Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Cảm hứng sáng tác của sương nguyệt minh qua tập truyện ngắn chợ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.17 KB, 76 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

HÀ THỊ THƯƠNG TRÚC

CẢM HỨNG SÁNG TÁC CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH
QUA TẬP TRUYỆN NGẮN CHỢ TÌNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 05/2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

CẢM HỨNG SÁNG TÁC CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH
QUA TẬP TRUYỆN NGẮN CHỢ TÌNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
TS. Nguyễn Thanh Trường

Người thực hiện:


HÀ THỊ THƯƠNG TRÚC
(Khóa 2010 -2014)

Đà Nẵng, tháng 05/2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thanh Trường. Kết quả nghiên cứu là trung thực
và chưa có tài liệu nào cơng bố.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Hà Thị Thương Trúc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 4
5. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG .................................................................... 6
1.1. Cảm hứng sáng tác trong tác phẩm nghệ thuật .................................... 6
1.1.1. Quan niệm về cảm hứng sáng tác ........................................................... 6
1.1.2. Biểu hiện của cảm hứng sáng tác trong tác phẩm nghệ thuật ................. 8

1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại ............. 10
1.2.1. Hướng đến phản ánh những vấn đề bình dị trong cuộc sống đời thường ... 10
1.2.2. Hướng về sự vận động trong đời sống nội tâm của con người ............. 12
1.3. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trong dòng cảm hứng sáng tác
truyện ngắn đương đại.................................................................................. 15
Chương 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CẢM HỨNG SÁNG TÁC QUA TẬP
TRUYỆN NGẮN CHỢ TÌNH .................................................................................18
2.1. Về thiên nhiên ......................................................................................... 18
2.1.1. Thiên nhiên thơ mộng, đậm sắc màu .................................................... 18
2.1.2. Thiên nhiên giao hòa với con người ..................................................... 21
2.2. Về con người ........................................................................................... 25
2.2.1. Con người cô đơn trước quy luật hiện tồn ............................................ 25
2.2.2. Con người thức tỉnh trong bản thể tự nhiên .......................................... 31
2.2.3. Con người mang khát vọng nhân tính ................................................... 34


Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG SÁNG
TÁC QUA TẬP TRUYỆN NGẮN CHỢ TÌNH...................................................38
3.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình và tâm lí ........................ 38
3.1.1. Ngoại hình nhân vật – Sự khắc họa chân dung ..................................... 38
3.1.2. Diễn biến tâm lí – Sự thể hiện tính cách ............................................... 41
3.2. Khơng – thời gian nghệ thuật................................................................ 45
3.2.1. Không – thời gian sinh hoạt đời thường ............................................... 45
3.2.2. Khơng – thời gian tâm lí ....................................................................... 49
3.3. Ngôn ngữ ................................................................................................. 52
3.3.1. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 53
3.3.2. Ngôn ngữ người kể chuyện ................................................................... 55
3.4. Giọng điệu ............................................................................................... 59
3.4.1. Giọng điệu trữ tình, đậm chất thơ ......................................................... 60
3.4.2. Giọng điệu triết lý, suy tư ..................................................................... 62

KẾT LUẬN .................................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................69


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cảm hứng là một trong những yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo
nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Là một trong những thành phần
nội dung cấu thành nên tác phẩm văn học, cảm hứng sáng tác luôn là đối
tượng được các nhà lí luận, nghiên cứu, phê bình quan tâm.
Trong dòng chảy văn học dân tộc, truyện ngắn đương đại ngày càng đáp
ứng được những yêu cầu thẩm mĩ và thị hiếu của độc giả. Minh chứng rõ nhất
cho sự lên ngơi của truyện ngắn chính là sự xuất hiện hàng loạt những gương
mặt như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư… Nhà văn Sương Nguyệt Minh là
một trong số đó.
Chợ tình của Sương Nguyệt Minh là tập truyện ngắn lấy cảm hứng từ
cuộc sống thời hậu chiến. Chiến tranh đã lùi xa, con người đã khơng cịn phải
vật lộn với mưa bom bão đạn mà được trở về với cuộc sống thường nhật, một
cuộc sống “vốn lắm nỗi buồn nhưng chẳng bao giờ thiếu niềm vui”. Con
người giờ đây ngồi đi tìm lại bản ngã đã đánh rơi cịn hướng về cội nguồn
dân tộc với những nét đẹp của văn hóa truyền thống và hịa mình vào thiên
nhiên vạn vật... Tất cả là đều là nguồn cảm hứng bất tận để Sương Nguyệt
Minh tạo nên những thành phẩm nghệ thuật đầy sáng tạo.
Thực hiện nghiên cứu đề tài “Cảm hứng sáng tác của Sương Nguyệt
Minh qua tập truyện ngắn Chợ Tình” sẽ giúp chúng tơi có thêm nhiều hiểu
biết về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn cũng như góp phần
khẳng định vị trí và những đóng góp của Sương Nguyệt Minh cho truyện

ngắn đương đại.


