Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.21 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>- MB1: c xõy dng theo một cốt truyện dân gian, "Chuyện ngời con gái Nam Xơng"</b>
của Nguyễn Dữ có thể coi là một tác phẩm hay nhất trong cuốn "Truyền kỳ mạn lục".
Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Thị Thiết (Vũ Nơng) - một ngời con gái quê ở Nam
Xơng đẹp ngời đẹp nết. Khơng chỉ có vậy, khi nhắc đến nhân vật này ngời đọc không
thể quên đợc nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì ngời chồng đa nghi thô bạo.
<b>- MB2:</b> Trong văn học Việt Nam đã có khơng ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc
có tính chất truyền kỳ song đợc tơn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có
một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ . Chuyện ng“ <i>ời con gái Nam Xơng” đợc rút</i>
trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó . Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ N ơng đã để
lại trong lịng ngời đọc niềm cảm thơng sâu sắc.
<b>- MB1</b>: <i>“ Dẫu súng đạn nặng đường ra hỏa tuyến</i>
<i>Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo”</i>
(Chế Lan Viên)
Trải qua mấy trăm năm với bao thử thách giông tố của thời gian <i>Truyện Kiều</i> của
Nguyễn Du vẫn giữ vị trí hàng đầu trong nền văn học dân tộc. Một trong những
nguyên nhân làm cho <i>Truyện Kiều</i> có sức sống lâu bền trong lịng bạn đọc là vì nhiều
nhân vật của Nguyễn Du đã trở thành bất tử, người đọc nhớ nhân vật hơn cả cốt truyện.
Đó chính là do nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích ……… sẽ
giúp ta hiểu rõ điều đó.
<b>- MB2:</b> Có một nhà thơ mà người Việt Nam khơng ai là ko yêu mến, có một truyên thơ
mà hơn 200 năm qua khơng mấy người Việt Nam khơng thuộc lịng nhiều đoạn hay vài
câu. Người ấy, thơ ấy đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, đúng như Tố
Hữu đã ngợi ca:
<i>“ Tiếng thơ ai động đất trời</i>
<i>Nghe như non nước vọng lời nghìn thu</i>
<i>Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du</i>
<i>Tiếng thương như tiếng mẹ ru mỗi ngày”</i>
<b>-MB3: </b>Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, khơng chỉ nhân dân lao động mà tất cả các
nhà văn, nhà nghiên cứu đều thốt nhất tên gọi: “Đại thi hào dân tộc”. Với “con mắt
trông thấu sáu cõi và tấm lịng nghĩ tới mn đời” (Mộng Liên Đờng), Nguyễn Du nổi
tiếng trớc hết bởi cái tâm của một ngời luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho
những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là ngời phụ nữ trong xã hội cũ.
Những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lịng đọc nh vậy cịn bởi
trong Truyện Kiều ơng đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miờu t nhõn vt. on
trớch.
không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu
<i>Ngng Bích là sự kết hợp giao hòa của hai yếu tố này.</i>
<b>- MB5: </b>Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn
học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc, đặc biệt là Truyện Kiều. Đó là một trong số
những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, cũng nh Văn học thế giới. Truyện
<i>Kiều không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn đặc sắc về mặt nghệ thuật. Đáng</i>
chú ý là bút pháp tả cảnh ngụ tình đợc thể hiện khá rõ qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngng
Bích, tiêu biểu nhất là tám câu thơ cuối.
<b>- MB6:</b> Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con ngời chỉ xuất hiện một
lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhng những gì là
thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn cịn mãi mãi với thời gian. <i>Truyện Kiều</i>của
Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật nh thế, đặc biệt là đoạn trích …..
- <b>MB 7:</b> Trong vơ số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết
thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót trân trọng và tập trung viết về họ đó là ngời phụ
nữ. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này nổi bật nhất phải kể đến truyện Kiều
của Nguyễn Du ở cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Nhân vật Thuý Kiều là điển hình cho
những ngời phụ nữ tài sắc vẹn tồn, đức hạnh thanh cao nhng lại bị cuộc đời vùi dập,
xô đẩy vào những đau thơng bất hạnh. Ta sẽ thấy rõ điều đó qua các đoạn trích: “<i>Chị</i>
<i>em Th Kiều , Mã giám Sinh mua Kiều , Kiều ở lầu Ng</i>” “ ” “ <i>ng Bích .</i>”
Nói đến Nguyễn Đình Chiểu khơng những là nói đến một nhà thơ yêu nước tiêu
biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ơng
cịn được nhân dân biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết
hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới
mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn. Lục Vân Tiên - nhân vật
chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu hiện rõ nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc
biệt là đoạn trích <i>“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”</i> đã để lại trong lịng người đọc
một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sỹ đánh cp cu ngi.
