho sinh cho các kỳ thi ngày càng nhiều và đi vào quy cũ cho các
triều đại về sau.
Đến thời Hồ, cùng với việc đề ra các cải tổ về chính trị, kinh tế, Hồ Quý Ly cũng
rất quan tâm đến việc học hành thi cử. Ngay từ khi cịn làm quan dưới thời Trần vào
năm 1383, ơng xin cho lập thư viện, cử Trần Tôn làm Viện trưởng để dạy học trị và

khuyến khích người học mở rộng kiến thức cho phong phú. Ông chú ý lập ra các
trường học, tờ chiếu năm 1397 ra lệnh: “Ba phủ châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc
Đông đều đặt một viên quan giáo thụ giữ về việc học, cấp cho việc công tùy thứ bậc:
phủ châu lớn 15 mẫu, vừa 12 mẫu, nhỏ 10 mẫu để cung vào việc học” [16, tr. 14].
Theo tờ chiếu này, Hồ Quý ly chủ trương ở các trường học đêu đặt ra các vị học quan
để trông nom, đôn đốc việc học tập. Châu, huyện lớn được cấp 15 mẫu, châu huyện


14
vừa 12 mẫu; các châu, huyện nhỏ 10 mẫu.Tuy nhiên, do hạn chế của thời đại, xã hội
có nhiều biến động nên các chính sách của Hồ Quý Ly cũng chưa được thi hành một
cách có hiệu quả.
Bước sang triều Lê sơ, các vị vua đầu thời Lê Sơ cũng đã có nhiều chính sách
quan tâm đến phát triển giáo dục: “Trong công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến
tranh đưa chế độ phong kiến tiến nhanh lên tập quyền, chuyên chế, mục tiêu cấp bách
là phải sớm đào tạo được một đội ngũ quan lại lãnh đạo từ trung ương đến địa
phương. Nếu như ở các triều đại trước đây, việc chọn người ra làm quan có thể do
tiến cử, nhiệm cử thì đến Lê Sơ phương thức chủ yếu là khoa cử. Bởi vậy, ngay khi còn
kháng chiến, Lê Lợi đã chú trọng mở mang việc học, tổ chức cuộc thi ngay cận thành
Đông Quan” [28, tr. 52].
Sau khi đánh đuổi giặc Minh, bình định thiên hạ, thu non sơng về một mối, Lê
Lợi lên ngơi Hồng đế mở ra triều đại nhà Lê. Ngay từ buổi đầu, Lê Lợi đã chú trọng
nâng đỡ hiền tài, tìm người ẩn dật, mở các khoa thi, xây dựng nền văn học nước nhà,
củng cố chính sự quốc gia.Vua hết lòng chăm lo việc học hành, trực tiếp định ra
chương trình học tập cho trường Quốc Tử giám ở kinh đô và các trường công, tư ở các
lộ, phủ, châu.
Năm 1429, Lê Lợi đã xuống chiếu yêu cầu: “những người văn võ hào kiệt hoặc
bị bỏ sót trầm trệ, khơng có chức tước, khơng ai tiến cử, hoặc vì thù hằn mà bị đè nén
che giấu thì đến ngay chỗ thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến cử, xét ra thực có tài đức
thì tấu trình để cất dùng, không kể là ngụy quan hay là sĩ thứ, lấy tài đức là hơn” [19,

tr. 254]. Vua mở ra khoa thi minh kinh bác học để chọn người tài giỏi, thông thạo kinh
sử, đồng thời bắt các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống phải thi kinh sử. Đến năm
1431, vua lại cho mở khoa thi hoành từ để chọn những người văn hay, học rộng bổ
làm quan.
Bằng những chiếu dụ đó, mặc dù Lê Lợi chưa mở được các khoa thi tiến sĩ
nhưng ông đã tập hợp được một tầng lớp nho sĩ trí thức tiến bộ giúp triều đình dựng
nước, an dân, ổn định xã hội sau nhiều năm binh lửa chiến tranh.
Tiếp tục sự nghiệp của vua cha, Lê Thái Tông (1434-1442) đã không ngừng cũng
cố nhà nước phong kiến mới được hình thành bằng cách tăng cường đào tạo con cháu
các quan văn võ từ lục phẩm trở lên, các quan phù đạo, thủ lĩnh ở các phiên trấn thơng
qua hình thức ưu tiên lập danh sách, cho đến Quốc Tử giám đọc sách chờ tuyển dụng.
Sau 10 năm hịa bình, ổn định, vua Lê Thái Tông quyết tâm thúc đẩy việc học
hành thi cử vì chỉ có thơng qua thi tuyển mới chọn được người thực tài, đó là một nhân