2

2. Lịch sử vấn đề
Với “sức đàn ông lực điền trên cánh đồng chữ nghĩa” [27], các sáng tác
của Sương Nguyệt Minh đã tạo ra một làn sóng dư luận sơi nổi trong giới
nghiên cứu phê bình và thu hút được sự quan tâm của nhiều độc giả. Trong
khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ giới thiệu những công trình, bài viết tiêu
biểu liên quan đến phạm vi nghiên cứu:
Trong bài Sự cố vạ chữ của nhà văn Sương Nguyệt Minh, nhà văn Hồ
Phương khi đọc truyện Nỗi đau dịng họ - một truyện ngắn nằm trong tập Chợ
tình đã bộc bạch: “Mình đọc truyện thấy có mùi, có vị. Truyện đầu tay, nhưng
cảm thấy đã rõ hình hài cốt cách một người viết chuyên nghiệp trong đó...”
[29].
Nhà văn Tạ Duy Anh trong bài Sương Nguyệt Minh giữa thế giới hư
thực khi nói về tác động của những trải nghiệm đời thực trong truyện ngắn
của Sương Nguyệt Minh, ông cho rằng “Sương Nguyệt Minh đi nhiều, thích
trải nghiệm, đam mê quan sát và những phẩm chất đó khiến văn của ơng
khống đạt, giầu chất thơ, tiềm tàng nhiều nội lực. Tính cách mạnh mẽ, khí
khái, nghiêm túc với vốn ngơn ngữ phong phú cho ơng có một giọng văn vừa
buông tuồng, nhấn nhá kiểu dân dã vừa nghiêm cẩn, cốt cách.”. Bàn thêm về
Những vùng trời của họ thì tác giả bài viết cho đây “là một truyện ngắn đầy
tính bi kịch của một hài kịch nhân thế…” [23].
Nguyễn Hữu Quý gọi những nhà văn như Sương Nguyệt Minh, Nguyễn
Bình Phương là “lớp đàn anh trong đội ngũ nhà văn quân đội xuất hiện sau
1975” và kết luận: “lớp nhà văn quân đội sau năm 1975 đã có những đóng
góp vào nền văn học đổi mới của nước nhà với những tên tuổi nổi bật như
Nguyễn Bình Phương, Trần Anh Thái, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Đình

Tú. Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa..” [28]. Có cùng ý kiến này, tác giả
Nguyễn Văn Hùng trong bài viết Truyện ngắn về đề tài lịch sử từ đầu thế kỉ


3

XX đến nay – đôi nét phác thảo cũng gọi những nhà văn như Sương Nguyệt
Minh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp… là “những cây bút đàn
anh đàn chị đã khẳng định được phong cách của mình trên văn đàn” [26].
Trong bài Phụ nữ làng quê hiện đại trong truyện Sương Nguyệt Minh,
Trịnh Minh Hiếu viết: “Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế sắc
sảo, cái nhìn đôn hậu yêu thương, nhà văn Sương Nguyệt Minh đã đi sâu vào
những trạng thái tâm lý, các góc khuất trong tâm hồn phong phú, đa cảm của
phụ nữ chân quê” [25]. Tác giả bài viết cũng nhận định Sương Nguyệt Minh
đã “đi sâu vào tâm trạng phức tạp của những cô gái nông thông mơ ước được
thay đổi cuộc sống, được thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. (Đi qua đồng
chiều; Mây bay cuối đường; Những bước chân vào đời; Sao băng lúc mờ tối)”
[25].
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên đã đi vào đánh
giá một số phương diện nội dung và hình thức truyện ngắn Sương Nguyệt
Minh. Tuy nhiên vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
về đề tài “Cảm hứng sáng tác của Sương Nguyệt Minh qua tập truyện ngắn
Chợ tình”. Đây chính là lí do chúng tơi chọn đề tài này làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là “Cảm hứng sáng tác của Sương Nguyệt Minh
qua tập truyện ngắn Chợ tình” được thể hiện qua các bình diện: những biểu
hiện của cảm hứng sáng tác và các phương thức thể hiện cảm hứng sáng tác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập truyện ngắn Chợ tình do nhà xuất
bản Hội nhà văn ấn hành vào năm 2007 và một số sáng tác khác của Sương
Nguyệt Minh.


4

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành đề tài, trong q trình tiến hành nghiên cứu, chúng tơi đã
sử dụng một số phương pháp sau:
 Phương pháp thống kê
Dựa trên những khảo sát cụ thể về cảm hứng sáng tác của Sương Nguyệt
Minh qua các truyên ngắn trong tập Chợ tình, phương pháp thống kê giúp
người nghiên cứu tổng hợp được những dẫn chứng minh chứng cho các đánh
giá nhận định của mình. Với việc khảo sát, thống kê các truyện ngắn trong tập
truyện và một vài những truyện ngắn khác của nhà văn Sương Nguyệt Minh,
người nghiên cứu có thêm điều kiện để q trình nghiên cứu diễn ra một cách
có hệ thống.
 Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây được xác định là phương pháp cơ bản để người nghiên cứu đi sâu
khám phá đề tài. Do mục đích của đề tài nên mức độ phân tích ở từng truyện
ngắn có sự chênh lệch. Người nghiên cứu đã dựa vào những biểu hiện của
cảm hứng sáng tác trong tác phẩm nghệ thuật để đi vào tìm hiểu sự xuất hiện
và tác dụng của chúng trong các truyện ngắn nằm trong tập Chợ tình. Từ đó,
rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái qt, làm nổi rõ vấn đề nghiên
cứu.
 Phương pháp so sánh, đối chiếu
Khi nghiên cứu cảm hứng sáng tác của Sương Nguyệt Minh qua những
truyện ngắn nằm trong tập Chợ tình người nghiên cứu có sự đối chiếu, so
sánh với cảm hứng sáng tác trong từng truyện với nhau và với một số truyện

ngắn của các văn nghệ sĩ khác để thấy được sự khác nhau giữa tác giả và họ,
từ đó góp phần khẳng định phong cách của nhà văn.