<i>“Truyện Lục Vân Tiên”</i> được coi là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ. Tác phẩm
có vị trí cao trong nền văn học Nam Bộ nói riêng và trpng nền văn học dân tộc nói
chung. Đoạn trích <i>“Lục Vân Tiên gặp nạn”</i> đã cho ta thấy cuộc đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác. Đối lập với những việc làm, toan tính thấp hèn của Trịnh Hâm là nhân
<b>-MB2:</b> Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là
hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lịng người và văn
chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời
sớm nhất, tiêu biểu và thành cơng nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là
<i>“Đồng chí”</i> của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính
sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ <i>“Đồng chí</i>”, Chính Hữu đã diễn tả
thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
<b>- MB3:</b> Nói đến Chính Hữu khơng thể khơng nói đến bài thơ “<i>Đồng chí .</i>” Bài thơ nh
một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài ngời lính của
ơng…..
<b>- MB4:</b> Bài thơ <i>“Đồng chí”</i> ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của
quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm
1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội
thuộc trung đồn Thủ đơ, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch.
Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trãi nghiệm
thực va những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài
thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách
mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nơng dân. Đồng thời bài thơ cũng thể hện lên hình
ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp cịn rất khó khăn thiếu thốn.
<b>- MB5</b>: Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng có cảm xúc,
thơ sẽ khơng thể có sức lay động hồn người, khơng có sự chân thành chút hồn của thơ
cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang
mà Chính Hữu đã gieo vào lịng người những cảm xúc khó qn. Bài thơ <i>"Đồng chí"</i> với
nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở
thành những vần thơ của niềm tin u, sự hy vọng, lịng cảm thơng sâu sắc của một
nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa
dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
<b>- MB6</b>: Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua hơn 50 năm nhưng vẫn để lại những dấu
ấn ko thể mờ phai về những năm tháng hào hùng của dân tộc. trong những năm tháng
ấy đã nảy sinh biết bao h/ả đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính và tình cảm đồng
chí đồng đội của họ. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Nhớ (Hồng
Nguyên), Tây tiến (Quang Dũng) thì <i>Đồng chí</i> của Chính Hữu cũng là một thi phẩm
đặcsắc.
<i>- </i><b>MB2:</b> Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trờng Sơn, tác giả cảm
thơng và hiểu rõ tâm tình ngời lính, nhất là ngời chiến sĩ vận tải dọc Trờng Sơn chở vũ
khí, quân trang từ hậu phơng lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái
<i>"Xẻ dọc trờng sơn đi cứu nớc / Mà lòng phơi phới dậy tơng lai" Phạm Tiến Duật mang</i>
niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trờng. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu
thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tơi vui mà giàu suy
t-ởng. Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của
hồn thơ ấy.
- <b>MB3</b>: Phạm Tiến Duật là một trong những gơng mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam
thời chống Mĩ cứu nớc. Ông đợc gọi là "Viên ngọc Trờng Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã
<b>- MB4:</b> Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nớc của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất
diệt. Trong những tháng năm sục sơi khí thế “Xẻ dọc Trờng Sơn đi cứu nớc ”ấy nhân
dân Miền Bắc đã không tiếc sức ngời,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong
những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Anh đ
-ợc tôi luyện và trởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ. Thơ anh
không cuốn hút ngời đọc bằng ngôn từ mợt mà, âm điệu du dơng mà nó khiến ngời đọc
say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng<i>. Bài</i>“
<i>thơ về tiểu đơi xe khơng kính” là một thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ đó.</i>
<b>- MB5</b><i>: Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường</i>
Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ. Tiếng thơ
Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “ Trường Sơn đông - Trường
Sơn tây, lửa đèn, gửi em cơ thanh niên xung phong, nhớ....”đã góp phần trẻ hoá thơ
Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ <i>“bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”</i> được rút ra trong
tập thơ “Vầng trăng - quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một
hình tượng độc đáo những “chiếc xe khơng kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường
ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt.
<b>- MB1</b>: “Chàng Huy Cận khi xa hay sầu lắm/Nỗi nhớ thơng không biết đã tan cha?”
(Mai sau). Trớc cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thờng u sầu ảo não. Nhng từ khi
cách mạng tháng Tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ơng một luồng sinh khí mới,
<i>Đoàn thuyền đánh cá</i>
“ ” là một tác phẩm mang cảm xúc nh thế. Nó đã ghi lại hành
trình đẹp đẽ của đồn thuyền: ra khơi lúc hồng hơn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc
bình minh. Nhng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi
đ-ợc thể hiện rõ trong khổ thơ đầu.
<b>-</b> <b>MB3:</b> Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau
cách mạng ơng nhanh chóng hồ nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trờng kì
của dân tộc. Hồ bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống
đang lên. Bài thơ “<i>Đoàn thuyền đánh cá</i>” đợc sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một
chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những
con ngời lao động mới.