15
tố rất quan trọng giúp nhà vua dựng xây đất nước. Năm 1438, vua cho tổ chức thi
hương ở các đạo, năm 1439, thi hội tại sảnh đường kinh đô, ai trúng kỳ thi hội được
gọi là tiến sĩ xuất thân (đỗ tiến sĩ được ra làm quan).Vua cũng định lệ 3 năm mở 1
khoa thi.
Ở buổi đầu thời Lê sơ, vua tôi chăm lo việc nước, chú trọng việc học hành thi cử,
nhiều nhân tài được thể hiện và trọng dụng, tạo ra nền tảng vững vàng cho đất nước
phát triển.
Như vậy, ta thấy rằng ngay từ thế ki X, sau khi đất nước cơ bản đi vào ổn định,
thì các triều đại phong kiến đã bắt đầu chú ý đến việc phát triển nền giáo dục bằng việc
đưa ra nhiều chính sách biện pháp, nó tăng dần từ thấp đến cao.
Trải qua các thời kì từ Lý, Trần, Hồ, cũng như các vị vua đầu triều Lê trước thời
kì trị vì của Lê Thánh Tơng các chính sách phát triển giáo dục ngày càng tiến bộ hơn,
góp phần đưa nền giáo dục nước nhà phát triển từng bước. Đồng thời, đó là cơ sở để
khi tiếp quản triều đại, Lê Thánh Tơng đưa ra và hồn thiện các chính sách phát triển

giáo dục, đưa nền giáo dục nước nhà đạt đến đỉnh cao, rạng rỡ đất nước.
1.2. Sự ra đời chính sách phát triển giáo dục của Lê Thánh Tông
1.2.1. Xuất phát từ thực tiễn của Đất nước
Cuộc khởi nghĩa Lam sơn chống quân Minh xâm lược thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi
vua, mở đầu cho sự xác lập triều đại Lê sơ. Tiếp sau Lê Lợi, các vị vua kế tục triều Lê
trong đó có Lê Thánh Tơng đã ra sức tổ chức, xây dựng chính quyền và phát triển đất
nước về mọi mặt, tạo điều kiện cho xây dựng một đất nước thịnh trị, để làm được điều
đó thì xây dựng và phát triển một nền giáo dục của đất nước đặt biệt được Lê Thánh
Tông chú trọng.
Tình hình chính trị của nhà Lê sơ, dưới thời Lê Thánh Tông đã được ổn định.
Năm 1466, ông chia cả nước ra thành 12 đạo Thừa tuyên gồm: Thanh Hóa, Nghệ An,
Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô. Ở mỗi Thừa tuyên đứng đầu
là 3 Ty phụ trách 3 lĩnh vực hoạt động khác nhau. Dưới đạo Thừa tuyên có phủ, châu,
huyện, xã, thôn. Sự phân cấp rõ ràng như vậy tạo điều kiện cho nhà vua dễ dàng nắm
tình hình và có những chính sách phù hợp cho từng nơi mỗi khi cần thiết.
Bộ máy nhà nước thời Lê sơ được hồn chỉnh và mang tính hiệu quả cao hơn so
với các thời kì trước. Đứng đầu là nhà vua, dưới vua là hệ thống quan lại được chia
thành 2 ban: Văn giai và Võ giai. Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp như
Tướng quốc, Đại hành khiển, Bộc xạ… để tránh tình trạng phân tán quyền lực. Vua


16
trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có 6 bộ:
Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng (Thượng thư đứng đầu mỗi bộ) là những cơ quan phụ
trách mọi mặt của triều đình. Giúp việc cụ thể có 6 Tự, Viện Hàn lâm, Viện Quốc sử,
Quốc tử giám…
Như vậy, dưới thời Lê Thánh Tơng về cơ bản tình hình chính trị đã được ổn định,
tạo điều kiện tập trung phát triển các lĩnh vực khác, xây dựng đất nước ngày càng hùng
mạnh hơn.

Đối với kinh tế, sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược, kinh tế nước ta bị tàn
phá nghiêm trọng, với một nền kinh tế vốn đã suy yếu ở cuối thời Trần lại càng khó
khăn hơn trong việc khơi phục và phát triển sau khi giành độc lập chủ quyền. Tuy
nhiên, nhờ sự quan tâm rất lớn của nhà nước đặt biệt là vua Lê Thánh Tông nên kinh tế
của đất nước nhanh chóng được phục hồi và tiếp tục phát triển.
Về nông nghiệp, nhà nước rất quan tâm đến việc bảo vệ đê điều khuyến khích
phát triển nơng nghiệp, đốc thúc và khuyến khích nhân dân khai phá ruộng đất bỏ
hoang, kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ, đào kênh khơi ngòi,…:“Các quan phủ
huyện, việc thuế khóa tuy chưa làm xong, mà áp làm đê đường không chăm, trong lúc
rảnh việc nông mà chưa làm xong, có hại cho thu hoạch lúa, đến kỳ khảo xét không
cho thực thụ hay không cho thăng cấp, để răn những người coi thường việc dân” [19,
tr. 344]. Vấn đề sức kéo rất quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp cũng được
vua Lê Thánh Tông hết sức quan tâm. Để bảo đảm sức kéo ổn định sản xuất nông
nghiệp, năm 1479, Lê Thánh Tông ra lệnh cấm giết trâu, bị. Ngồi ra cịn nhiều chính
sách khơi phục và phát triển nông nghiệp như lập đồn điền để mở rộng diện tích đất
nơng nghiệp cịn hoang hóa, khai hoang ở những vùng đất ven biển Sơn Nam, Thanh
Hóa, Nghệ An,…Chính sự quan tâm của nhà nước đã nhanh chóng phục hồi và phát
triển nền nơng nghiệp nước nhà. Theo đó trong suốt thời gian nắm quyền của Lê
Thánh Tông, chỉ có 4 lần hạn hán, một lần vỡ đê và một năm xảy ra đói kém…
Với thủ cơng nghiệp, các nghề thủ công như dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề
mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng… cũng được phát triển. Các ngành nghề thủ công
truyền thống , các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm
đồ gốm,… ngày càng phổ biến ở các làng xã. Các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng, được
đẩy mạnh.Việc giao thương buôn bán cũng được phục hồi và ngày càng mở rộng. Năm
1477, nhà nước định lệ chợ mới: “Các huyện châu xã ở các xứ trong nước, nhân dân
mỗi ngày một nhiều, nơi nào muốn chia mở chợ để tiện mua bán thì quan phủ huyện