5

5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, phần Kết luận và thư mục Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung của khóa luận gồm các chương sau:
- Chương 1. Cơ sở lí luận chung
- Chương 2. Những biểu hiện cảm hứng sáng tác qua tập truyện ngắn
Chợ tình
- Chương 3. Một số phương thức thể hiện cảm hứng sáng tác qua tập
truyện ngắn Chợ tình


6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Cảm hứng sáng tác trong tác phẩm nghệ thuật
1.1.1. Quan niệm về cảm hứng sáng tác
Xuất hiện lần đầu tiên trong triết học cổ Hi Lạp, cảm hứng sáng tác mặc
dù đã được nhiều nhà nghiên cứu mở rộng và phát triển song khái niệm này
cho đến nay vẫn chưa được thống nhất. Tuy nhiên chính điều này cũng lại góp
phần rất lớn vào sự phong phú của kho tàng lí luận văn học nhân loại. Mặc dù
còn chưa được thống nhất hồn tồn, song quan niệm cảm hứng sáng tác hiện
có một vài cách hiểu sau:
G.N.Pôpêlôp trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học đã cho rằng cảm

hứng là từ mà nhà văn dùng để chỉ “trạng thái hưng phấn cao độ của cuộc
sống mà họ miêu tả” [15;tr.141]. Ơng cịn viết: “Sự lí giải, đánh giá sâu sắc và
chân thực – lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa
dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của
nhà văn và của tác phẩm của nhà văn” [15;tr.141].
Trong Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh
Như Phương cho rằng: “Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi
nên bởi một tư tưởng nào đó… Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về
một tư tưởng nào đó trở thành lịng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành
năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt” [5;tr.208 – 209].
Nói về mối quan hệ chặt chẽ giữa cảm hứng sáng tác, tư tưởng của nhà
văn và sự tiếp nhận của độc giả, nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng cảm hứng là
“trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn


7

với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm
xúc của những người tiếp nhận tác phẩm” [4; tr. 44 - 45].
Trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên khi nghiên cứu
cảm hứng sáng tác ở quá trình vận động và phát triển, các tác giả đã khám phá
ra rằng: “Cảm hứng là trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác
thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc khi đã đạt
đến sự hài hòa kết tinh sẽ bùng cháy trong tư duy nghệ thuật của nhà văn dẫn
dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản
năng” [12; tr.210]. Nhà nghiên cứu cịn nói thêm “Cảm hứng sáng tác là một
thứ vô thức, phi lí mà nhà văn khơng thể tự chủ, tự giác được” [12; tr.210]…
“cảm hứng trong tác phẩm phải phục tùng quy luật tình cảm là phải khêu gợi,
khơi mở chứ không thẳng đuột một chiều” [12; tr.270] .

Tác giả Nguyễn Quýnh trong Từ di sản khi nói về cảm hứng thì ví nó với
hiện tượng tự nhiên: “Người như sơng biển, chữ như nước, hứng thì như gió.
Gió thổi tới sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành sóng,
thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, khơng thể nín
được mà sinh ra ở trong lịng, ngâm vịnh ở ngồi miệng, viết nên ở bút
nghiên, giấy mực. Gió khơng bám vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến
động, khơng ở n… Có người nói: Tâm người ta như chng, như trống;
hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chng, trống khiến chúng
phát ra tiếng, hứng đến khiến người ta bật ra thơ, cũng tương tự như vậy”
[19;tr.109].
Như vậy, cảm hứng là một trạng thái, một quy luật của tình cảm. Nó bắt
nguồn từ tình cảm và chịu sự chi phối của tình cảm người nghệ sĩ. Cảm hứng
sáng tác trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của nhà văn, chủ đề của chính tác
phẩm đó. Nó là trạng thái tâm lí đặc biệt, là sự hưng phấn cao độ để kích thích


8

sự sáng tạo của người nghệ sĩ từ đó làm cái gốc để tạo nên phong cách của
nhà văn cũng như phong cách của tác phẩm văn học.
1.1.2. Biểu hiện của cảm hứng sáng tác trong tác phẩm nghệ thuật
Cảm hứng trong tác phẩm nghê thuật bắt nguồn từ cuộc sống. Nhà
nghiên cứu phê bình Phương Lựu khi nói đến mối quan hệ giữa văn học và
hiện thực đời sống đã cho rằng: “Bất kì nền văn nghệ nào cũng hình thành
trên một cơ sở hiện thực nhất định. Bất kì một nghệ sĩ nào cũng thốt thai từ
một mơi trường sống nào đó. Bất kì một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ
những vấn đề trong cuộc sống” [13;tr.81]. Cuộc sống bên ngồi chính là
nguồn cảm hứng bất tận cho sự ra đời của các tác phẩm nghệ thuật. Chúng
được khúc xạ qua lăng kính của người nghệ sĩ rồi chịu sự nhào nặn, chi phối
của lí trí lẫn tình cảm của họ và đi vào tác phẩm, trở thành hình tượng được

phản ánh trong đó. Từ việc ghi lại những biến cố lớn lao của lịch sử bằng cảm
hứng anh hùng ca, văn học đặc biệt là truyện ngắn sau 1975 dần chuyển mình
sang phản ánh những vấn đề bình dị, đời thường trong cuộc sống. Truyện
ngắn Bước qua lời nguyền Tạ Duy Anh xoáy sâu vào những mối hận thù
truyền kiếp và những bi kịch mà nó để lại trong đời sống tinh thần của mỗi
người dân làng Đồng. Nhỏ là mối thù giữa hai gia đình của nhân vật tơi và
nhân vật Q Anh, lớn là mối thù giữa hai giai cấp địa chủ và nông dân trong
xã hội cũ. Niềm hi vọng về một ngày mai tươi sáng của làng Đồng - nơi
không còn những hận thù tăm tối, được tác giả gửi vào hai nhân vật tôi và
Quý Anh. Cùng với thời gian, tình yêu của họ đã chiến thắng hận thù để
đươm hoa kết trái. Bằng ngồn cảm hứng đó, nhà văn đứng trên lập trường của
một người trí thức tiến bộ trong xã hội mới đi sâu, nói nhiều về những hận thù
dai dẳng với mong muốn có thể xoa dịu những nỗi đau, hàn gắn những vết
thương và xích gần khoảng cách giữa con người và con người.