17
châu khám xét quả thực tiện lợi cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp

chợ, khơng cứ có ngạch cũ hay khơng” [19, tr. 327].
Hàng hóa bn bán chủ yếu là nơng phẩm và các sản phẩm thủ cơng, trong đó
Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất của cả nước. Các cản biển: Vân
Đồn, Vạn Ninh, Càn Hải… và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang là nơi trao
đổi hàng hóa, bn bán giữ nước ta với các nước khác, nhiều sản phẩm nổi tiếng như
sành, sứ, vải lụa, lâm sản quý… được thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Qua những
điểm trên đã cho thấy kinh tế nước ta dưới thời Lê Thánh Tông bước đầu được khôi
phục và phát triển chính là nhờ sự quan tâm của nhà nước mà đứng đầu là minh quân
Lê Thánh Tông.
Thực tế nước ta dưới thời Lê Thánh Tơng trị vì, chính quyền trung ương thật sự
vững mạnh với những cải cách thống nhất và tập trung quyền lực vào tay vua trong
phương thức quản lí đất nước từ trung ương xuống địa phương, cùng với việc khơng
ngừng tìm kiếm nhân tài phục vụ đất nước, kinh tế rất được nhà nước quan tâm xây
dựng và tạo ra sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế. Đây chính là cơ sở quan
trọng để Lê Thánh Tông đưa ra và thực thi chính sách phát triển giáo dục.
Mặt khác, đất nước vừa thốt khỏi chiến tranh khơng lâu, u cầu của việc quản
lí đất nước và nhu cầu tìm kiếm người tài giúp vua quản lí đất nước đặc biệt được coi
trọng và trở thành một vấn đề bức thiết dưới triều đại Lê Thánh Tông, nhận thức rõ
tầm quan trọng đó bởi vậy, trong q trình lên ngơi và trị vì của mình Lê Thánh Tơng
đã đưa ra nhiều chính sách tiến bộ nhằm xây dựng một nền giáo dục khoa cử có thể
nói là tiêu biểu và xuất sắc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
1.2.2. Kế thừa những chính sách giáo dục của các Triều đại trước
Bước vào thời kì độc lập tự chủ đến trước khi Lê Thánh Tơng lên ngơi trị vì,
nước ta đã dần dần hình thành một nền giáo dục của nhà nước phong kiến. Xuất phát
từ nhu cầu quản lí đất nước, đào tạo quan lại, nâng cao tầm hiểu biết… các triều đại Lí
– Trần – Hồ đã đưa ra nhiều chính sách nhằm xây dựng và phát triển nền giáo dục
nước nhà.
Kế tục sự phát triển của nền giáo dục các triều đại trước, triều đại Lê Thánh Tông
đã kế thừa và phát triển những mặt tích cực, những chính sách đúng đắn góp phần phát
triển thêm tạo nên một nền giáo dục triều đại với những thành tựu rực rỡ.

Ví như trong việc tổ chức các khoa thi, thời Lí -Trần - Hồ, các khoa thi đã được
tổ chức song chưa nhiều và đều đặn. Đến thời kì Lê Thánh Tơng thì việc thi cử trở
thành nề nếp và đều đặn đi vào quy củ. Năm trước thi Hương thì Năm sau thi Hội.


18
Người đỗ đầu thi Hương chia thành hai hạng, hạng cao là hương cống, hạng thấp gọi
là sinh đồ, người đỗ đầu gọi là giải nguyên. Thi Hội tổ chức cho những người đã đỗ thi
Hương, để lấy học vị cấp nhà nước. Ai đỗ thi Hội phải qua kì thi Đình, tổ chức ở sân
rồng do vua ra đề để lấy từ tiến sĩ trở lên.
Ngoài ra ở các triều đại trước việc chấm thi mặc dù cũng đề cử người chấm khá
nề nếp, tuy nhiên đến thời Lê Thánh Tơng, ơng coi việc chấm thi cực kì quan trọng,
ông đã thành lập hội đồng thi quy mô gồm nhiều quan lại với những chức danh: Đề
điệu là chánh chủ khảo, Giám thí là phó chủ khảo, Thu quyền làm nhiệm vụ thu nhân
quyển thi của thí sinh, Di phong làm nhiệm vụ “rọc phách”, Đằng lục làm nhiệm vụ
ghi chép từng bài văn của thí sinh sang một quyển khác để giám khảo chấm, Đối độc
làm nhiệm vụ độc lại bài đằng lục, đối chiếu với bài làm của thí sinh cho chính xác.
Nếu như thời Lý Trần, giáo dục Nho học chỉ thu hẹp phạm vi tứ thư ngũ kinh, thì
đến thời Lê Thánh Tơng đã mở rộng thêm các sách khác như Ngọc đường văn phạm,
Văn hiến thơng khảo, Văn tuyển, cương mục...
Bên cạnh đó là ở mặt sử dụng và đãi ngộ nhân tài, từ thời lí – trần – Hồ sự tơn
trọng và sử dụng người có học vấn cao cũng đã được coi trọng, đến thời kì Lê Thánh
Tơng, ơng tiếp tục kế thừa chính sách tốt đẹp đó đồng thời nâng tầm. Theo sách Kiến
văn tiểu lục của Lê Q Đơn thì: “Những người thi đỗ tiến sĩ thời Lê Thánh Tông
được đãi ngộ rất hậu, được giao các chức Thị lang, Thượng thư, đỗ cử nhân được bổ
tri phủ, tri huyện” [13, tr. 276].
Thêm nữa, ở các thời kì trước đặc biệt là thời Lí – Trần, việc phong tước chủ yếu
cho tầng lớp quý tộc, họ hàng nhà vua, đến thời Lê sơ, đặc biệt là triều đại Lê thánh
Tông hàng ngũ quan lại được bổ sung thêm nhiều thành phần khác khơng có gốc q
tộc, trong đó tầng lớp nho sĩ ngày càng chiếm ưu thế.

Các triều đại trước, nền giáo dục nho học cũng đã được định hình nhưng chưa
thật sự vững chắc. Đến thời kì Lê Thánh Tơng, Nho giáo từ chỗ giữ vị trí cịn mờ nhạt
đã tiến lên trở thành hệ tư tưởng chính thống đào tạo quan lại theo hình thức Nho giáo
góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước, mở mang và phát triển nền giáo dục nói riêng
và quốc gia phong kiến hưng thịnh thời Lê Thánh Tơng nói chung.
Từ đó ta thấy rằng, trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những chính sách phát triển
giáo dục của các triều đại trước Lê Thánh Tông thực sự đã thực hiện một cuộc cải cách
triệt để về giáo dục và khoa cử Nho học, một cách quy mô, quy củ và đầy sáng tạo,
xây dựng nên một triều đại với một nền giáo dục phát triển rực rỡ mà các thời đại sau
vẫn tiếp tục kế thừa và học tập.
1.2.3. Xuất phát từ ý thức triều đại vua Lê Thánh Tông
Cùng với sự phát triển của lịch sử, trải qua những giai đoạn thăng trầm, giáo dục
không ngừng được chú trọng, tuy nhiên ở mỗi thời kì trước đó nó có sự khác nhau. Từ


19
thế kỉ X, sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938
và thành lập nên nhà Ngô đến khi quân Minh xâm lược và áp đặt ách đơ hộ trên đất
nước ta thì trải qua mỗi thời kì, mỗi triều đại ý thức dân tộc cũng như ý thức xây dựng
một quốc gia hùng cường cũng ít nhiều thể hiện ở các triều đại. Họ ý thức rõ rằng chỉ
có xây dựng và phát triển giáo dục mới là con đường đúng đắn để tuyển chọn nhân tài
phục vụ đất nước, xây dựng chính quyền. Từ những hình thức sơ khai của giáo dục và
sau này là hình thành các khoa thi đã cho thấy được ý thức của triều đại.
Đầu thế kỉ XV, trong hoàn cảnh đất nước rơi vào chiến tranh loạn lạc, nước ta đặt
dưới ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nền giáo dục của dân tộc có thể nói là
bị kìm hảm, hoặc chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho chính sách xâm lược và đồng hóa
của chúng. Năm 1427, sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngơi hồng
đế đất nước trở lại yên bình các vua đầu triều Lê cố gắng xây dựng và cũng cố chính
quyền về mọi mặt cũng như ổn định đời sống xã hội, lúc này giáo dục cũng được chú
trọng và quan tâm điều này được thể hiện ở số lượng các khoa thi được mở đều đặn

hơn tính từ thời Lê Thái Tổ (1426) đến thời kì trị vì của vua Lê Nhân Tơng (1463) liên
tục tổ chức các kì thi nhằm tuyển chọn nhân tài. Cụ thể: “thời kì Lê Thái Tổ trị vì 3
lần tổ chức khoa thi vào các năm 1429, 1431, 1442 thời kì này số lượng người đỗ tiến
sĩ là 45 người.Thời kì vua Lê Thái Tơng tổ chức khoa thi năm 1448 số lượng người đõ
tiến sĩ là 27 người. Thời kì vua Lê Nhân Tơng cũng 3 lần tổ chức khoa thi vào các năm
1453, 1458, 1463 số lượng người đỗ tiến sĩ là 73 người” [28, tr. 52].
Dưới thời Lê Thánh Tông, xuất phát từ ý thức cũng cố, xây dựng và phát triển
một chính quyền phong kiến trung ương tập quyền thống nhất từ trung ương xuống địa
phương, đồng thời cũng là ý thức xây dựng một quốc gia Đại Việt hùng cường Lê
Thánh Tông đã đặc biệt chú trọng đến phát triển giáo dục và khoa cử, nhiều chính sách
phát triển giáo dục tiến bộ được đưa ra và thực thi góp phần rất lớn vào sự hưng thịnh
của đất nước dưới triều đại ông trị vì. Chứng minh cho sự thịnh trị của nền giáo dục
dưới thời Lê Thánh Tơng, đã gói gọn trong những dòng nhận xét thán phục của nhà
nghiên cứu lịch sử, Mai Xuân Hải: “Đến đời Lê Thánh Tông, sự nghiệp khoa cử, đào
tạo nhân tài của nước ta dã bước vào một thời kì phát triển sơi nổi, rầm rộ, đạt tới
đỉnh cao mà kể từ sau thời ông cho tới khoa thi Hội cuối cùng của triều Nguyễn vào
năm Kỷ Mùi 1919 khơng bao giờ có được một thời kì nào rực rỡ đến như thế nữa”
[31, tr. 372].
Điều đó cho thấy rằng, vua Lê Thánh Tơng rất quan tâm đến việc xây dựng và
phát triển nền giáo dục của đất nước, để rồi xuất phát từ ý thức chủ quan đó, ơng đã
đưa ra nhiều chính sách nhằm phát triển nền giáo dục góp một phần tích cực vào sự
hưng thịnh của đất nước dưới triều đại của ông cũng như tên tuổi của ông được lưu
danh sử sách.