9

Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật biểu hiện ở vấn đề. Trong Vân đài
loại ngữ Lê Quý Đôn từng nói đến ba yếu tố quan trọng cấu thành nên tác
phẩm văn học “… Một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lịng có cảm xúc
thật sự rung lên thành lời, thực tế bên ngoài gây thành ý rồi dùng lời lẽ, điển
tích để nói việc ngày nay, ghi việc ngày xưa hay thuât lại truyện hiện tại đều
tự nhiên, có tinh thần… Tình là người, cảnh là tự nhiên, sự là hợp nhất cả trời
và đất. Lấy tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra lời, thành
tiếng. Như vậy cảnh khơng hẹn mà tự đến, nói khơng mong mà tự hay…”.
Một tác phẩm văn học có giá trị và có sức sống vượt thời gian phải là tác
phẩm chứa đựng trong đó tính vấn đề, tính “việc”. Vấn đề mà nó thể hiện có
thể là vấn đề của một quốc gia, một dân tộc, một tập thể, một cộng đồng hay
cũng có thể là vấn đề của một cá nhân mang tầm vóc vĩ mô hay mang dáng

dấp của thời đại mà anh ta đang tồn tại. Sau thắng lợi lịch sử năm 1975, thay
bằng cảm hứng anh hùng ca, Nguyễn Minh Châu đi sâu vào khai thác cảm
hứng bi kịch trong đời sống thường ngày. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện
ngắn được viết bằng nguồn cảm hứng đó. Đằng sau bức ảnh đẹp về cuộc sống
và người lao động trên biển mà Phùng chụp được là cả một bức tranh đầy
nước mắt về cuộc sống của gia đình người đàn bà làng chài. Nhà văn đã đặt ra
vấn đề cách nhìn nhận và đánh giá về con người cũng như cuộc sống thời hiện
đại. Ở đó, chỉ có cái nhìn đa diện nhiều chiều và lòng đồng cảm, sẻ chia, con
người ta mới có thể phát hiện được vẻ đẹp thật sự của cuộc sống xung quanh.
Ở đó chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của người đối diện, ta mới có thể hiểu và
cảm thơng cho họ.
Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật được thể hiện bằng ngôn ngữ và
các thủ pháp nghệ thuật. Văn học là loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất
liệu để phản ánh hiện thực cuộc sống. Bởi vậy nên thể hiện cảm hứng của nhà
văn chứa đựng trong tác phẩm cũng được xem như là chức năng của ngôn


10

ngữ và các thủ pháp nghệ thuật. Ví như để thể hiện được cảm hứng triết luận
trong truyện ngắn Hậu thiên đường, để người đọc có thể hiểu được quy luật
nhân sinh từ cái nhìn hàng ngày, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử dụng những từ
ngữ đời thường, mang tính chất suy nghiệm, triết lí, có sức lay động tâm hồn
độc giả. Cùng với đó thì giọng điệu trong truyện có chút trầm buồn hệt như
một tiếng thở dài chứa đựng bao nỗi niềm trăn trở của người mẹ về tình yêu
thương và trách nhiệm của mình với con gái. Bên cạnh ngơn ngữ, giọng điệu
thì một số thủ pháp nghệ thuật khác cũng góp phần khơng nhỏ trong việc thể
hiện cảm hứng triết luận của nhà văn về cuộc sống xung quanh.
Có rất nhiều loại cảm hứng mà người nghệ sĩ có thể chọn lựa trong q
trình thai nghén và sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn học

nói riêng. Cũng có khơng ít sáng tác được viết trên nền nhiều nguồn cảm
hứng khác nhau. Song đằng sau một sáng tạo nghệ thuật đích thực ln có
một dịng cảm hứng chủ đạo, xun suốt tồn bộ tác phẩm và có mối liên hệ
chặt chẽ với các cảm hứng khác trong đó. Sự kết hợp này vừa tạo được nét
riêng cho từng đứa con tinh thần của người nghệ sĩ mà lại vừa nâng cao giá trị
của tác phẩm.
1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
1.2.1. Hướng đến phản ánh những vấn đề bình dị trong cuộc sống đời
thường
Xuất phát từ nhu cầu khám phá bản thân và cuộc sống ở cái nhìn đa diện,
nhiều chiều, thay vì những tác phẩm viết dưới sự chi phối của cảm hứng
hướng đến những vấn đề vĩ mơ như trong giai đoạn trước đó truyện ngắn sau
1975 thu mình lại trong những vùng cảm hứng ở phạm vi hẹp hơn hướng đến
những điều bình dị của cuộc sống thường nhật. Những vấn đề được khai thác
ở chiều sâu thay vì mở rộng phạm vi phản ánh.


11

Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh là câu chuyện được lấy cảm
hứng từ những người trẻ tuổi trong cuộc sống hiện nay. Với lối sống gấp gáp
và hời hợt, cách nghĩ, cách làm, cách yêu và cách quan niệm đều khác xa
hoàn toàn so với những thế hệ đi trước, cuộc sống này với họ chỉ là sự tẻ nhạt
buồn chán. Trên nền cảm hứng ấy, nhà văn đã đi vào khai thác những biến
chuyển tâm lí cũng như cách ứng xử của nhân vật Xuyên đối với các sự việc
xảy ra xung quanh cơ. Từ đó mang đến cho độc giả một cách lí giải, hợp lí
hóa những việc Xun làm, những suy nghĩ của Xun, cách ứng xử của cơ
trước các sự việc. Đó chính là tuổi trẻ. Mỗi người đọc khi đến với truyện ngắn
này đều phần nào tìm thấy bản thân mình trong đó. Bởi ai cũng có một thời
trẻ, một thời ngây dại, một thời sai… để rồi từ đó tìm ra ý nghĩa đích thực của

cuộc sống và nhận ra giá trị của chính mình.
Những va chạm đời thường giữa những con người không cùng thế hệ là
một trong những vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thời hậu chiến. Tướng về
hưu của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn được khơi nguồn sáng tạo từ đó.
Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Thuấn – một con người nhưng lại cô
đơn lạc lồi trong chính thế giới người. Trong khoảng thời gian từ lúc ông về
hưu đến khi ông qua đời, ở chính ngơi nhà của mình, sống với gia đình mình
nhưng ơng Thuấn khơng thể bắt nhịp được với cuộc sống của thời hện đại.
Những va chạm nảy sinh và kéo dài cho đến khi ơng mất. Ơng trở thành một
sinh vật lạ, lạc lõng và đơn độc giữa cuộc đời.
Trong thời khắc chuyển mình của lịch sử, xã hội phải đối mặt với nhiều
thách thức nảy sinh, văn học cũng vì thế mà có nhiều thử thách khơng nhỏ.
Làm sao để có thể ghi lại những chuyển động tinh tế của đời sống xã hội
trong thời khắc lịch sử này là một câu hỏi lớn cho sự tìm tịi, sáng tạo của các
văn nghệ sĩ. Chính vì vậy cảm hứng anh hùng ca, cảm hứng lãng mạn trong
văn học giai đoạn trước đã dần nhường chỗ cho cảm hứng đời tư - thế sự, và