20
Chương 2:
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG
(1460 – 1497)
2.1. Vài nét về vua Lê Thánh Tông

2.1.1. Thân thế
Lê Thánh Tông (húy là Tư Thành) sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (25-81442), con thứ tư của vua Lê Thái Tông (1434-1442), mẹ là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc
Dao. Tư Thành sinh ra chỉ 14 ngày trước khi xảy ra cái chết đầy bí ẩn của Lê Thái
Tông (ngày 4 tháng 8, tức ngày 7-9-1442) dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên kết thúc bi thảm
cuộc đời của Nguyễn Trãi, người đã cùng Lê Lợi, ông nội của Tư Thành dựng nên sự
nghiệp bình Ngô và bị dèm pha, có thể bị phế bỏ và nhờ sự che chở, đùm bọc của
Nguyễn Trãi mới được an toàn sinh ra Tư Thành tại chùa Huy Văn (Hà Nội), bên
ngồi cung cấm. Tuổi thơ của ơng đã trãi qua những năm tháng cùng mẹ sống lánh
mình trong dân gian. Nhiều điều bí ẩn cịn bị che phủ và đó là mảnh đất để nẩy sinh
nhiều huyền thoại của văn hóa dân gian. Điều cần khẳng định là công lao sinh dưỡng
và dạy dỗ của người mẹ, bà Ngô Thị Ngọc Giao đương thời đã ca ngợi trong cung
đình, kẻ sang người hèn đều gọi Bà là Phật sống.
Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn nhưng ngay từ thuở nhỏ, vua Lê
Thánh Tông sớm bộc lộ tư chất thông minh hơn người. Về điều này, sử sách có chép
rằng: “Năm Nhâm Tuất Đại Bảo thứ ba, tháng bảy, ngày hai mươi sinh ra vua. Vua
sinh ra, tư trời rạng rở, thần sắc anh dị, trấn tư sáng suốt, chửng chạc, thực là bậc
thông minh đáng làm vua bậc chí dũng đủ giữ nước” [19, tr. 220].
Trong hòa cảnh éo le và bất hạnh như vậy, Lê Thánh Tơng khơng vì thế mà
bng xi mọi việc. Trái lại, đã tạo nên một con người đầy tài năng với những đức
tính cần cù, chịu khó và đặc biệt thú đam mê đọc sách đã mở mang tư duy, hình thành
nhân cách cao đẹp của một vị minh quân sớm khuya cầm mẫn đèn sách: “Sớm khuya
không rời quyển sách tài năng lỗi lạc, mà chế tác lại càng lưu tâm, ưa điều thiện, thích
người hiền, chăm khơng mỏi” [19, tr. 221].
Năm 1445, Lê Thánh Tông mới được vua Lê Nhân Tông – là anh của Lê Thánh
Tông phong làm chức: “Bình nguyên vương và cho vào cung học tập với các thân
vương ở cung Diên và đến năm Diên Ninh thứ sáu (1459) được Nghi Dân phong làm
Gia Vương cho làm nhà gần hữu nội điện để ở” [8, tr. 45]. Chính tại mơi trường này,
Lê Thánh Tơng đã bộc lộ tư chất thông minh nhưng biết rõ thân phận của mình nên
ơng rất khiêm tốn, bản thân Lê Thánh Tơng ln tìm cách ẩn mình, lấy việc cùng với



21
các thân vương ở Kinh Diên học tập làm vui thú và che giấu, khơng lộ anh minh ra
ngồi, chỉ vui với sách vở xưa nay.
Lê Thánh Tơng vốn có tư chất thông minh khác thường cùng với sự cần mẫn,
miệt mài chăm chỉ nên được thái hậu Nguyễn Thị Anh yêu như con đẻ và vua Lê Nhân
Tông coi là người em hiếm có. Cũng chính vì thế, khi Lê Nghi Dân giết mẹ con Lê
Nhân Tông để cướp ngôi, gây ra vụ phản loạn nhưng với Lê Thánh Tơng, Nghi Dân
vẫn giữ thái độ q trọng và cịn phong cho ông làm Gia Vương. Lê Nghi Dân ở ngơi
được 8 tháng thì bị triều thần truất ngơi vì tin dùng kẻ xu nịnh khiến lịng người trong
nước ốn giận, mong muốn có một bậc minh quân đứng ra lãnh đạo đất nước.
Trong hồn cảnh đó, triều thần đã đưa Lê Thánh Tông lên ngôi bởi khâm phục
nhân cách và sự thơng tuệ, cần mẫn hiếm có ở con người này. Việc vua Lê Thánh
Tông lên ngôi được sử cũ chép lại như sau: “Ngơi trời khó khăn, của báu rất quan
trọng, nếu khơng phải là người có đức lớn không thể đương nổi. Nay Gia Vương tư
trời thông tuệ, tài lược trầm hùng, hơn cả mọi người, các vương khơng ai bằng, lịng
người đều thuận thuộc, đủ biết ý trời đã giúp” [19, tr. 223]. Năm 1460, Lê Thánh
Tông lên ngôi ở điện Tương Quang, đổi niên hiệu là Quang Thuận năm thứ nhất, đại
xá thiên hạ. Năm đó vua mới 18 tuổi.
Lê Thánh Tơng là một trong những vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử các triều
đại phong kiến Việt Nam. Trong thời gian ở ngôi, Lê Thánh Tông đặt hai niên hiệu:
Quang Thuận và Hồng Đức. Mười năm đầu sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông lấy niên
hiệu là Quang Thuận (1460 – 1469), về sau đổi niên hiệu là Hồng Đức (1470 – 1497).
Vua mất vào ngày 30 tháng 1 năm 1497, thọ 56 tuổi. Trong q trình nắm giữ chính
quyền, Lê Thánh Tơng đã có nhiều đóng góp đặc biệt quan trọng trên nhiều lĩnh vực từ
đường lối trị nước cho đến các mặt khác của đời sống xã hội,… đưa Đại Việt trở thành
một quốc gia hùng cường trong khu vực thời bấy giờ.
2.1.2. Sự nghiệp
Lê Thánh Tơng trị vì trong thời gian 38 năm, với cương vị Hoàng đế đất nước
Đại Việt, ông đã để lại một sự nghiệp phục hưng đất nước rạng rỡ, chế độ phong kiến

trung ương tập quyền được cũng cố và tăng cường về mọi mặt. Trên nhiều phương
diện như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, giáo dục,… đều đạt được những
thành tựu to lớn được sử sách ghi nhận.
Công lao và sự nghiệp to lớn của vua Lê Thánh Tông như lời nhận xét của sử gia
Trần Trọng Kim: “…Nước Nam ta bấy giờ văn minh thêm ra lừng lẫy một phương, kể
từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh đến vậy” [18, tr. 258]. Từ sự nhận định đó


22
càng khẳng định vị trí và làm nổi bật thêm vai trị và những đóng góp to lớn của Lê
Thánh Tông đối với sự phát triển của triều đại và của cả dân tộc.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi năm 1428, đưa Đại Việt ta phát triển
trong hòa bình thịnh trị. Những năm đầu dưới thời Lê, đất nước dần đi vào ổn định
nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn. Nạn tranh giành quyền lực diễn ra gay gắt
trong nội bộ vương triều dẫn đến hệ quả là sự thiếu ổn định, lại thêm nhiều công thần
khai quốc như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi… đều bị vu oan và giết làm cho người
dân không khỏi lo lắng, lịng người khơng n, nội bộ bất đồng. Sinh ra trong bối cảnh
như vậy và sau này được ở ngôi Hồng đế, Lê Thánh Tơng đã nhanh chóng bắt tay vào
thực hiện ý tưởng cải cách đất nước bởi ông đã nhận thấy rõ rằng: “Đất đai bờ cõi
ngày nay so với trước kia khác nhau nhiều lắm, không thể không thân hành nắm quyền
chế tác, làm trọn đạo biến thông” [32, tr. 236].
Để đất nước được ổn định và phát triển, vua Lê Thánh Tông đã tiến hành cải
cách trên nhiều lĩnh vực, mang lại hiệu quả to lớn mà thực tế lịch sử đã ghi nhận.
Trong các lĩnh vực cải cách do ông đề xướng, được đánh giá rất cao là cải cách hành
chính mà theo nhiều nhà sử học nghiên cứu và đánh giá thì đây là một cuộc: “cải cách
hành chính tồn diện nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” [31, tr. 53].
Trước hết để nâng cao quyền lực của nhà vua, bảo đảm về bộ máy quyền lực hoạt
động có hiệu quả và hạn chế tham ô, tham nhũng, nhũng nhiễu dân chúng. Ở trung
ương, các cơ quan quyền lực trung gian bị xóa mà thay thế bởi Lục bộ (bộ Lại, bộ Hộ,
bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Cơng) đứng đầu các bộ là chức Thượng thư. Vua chỉ làm

việc trực tiếp với các bộ, thông qua các bộ để thực hiện quyền lực của mình. Mặt khác,
ơng cịn đặt thêm Lục khoa tương ứng với Lục bộ với chức năng giám sát việc hoạt
động của các cơ quan này. Ở địa phương, năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước
thành 12 đạo thừa tuyên, đến năm 1471, có thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam.
Theo đó, dưới đạo là phủ, huyện, châu, xã. Mỗi đạo thừa tuyên, Thánh Tông đặt ba ti
là ba cơ quan ngang quyền nhau và giám sát lẫn nhau là Đô tổng binh sứ ti, thừa tuyên
sứ ti và Hiến sát sứ ti. Với cuộc cải cách hành chính như trên, vua Lê Thánh Tông đã
xây dựng một bộ máy quyền lực thống nhất, hiệu quả, tạo nên sự xuyên suốt trong vận
hành của chính quyền từ trung ương xuống địa phương theo ý muốn của ông, việc này
đã tạo nên sự ổn định và phát triển một cách thịnh trị dưới triều đại mà Lê Thánh Tơng
trị vì.
Mặt khác, khơng chỉ dừng lại ở cải cách hành chính, để bảo đảm an ninh, kỉ
cương trong xã hội, năm 1483, Lê Thánh Tông cho ban hành bộ luật Hồng Đức, với