12

một vài cảm hứng khác như cảm hứng phê phán hay cảm hứng triết luận...
Với quan niệm “nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa
thập loại chúng sinh” (Nguyễn Minh Châu) các văn nghệ sĩ viết truyện ngắn
lúc bấy giờ bằng nguồn cảm hứng phong phú và cái nhìn đa diện nhiều chiều
đã tái hiện một cách chân thực và sinh động những biến chuyển tinh vi của
đời sống đưa đến cái nhìn chân thực cho độc giả đương thời.
1.2.2. Hướng về sự vận động trong đời sống nội tâm của con người
Văn xuôi, nhất là truyện ngắn từ sau 1975 đã bắt đầu đi vào quá trình
“đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn chương minh họa” (Nguyễn Minh
Châu). Tuy nhiên, nó vẫn chỉ được xem là “cái đương đại chưa hoàn thành”

[2;tr.9]. Phải từ những năm 80 trở về sau, đặc biệt là sau năm 2000, nhìn vào
truyện ngắn nói riêng và văn xi nói chung người ta mới thấy được sự đổi
mới rõ rệt trên cả hai bình diện là nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện,
mang lại một diện mạo mới cho văn đàn. Lúc bấy giờ lịch sử đã bước sang
một trang mới, kéo theo đó là hàng loạt những thay đổi trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng cũng khơng
nằm ngồi dịng chảy đó. Lấy cảm hứng từ sự thay đổi của tư duy con người
mà truyện ngắn dần đi sâu vào các ngõ ngách của tâm hồn họ để khai thác
những vấn đề phức tạp trong tâm tư, tình cảm của họ trước sự xoay vần của
cuộc sống. Trong bài Đổi mới văn học vì sự phát triển, Vũ Tuấn Anh khẳng
định: “Đối tượng nghiên cứu và khám phá của văn học không chỉ là xã hội mà
còn là con người với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó”. Văn học lúc này đây
“chuyển từ tính thống nhất, một khuynh hướng cảm hứng sang tính nhiều
khuynh hướng” [2;tr.7] trở về với đúng bản chất của nó, là tiếng nói đại diện
cho bản ngã con người.
Nếu như văn chương giai đoạn 1945 – 1975 khai thác con người dưới
góc nhìn của chủ nghĩa anh hùng, tập thể; Số phận và đời tư của họ đều gắn


13

liền với vận mệnh của đất nước; Tình yêu của họ cũng hướng tới lí tưởng của
cả một cộng đồng dân tộc như Nguyệt và Lãm thì khi đến với con người
trong văn học sau 1975 ta sẽ thấy họ được soi chiếu dưới góc nhìn của giới
tính, số phận, của quyền lợi vật chất, tinh thần, quyền bình đẳng và sự tự do
cho mỗi cá nhân. Họ có những trăn trở không hẳn là nỗi lo cơm áo, gạo tiền
như những con người trước Cách mạng, cũng không phải là những nỗi lo về
sự tồn vong của quốc gia, dân tộc như trong hai cuộc kháng chiến chống Thực
dân Pháp và Đế quốc Mĩ… Họ trăn trở vì bản thân, vì khát vọng sống là chính
mình, khát vọng khẳng định cái tôi bản ngã. Văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn

Việt Nam từ sau năm 2000 đã đi sâu phản ánh được sự biến chuyển trong ý
thức hệ của con người thời đại mới. Họ bắt đầu sống là chính họ với những
nỗi lo, những khát khao, những mong muốn rất Đời và rất Người.
Người ta thấy hình ảnh lão Khúng với khn mặt hằn bao vết tích của
thời gian đang cùng con khoang đen dắt díu nhau, lê những bước chân chậm
rãi ra chợ trong Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Lão đi bán con bò,
bán người bạn đời của lão. Câu chuyện tưởng chừng như chỉ có vậy thơi
nhưng đã để lại trong lịng độc giả bao đắn đo, suy nghĩ. Phải chăng đó chỉ là
câu chuyện về một số phận đã an bài của một con bò? Những tâm tư, suy nghĩ
của lão Khúng trên đường dắt con bò ra chợ liệu chỉ dành cho một thứ vật
nuôi trong nhà? Và kết thúc của truyện khi con bị quay về lại với gia đình lão
Khúng liệu đã phải là một kết thúc có hậu?... Truyện đã mở ra cho người đọc
những cái nhìn mới mẻ về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hiện đại. Đó
cũng chính là nguồn sáng để Nguyễn Minh Châu dệt nên những dòng suy
nghĩ miên man chảy tràn trong tâm hồn lão Khúng.
Trong Người của mỗi người, Dạ Ngân viết về nỗi niềm của người mẹ
tuổi đã xế chiều trước sự khước từ trách nhiệm của những đứa con. Người mẹ
đã tảo tần một đời để nuôi dạy những đứa con khôn lớn và trưởng thành, cho


14

đến lúc chết vẫn một lịng hi sinh vì các con. Bà đã đắn đo, cân nhắc để chọn
lựa cho mình một cái chết mà khơng làm liên lụy đến những đứa con. Những
đấu tranh trong suy nghĩ của người mẹ đã được Dạ Ngân ghi lại một cách
chân thực và tỉ mỉ, gợi lên cho người đọc những suy tư, trăn trở về giá trị của
cuộc sống đương thời, về tình mẫu tử và về cách hành xử của con cái đối với
các bậc sinh thành.
Những diễn biến tâm lý của Nương trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn
Ngọc Tư chỉ là con đường độc mộc trước sự trêu ngươi của số phận nghiệt

ngã. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư trong cả q trình sống dường như chỉ có
một mình. Một mình lớn lên. Một mình khóc. Một mình chịu đựng. Một mình
đau khổ. Và rồi kết thúc truyện là hình ảnh Nương với sự mường tượng về
một hình hài nhỏ bé đang lớn dần trong mình cơ. Những suy nghĩ về một
ngày mai xa xăm trong Nương hệt như hình ảnh cánh đồng bất tận cứ nối dài,
nối dài miên man vô tận. Những trang văn mộc mạc, chân chất ấy được khơi
nguồn từ chính cuộc sống, con người và đặc biệt là nền văn hóa sơng nước
của những người dân miền Tây Nam Bộ.
Bên cạnh những sáng tác của Nguyễn Minh Châu (Chiếc thuyền ngồi
xa) thì Dạ Ngân (Nhìn từ phía khác), Y Ban (I am đàn bà), Võ Thị Hảo (Dây
neo trần gian), Tạ Duy Anh (Bước qua lời nguyền), Phạm Thị Hoài (Năm
ngày), Nguyễn Thị Thu Huệ (Thành phố đi vắng), Phan Thị Vàng Anh (Hoa
muộn), Đỗ Hồng Diệu (Bóng đè) … là những gương mặt tiêu biểu, góp phần
khơng nhỏ vào sự trở mình ngoại mục của văn xuôi giai đoạn này.
Hiện thực ngổn ngang về đời sống nội tâm của con người sau bao nhiêu
năm phải giấu đi vì chiến tranh giờ đã lại có thể rực cháy trong tâm hồn của
người nghệ sĩ. Có cái lúng túng, cái vụng về trong thể hiện những cảm xúc
suy nghĩ từ tận sâu đáy lòng của các nhân vật. Song đó mới chính là những gì
vốn có, là những thứ thuộc về bản chất của cuộc sống con người. Từ con


15

người của đám đông, của cộng đồng tập thể đến với con người sống với
những nỗi niềm của bản thân, vui theo cách mình vui và buồn theo cách của
mình, là cả một quá trình vận động trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, gắn
liền với cảm hứng sáng tạo của họ được ghi dấu trong từng tác phẩm.
1.3. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trong dòng cảm hứng sáng tác
truyện ngắn đương đại
Sương Nguyệt Minh từng nói: “Nhà văn là người sáng tạo khơng ngừng

như dịng sơng chảy liên tục chở nặng phù sa tươi tốt bồi đắp cho bờ bãi,
ruộng đồng. Dịng sơng khơng chảy là sơng lấp, sông chết. Nhà văn ngừng
sáng tạo là nhà văn rơi vào lãng qn trong lịng bạn đọc. Tự mình thỏa mãn,
nhấm nháp quả ngọt của quá khứ cũng tệ hại như viết mà lặp lại mình. Nó là
sự trì trệ, ì ra, đứng lại, không phát sinh, phát triển. Đổi mới sáng tác trước hết
là khác với cái mình đã viết, cịn vượt qua những tác phẩm cũ của mình thì lại
càng khó khăn, nhọc nhằn hơn. Nó là cuộc nhà văn thi đấu ma ra tơng khắc
nghiệt với chính mình. Nhà văn ln phải khác biệt mới khơng lẫn vào đám
đơng làng văn” [30]. Trong dịng cảm hứng đời tư – thế sự, kế thừa và phát
huy thành công của những nhà văn đi trước, truyện ngắn của ông tiếp tục đi
sâu vào khai thác những ngõ ngách của cuộc sống đời thường, nói về những
thay đổi của con người thời hậu chiến trước sự thay da đổi thịt hàng ngày của
đất nước.
Từng là người cầm súng, Sương Nguyệt Minh thấu hiểu những đau
thương mất mát mà cuộc chiến tàn khốc đã để lại cho quân và dân ta. Trong
những tác phẩm viết về chiến tranh và hậu quả mà nó để lại, tác giả tập trung
phản ánh những bi kịch mà những người ở chốn hậu phương phải gánh chịu.
Đó là hình ảnh người vợ mịn mỏi chờ chồng, cha mẹ chết mịn vì mong con
(Đêm làng Trọng Nhân), là tình u mới chớm nở chưa kịp nói đã phải chia
xa (Quãng đời xưa in dấu), là phút giây vội vàng trao gửi một lần để mãi
không gặp lại trong thương nhớ, day dứt (Ngày xưa nơi đây là cửa rừng), là
hình ảnh những đứa con sinh ra khơng đủ hình hài (Mười ba bến nước)…


16

Những mất mát, đau thương đó mới chính là gương mặt thật đáng sợ của
chiến tranh. Được viết trong sự đan xen của cảm hứng ngợi ca và cảm hứng bi
kịch, những truyện ngắn ấy của Sương Nguyệt Minh đã thật sự cho người đọc
cái nhìn mới hơn, khác hơn, nhân bản hơn và thật hơn về đề tài chiến tranh