23
722 điều. Luật Hồng Đức ra đời đã bám sát vào hồn cảnh xã hội lúc đó với những
điều luật liên quan đến hầu hết mọi mặt của đời sống dân chúng như: Quan cấm, Quân
luật, Vi chế, Hộ hôn, Điền sản, Đạo tặc, Gian dâm, Tố tụng,…Bộ luật Hồng Đức ra
đời cho thấy sự cố gắng và nổ lực để hoàn thiện về mọi mặt thiết chế của nhà nước
cũng như mong muốn xây dựng một đất nước ổn định và có kỉ cương phép nước đạo
nhà của minh quân Lê Thánh Tông.
Trong sự phát triển của đất nước như vậy nhưng Lê Thánh Tông vẫn không quên
quá khứ đất nước đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của đế chế
Trung Hoa và luôn luôn đề cao cảnh giác trước dã tâm nô dịch và đồng hóa dân tộc ta.
Do đó, dưới thời Lê Thánh Tông từ cấm quân đến quân địa phương vẫn luôn thường
xuyên tổ chức những cuộc duyệt binh quy mô lớn, đặt biệt ở các vùng biên ải xa xôi
lại càng chú trọng hơn góp phần bảo vệ lãnh thổ cương vực biên giới, chủ quyền quốc
gia. Năm 1465, Thánh Tông ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, tượng trận 32 điều,
mã trận 27 điều,… đến năm 1467, quy định cứ 3 năm tổ chức ki thi khảo võ nghệ của

quân sĩ và định lệ thưởng phạt…Tất cả những hoạt động trên đã thể hiện sự quan tâm
của vua đến chủ quyền của dân tộc và biên giới của quốc gia như lời Lê Thánh Tơng
đã từng nói dụ với Thái bảo Lê Cảnh Huy rằng:“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ
nào nên vứt bỏ? Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho
giặc thì tội phải tru di…” [19, tr. 116].
Ngồi các lĩnh vực trên, Lê Thánh Tơng cịn đề ra các chính sách ngoại giao
nhằm giữ vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đối với nước lớn như Trung Hoa, thánh
Tơng đặt quan hệ láng giềng hịa hảo và một số nước trong khu vực đặt quan hệ ngoại
giao với nước ta.Về đối nội, chính sách đồn kết dân tộc cũng được thể hiện qua việc
vua Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ Hồng Đức, cương giới của quốc gia từ đó được
định hình trên giấy tờ. Trong thời gian nắm giữ chính quyền của mình, Lê Thánh Tông
đã hai lần định lại bản đồ cả nước, lần thứ nhất vào năm Quang Thuận (1469): “Định
bản đồ của phủ châu huyện xã trang sách thuộc 12 thừa tuyên trong cả nước” [19, tr.
286]. Lần thứ hai vào năm thứ 21 niên hiệu Hồng Đức (1490).
Không chỉ cải cách trên lĩnh vực chính trị hay luật pháp mà Lê Thánh Tơng cịn
tiến hành cải cách về lĩnh vực kinh tế. Năm 1477, chính sách lộc điền được ban hành
cho quan lại dưới hình thức lương bổng và quân điền thì buộc tất cả các xã, thơn trong
nước có ruộng đất công phải chia cho xã dân theo quy chế thống nhất do nhà nước quy
định. Do đó, người dân ở các làng xã đều được chia ruộng đất và thực sự có đất để cày
cấy trong điều kiện đất nước chủ yếu là nông nghiệp. Để mở mang thêm đất nông


24
nghiệp, theo đề nghị của các quan thì đến năm 1481, Thánh Tông quyết định thành lập
43 sở đồn điền với mục đích khai thác hết sức đất nơng nghiệp, mở rộng nguồn súc
tích cho đất nước. Ngồi ra, nhà vua cịn quan tâm đến thủy lợi, chăm sóc đê điều, đào
vét kênh, khơi dòng để thuận lợi cho việc tưới tiêu, phục vụ việc làm nông của người
dân. Những năm hạn hán mất mùa, Lê Thánh Tông thường xuyên cầu đảo, ra các
chiếu khuyến nông hay chẩn cấp lương thực cho những nơi xảy ra đói kém nhanh
chóng ổn định đời sống cho dân chúng. Về văn hóa giáo dục cũng có nhiều thành tựu