đưa đến cho họ sự nhận thức đúng đắn về cuộc chiến tranh lịch sử của dân
tộc.
Những tập truyện như Đêm làng Trọng Nhân, Người ở bến sông Châu,
Đi qua đồng chiều, Mười ba bến nước, Chợ tình là tập hơp của những truyện
ngắn được khơi dòng cảm xúc từ “không gian làng quê với những con người
mộc mạc, nghĩa tình mà bộn bề những bi kịch trước sự tấn cơng của cơ chế
thị trường với tấm lịng lo âu của một người con nặng tình với quê hương”
[36]. Đọc từng trang truyện ngắn của ơng, chúng ta có dịp được cùng trải
nghiệm với những điều bình dị nhất trong cuộc sống đời thường. Đó có thể là
ánh hồng hơn lúc chiều muộn (Hồng hơn màu cỏ biếc), là ánh trăng quê
lung linh mờ tỏ (Sao băng lúc mờ tối), là giếng làng nơi bén duyên cho những
chàng trai cô gái mới lớn (Đi qua đồng chiều), cây đa (Đêm làng Trọng
Nhân), bến nước (Mười ba bến nước)… Chính những hình ảnh đó, đi vào
trong truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đã trở thành những biểu tượng văn
hóa đặc trưng của vùng quê nông thôn.
Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh thường để lại ấn tượng sâu sắc về số
phận của các nhân vật trước cuộc đời. Họ là những người lính bước ra từ
chiến tranh mang theo những “di họa” mà chiến tranh để lại (Đêm làng Trọng
Nhân, Hòn đá cháy màu lửa); cũng có khi họ là những người trẻ với những
rung động, xúc cảm đầu đời (Đi qua đồng chiều, Một trị đời); họ là những
tâm hồn cơ đơn trước sự hối hả của cuộc sống thời đại (Vùng trời của họ,
Nanh sấu); hoặc cũng có thể là thân phận nhỏ bé của người phụ nữ (Mười ba
bến nước, Đàn bà); và đơi khi họ cịn là những người bị phụ bạc trong tình
yêu (Tha phương, Giếng cạn)… Mỗi người một số phận, mỗi người một cuộc


17

đời nhưng họ đều thể hiện sự ưu tư, trăn trở của nhà văn trước sự xô bồ, gấp
gáp của cuộc sống.

Đặt truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trong sự đối sánh với những
tác phẩm ở cùng thời kì, dưới góc nhìn của cảm hứng sáng tác, chúng ta thấy
được cả một sự cố gắng lớn lao của người cầm bút. Những tác phẩm của ông
dù là được viết dưới sự soi chiếu của nguồn cảm hứng nào, cũng đều gây
được cho độc giả sự tị mị, thích thú. Và cũng chính những sáng tác này đã
khơng ít lần tạo ra những luồng dư luận trái chiều, tốn nhiều giấy mực của
giới nghiên cứu, phê bình lẫn báo chí. Song đúng như nhà văn Nguyễn Khắc
Trường – Chủ tịch Hội đồng văn xuôi – Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét,
“Anh có nói rằng cứ viết là hay bị nhắc nhở thực ra đó chính là một người đã
có ý thức về nghề, khi viết đã đặt ra vấn đề. Nếu khơng đặt ra vấn đề gì thì
câu chuyện sẽ rất nhàm cho nên tác giả đã có ý thức đặt ra vấn đề. Mà đã có
vấn đề thì nó hay bị gay cấn, nó hay đụng chạm đến đời sống của người này,
người kia cho nên mới bị kiện cáo, phản ứng là vì thế. Mà tơi thấy đó là một
điều đáng mừng. Nếu mà viết khơng có điều gì để người ta phải băn khoăn,
nó cứ trơi tuột đi thì đọc xong người ta cũng khơng nhớ điều gì. Điều ấy chính
là một điều hạnh phúc” [26]. Những nguồn cảm hứng trong sáng tác của
Sương Nguyệt Minh không mới, song đến với truyện ngắn của ông, đặc biệt
là Chợ tình thì chúng được bộc lộ rõ hơn, đặt ra được nhiều vấn đề mà xã hội
đang quan tâm hơn và đặc biệt gần gũi với độc giả hơn.


18

Chương 2
NHỮNG BIỂU HIỆN CẢM HỨNG SÁNG TÁC QUA
TẬP TRUYỆN NGẮN CHỢ TÌNH
2.1. Về thiên nhiên
2.1.1. Thiên nhiên thơ mộng, đậm sắc màu
Thiên nhiên từ bao đời nay đã trở thành nguồn cảm hứng vơ tận cho văn
chương nói riêng và cho tất cả các loại hình nghệ thuật nói chung. Nó đã trở

thành một mảng đề tài làm nên sắc mặt đa diện của văn học từ xa xưa. Không
chỉ trong thơ, trong văn xuôi mà đặc biệt là trong truyện ngắn hiện đại, khi
yêu cầu chú trọng đến mơ tả đời sống nội tâm của con người thì hình ảnh
thiên nhiên thơ mộng, đầy màu sắc là một phần không thể thiếu nhằm làm nền
cho sự xuất hiện của hình ảnh con người. Với Sương Nguyệt Minh, trong Chợ
tình thiên nhiên khơng chỉ đất diễn cho nhân vật, nó cịn là nguồn cảm hứng
để nhà văn viết nên những truyện ngắn làm nên tên tuổi của ơng. Chính vì
vậy, mà có người gọi Sương Nguyệt Minh là “nhà văn của cảnh sắc đồng quê
lung linh” [26].
Trăng luôn được xem là biểu tượng của cái đẹp và là nguồn cảm hứng
cho rất nhiều nghệ sĩ. Người ta có thể thưởng trăng và lấy nó làm cảm hứng
cho một khúc nhạc, một bức họa, một bài thơ hay một cuốn tiểu thuyết…
Trăng trong truyện của Sương Nguyệt Minh cũng đẹp, đặc biệt là hình ảnh
trăng quê, trăng rừng đã tạo nên một không gian vừa yên tĩnh, vừa trong lành
lại thơ mộng, lung linh: “Đường làng lênh loáng ánh trăng, màu vàng bát ngát
trùm lên xóm mạc… Mặt giếng trịn vành vạnh, trăng nhởn nhơ soi mình dưới
nước. Xung quanh rơm rạ cuối vụ gặt còn phơi đầy, vương cả vào thềm
giếng” [17;tr.13]. Trăng không chỉ soi sáng cảnh vật lúc về đêm mà còn rọi
sáng cả những con người nhỏ bé dưới vòm trời kia.


19

Trong Quãng đời xưa in dấu, trăng đã bầu bạn cùng những con người
mang trên mình sứ mệnh của cả dân tộc. Sau những thời khắc sinh tử cùng
mưa bom, bão đạn, màn đêm biên giới cũng trở nên đẹp và thơ mộng biết bao
dưới cái nhìn của cơ sinh viên trường Cao đẳng Mĩ thuật: “Đêm ấy, trời biên
giới Tây Ninh đầy trăng sao… Dịng sơng mênh mang đầy ánh bạc… Trăng
sáng rờ rỡ cịn sao thì chi chít nhập nháy hồi… Trăng đổ ánh bạc xuống sơng
và sao cũng thi nhau ngụp lặn dưới dòng nước mênh mang này…”

[17;tr.102], “Đêm vắng. Khe vắng. Và trăng thanh… mùi hương hoa dại, mùi
cỏ nước thơm thoang thoảng dưới trăng ngàn…” [17;tr.54]. Trăng đẹp và viên
mãn hòa điệu cùng nhịp chảy của những con nước trên sông, trên suối hệt như
sự trong sáng trong tâm hồn của cô gái trẻ.
Bên cạnh trăng, ánh hồng hơn trong văn Sương Nguyệt Minh cũng
mang vẻ đẹp thơ mộng đến lạ lùng, không sao tả xiết khi “Mặt trời tà tà xuống
dần… Làng mạc ở hai bên bờ. Núi non cũng ở hai bên bờ… mặt trời như cái
mâm thau đỏ ối neo trên mặt nước. Đúng là sông chạy đến tận đường chân
trời. Mặt nước lóng lánh bởi sóng đuổi nhau từ một con thuyền nhỏ tí xíu xa
tít tắp… ráng đỏ trùm lên tất cả…” [17;tr.240]. Hình ảnh thung cỏ lúc hồng
hơn “mênh mông cỏ là cỏ, rờn rợn đến chân trời. Cỏ xanh mát mắt. Tầm nhìn
rộng ra, dài hơn, vịm trời cao lên. Trâu đàn xếp thành hàng dài, nhẩn nha
bước theo lối mịn trên đồng cỏ. Con nọ nối đi con kia, che lấp cả một đoạn
đường chân trời” [17;tr.249]. Trong khung cảnh hồnh hơn tuyệt đẹp đó, Văn
Ngọ - một nhà thơ, nhà họa sĩ với “cái đầu già nua và ý nghĩ cằn cỗi”, “với tư
duy công thức”, “hết thời run rẩy” đã cùng với Sẻ Núi “dán mắt nhìn về phía
chân trời” để nhìn cảnh “thung cỏ đang đón mặt trời vào lịng đất” để cảm
nhận vẻ đẹp của thời khắc hồng hơn mà thế giới tự nhiên mang lại.
Thiên nhiên trong bức tranh làng quê mang đến cảm hứng sáng tạo cho
Sương Nguyệt Minh không chỉ là những khung cảnh hết sức thơ mộng mà


20

cịn mang đầy màu sắc. Nó có thể là màu của những bơng lúa chín “đồng
chiều trơ gốc rạ” nhưng vẫn có “vài đám ruộng nhà ai đó chưa gặt. Lúa trĩu
bơng vàng xuộm…”[17;tr.5]. Có thể là màu sắc của những bộ cánh côn trùng
“Muồm muỗm, cào cào, châu chấu nhiều vơ kể, đậu xúm xít hai bên bờ cỏ, có
con xịe áo khốc xanh, áo cánh đỏ làm dáng…” [17;tr.5]. Là màu của vùng
đất cao nguyên đầy nắng gió, màu của bầu trời “Đường mòn chạy trên đất

vàng sẫm lẫn sỏi, chạy trên ghềnh đá, chập chùng ghềnh đá. Đứng ở đỉnh đèo
nhìn lên chỉ thấy trời xanh” [17;tr.49]… Tất cả đều là những sắc màu quen
thuộc, gần gũi với người lao động. Qua cái nhìn của Sương Nguyệt Minh,
chúng đi vào trong tác phẩm chỉ bằng vài nét chấm phá xanh, đỏ nhưng đã để
lại những ấn tượng đậm nét trong lịng người đọc về hình ảnh thơn quê mộc
mạc.
Đến với Chợ tình bên cạnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, đầy màu sắc,
độc giả không thể bỏ những bản nhạc du dương của đồng quê được diệt nên
từ những sinh vật nhỏ bé mà rất đỗi thân thuộc với người dân như “Tiếng dế
nỉ non và tiếng chẫu chuộc nhảy tõm xuống nước” [17;tr.5]; “Tiếng vịt kêu:
Cạc… Cạc… Cạc… Rồi tiếng trâu rống: Ọ…ọ…ọ” [17;tr.7]. Chốc chốc lại
có tiếng động xào… xào [17;tr243]; “chim rừng đi ăn về muộn đang thảng
thốt kêu” [21;tr.60]; “thỉnh thoảng tiếng vịt trời kiếm ăn về muộn lại kêu, thả
từng tiếng một vào thinh không, nghe gai cả người” [17;tr.67]; “Làng xao xác
tiếng gà gáy. Tiếng lộc cộc đập móng trâu địi ra khỏi chuồng lẫn tiếng người
đi chợ sớm nói khao khao trong sương đục” [17;tr.77]; “Tiếng cá đớp trăng
quẫy dưới sơng. Tiếng dế mèn, dế trũi nỉ non. Tiếng gió rải đồng cỏ, đồng lúa
rì rào. Lúc gần rồi lại lúc xa…” [17;tr.294]; “Sóng lăn tăn đuổi nhau. Lá trang
lá súng chao nhẹ dập dờn. Cuống hoa súng nhô cao lên mặt nước, cánh hoa
trắng ngà bật tung. Hương thoảng dìu dịu lẫn mùi cỏ rược nồng nồng. Một
con thuyền nhỏ đang lách trong lá trang, lá súng…” [17;tr.244]. Những âm


×