đáng lưu ý. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển
giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử
Giám là một trong những cơ quan văn hóa , giáo dục lớn, Lê Thánh Tơng cịn cho xây
kho bí thư chứa sách. Bên cạnh việc mở mang Văn Miếu ở kinh đơ, Lê Thánh Tơng
cịn đặc biệt quan tâm việc tổ chức khoa cử để chọn người tài tham gia bộ máy chính
quyền. Trong thời gian 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông đã mở tổng cộng 12 khoa thi
tai Quốc Tử Giám để chọn hiền tài, lấy đỗ 501 Tiến sĩ, trong đó có 9 Trạng nguyên, 10
Bảng nhãn, 11 Thám hoa. Chính triều đại Lê Thánh Tơng đã đánh dấu: “Bước mở đầu
quyết định của chế độ đào tạo quan chức bằng giáo dục” [23, tr. 55]. Đó cũng là mốc
khẳng định sự chuyển đổi từ chế độ quan liêu thân tộc sang chế độ quan liêu tri thức,
mở rộng của quan trường và tạo mọi điều kiện cho dân chúng được thi thố tài năng,
đem sức mình ra giúp nước.
Với Nho giáo, Lê Thánh Tơng hết sức coi trọng và đưa lên vị trí hàng đầu, trở
thành chuẩn mực cho các mối quan hệ trong xã hội. Mặt khác, ông cũng không quên
việc chấn chỉnh văn hóa thống nhất phong tục tập quán trong xã hội với việc đưa ra
“24 điều huấn” khuyến mọi người sống hịa thuận trong gia đình, trong mối quan hệ
giữa hàng xóm láng giềng, quan lại ở các phủ, huyện phải tích cực chăm lo đến đời
sống sinh hoạt của dân chúng ở đại phương mình.
Lê Thánh Tơng là vị vua anh minh, sáng suốt trong đường lối trị nước cũng như
các hoạt động bang giao…Trong thời gian chấp chính 38 năm, ơng đã có những đóng
góp to lớn đối với sự phát triển của Đại Việt lúc bấy giờ. Gạt bỏ quyền lực của các phe
phái, thâu tóm quyền lực về tay Hoàng đế, chế độ phong kiến trung ương tập quyền
được cũng cố về mọi mặt, trật tự kỉ cương được thiết lập, lập bản đồ Hông Đức, phát
triển kinh tế, mở mang văn hóa giáo dục,…
Tóm lại, dưới thời Lê Thánh Tơng trị vì, nhiều chính sách xây dựng và phát triển
đất nước được ông đưa ra mang lại hiệu quả thiết thực, từ kinh tế cho đến chính trị,
văn hóa xã hội, bang giao bảo vệ biên cương lãnh thổ, đóng vai trị quan trọng đối với


25

sự ổn định và tiến bộ vượt bậc của đất nước, để lại một sự nghiệp lẫy lừng trong lịch
sử chế độ phong kiến Việt Nam.
2.2. Nội dung chính sách phát triển giáo dục của vua Lê Thánh Tông
2.2.1. Nho giáo được chú trọng và phát triển
2.2.1.1. Vài nét về Nho giáo trước thời Lê Thánh Tông
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức ra đời ở Trung quốc thời
cổ đại do Khổng Tử sáng lập. Ở Trung Quốc, Nho giáo phát triển qua nhiều giai đoạn
khác nhau, mỗi giai đoạn có sự kế thừa phát triển và hoàn thiện học thuyết.
Nho giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc, buổi đầu công ngun nhằm
phục vụ cho chính sách đồng hóa về mặt xã hội, biến nước ta thành quận huyện của
Trung Quốc. Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần chúng đã sử dụng Nho
giáo như là một cơng cụ hữu hiệu nhằm đồng hóa về mặt tư tưởng: “Ngay từ thời Tây
Hán, trong chừng mực nhất định, Nho giáo đã được chính quyền đơ hộ truyền bá vào
nước ta. Đến đầu Cơng ngun, các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên càng tích cực
dựng học hiệu để dạy nghĩa cho dân Giao Chỉ, Cửu Chân. Về sau, nhiều Nho sĩ người
Hán có tài năng được chính quyền phương Bắc cử sang Giao Chỉ để truyền bá Nho
giáo. Vào thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ có tới hàng trăm sĩ phu Trung Quốc
sang Việt Nam cùng với Sĩ Nhiếp đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán học ở
Giao Châu, họ mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên” [28, tr. 12]. Mặc dù vậy,
dưới thời Bắc thuộc Nho giáo cũng như toàn bộ tư tưởng văn học Trung Quốc nói
chung chỉ ảnh hưởng ở một số vùng trung tâm châu trị, quận huyện nhất định mà thơi,
do đó, ảnh hưởng của nó đối với nước ta là rất hạn chế, có chăng Nho giáo cũng chỉ
ảnh hưởng vào bộ phận tầng lớp trên, còn lại nhân dân ta chủ yếu ít chịu ảnh hưởng.
Bước sang thế kỉ thứ X, sau khi Khúc Hạo giành được quyền tự chủ đến hết thời
Tiền Lê, mặc dù, đất nước đã bước vào thời kì tự chủ tuy nhiên tình hình vẫn chưa ổn
định, nạn ngoại xâm phương Bắc vẫn lăm le đe dọa, trong nước tình hình bất ổn, biểu
hiện là loạn 12 sứ quân sau khi Ngơ Quyền mất. Thời kì này tư tưởng Phật giáo vẫn là
chủ đạo và chi phối đến việc xây dựng nhà nước, chính quyền cũng như ảnh hưởng sâu
rộng đến đời sống nhân dân.
Từ thế kỉ XI, sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập nên nhà Lý, đất nước từ đây

dần dần ổn định. Việc xây dựng mô hình nhà nước cũng như những nhu cầu khác của
đất nước trở nên quan trọng bên cạnh hệ tư tưởng Phật giáo thì Nho giáo bắt đầu có
điều kiện để phát triển ở nước ta, song thời Lý – Trần, tuy Nho giáo, Nho học có vị trí
khá quan trọng nhưng các nhà Nho, bên cạnh các Nhà quý tộc, các nhà sư, chỉ giữ vai


×