<b>- MB4</b>: Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng, thơ
Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên vũ trụ là nguồn
cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng. Một trong
những bài thơ được nhiều người u thích nhất là bài <i>“Đồn thuyền đánh cá”</i> được
viết năm 1958 tại vùng biển Quảng Ninh. Với bút pháp lãng mạn kết hợp hiện thực và
nhiều hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, bài thơ đã ca ngợi thiên nhiên vũ trụ và con người lao
động trong cuộc sống mới ở miền Bắc thời kỳ xây dụng chủ nghĩa xã hội.
<b>- MB5</b>: Trớc đây nửa thế kỷ, khi mới cầm bút Huy Cận trình làng bài “Tràng giang” với
khổ thơ đầu đặc sắc:
<i> Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>
<i> Con thun xu«i m¸i níc song song</i>
Gia cái mênh mông, rộng dài của sông nớc, con thuyền và cành củi khô biểu tợng cho
kiếp sống của con ngời trôi xuôi, bơ vơ vô định. Trớc cái bơ vơ vơ định ấy, thi sĩ đã
bâng khng thơng mình, thơng ngời, muốn chia sẻ tấm lòng “sầu trăm ngả” tới bạn
đọc. Từ ấy trở đi, hình tợng trong thơ “ con ngời” và “vũ trụ” trở thành một nét riêng
trong thi pháp thơ Huy Cận. Đến năm 1958, nét riêng ấy lại đợc thể hiện rõ ràng trong
bài “<i>Đoàn thuyền đánh cá .</i>” Bài thơ ra đời năm 1958 trong mạch nguồn cảm xúc biết
bao yêu thơng về một cuộc sống “ mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bức tranh đẹp đẽ,
vừa là một khúc ca hào hứng, phấn khởi, say mê với công việc của mình. Đó là những
con ngời làm chủ cuộc sống mới.
<b>- MB1:</b> Đọc “<i>Bếp lửa</i>” của Bằng Việt tôi đã mờng tợng ra một chàng trai trẻ trong cái
giá lạnh của mùa đông Ki-ép ở đất nớc U-crai-na xa xôi đơng cặm cụi sởi ấm những
nguồn thơng qua từng chữ, từng câu mà đợc thắp lên ngọn lửa đợm đà của một thời thơ
ấu đẹp đẽ sống bên ngời bà yêu dấu...Đến nay đã hơn bốn thập kỉ kể từ khi bài thơ ra
đời, ta thực khó rõ đã có bao nhiêu trái tim rung cảm mỗi khi đến với “Bếp lửa”. Chỉ
biết đằng sau mạch cảm xúc dạt dào của hoài niệm kia sẽ là gì nếu khơng phải một tình
lan tỏa với cái nóng, cái nồng đợm của “Bếp lửa quê nhà”, với sự ấm áp, ấp iu của
“ngọn lửa tình ngời”.
<b>- MB2:</b> Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng tra, chỉ là một bếp lửa chờn
vờn trong sơng sớm,…mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì
ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều
thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm thiết tha chân thành, không thể nào quên.
<i><b>Tiếng gà tra đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời thơ ấu sống trong</b></i>
tình yêu thơng của bà. Còn với Bằng Việt, Bếp lửa lại trở thành một hình ảnh biểu trng
nhớ về những buổi trốn học đuổi bớm. Rồi “kẻ nhớ canh rau muống”, “ ngời nhớ cà
đầm tơng”. Những cái bình thờng quen thuộc tởng chừng nh chẳng có gì đáng nhớ
nh-ng khi xa rồi mới khônh-ng thể nào quên. Bằnh-ng Việt tronh-ng nhữnh-ng năm thánh-ng du học ở Liên
xô nhớ da diết về hình ảnh bếp lửa với ngời bà thân thơng. Một ngời bà giàu tình ân
nghĩa.
<i> Ta ®i trän kiÕp con ng</i>“ <i>êi</i>
<i> Cũng không đi hết mấy lời mÑ ru”</i>
Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lợng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trởng thành
nên ngời. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhng có sự sáng tạo rất mới với
<i><b>Khúc hát ru những em bé lớn trên lng m.</b></i>
<b>- MB1</b>: Nguyn Duy thuc thế hệ nhà thơ trởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nớc. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ nh : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ
rơm”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài
hoa, đậm chất suy t. “ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy
đợc nhiều ngời a thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ .
<b>- MB2: </b>Cuộc kháng chiến đã qua đi, ngời lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc
sống hàng ngày. Tởng nh sự bận rộn hôm nay sẽ khiến ngời ta quên lãng quá khứ.
<b>-</b> <b>MB3:</b> Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ, thành ngời bạn tri âm tri kỉ
của biết bao tâm hồn thi sĩ .Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì trịn khuyết lạ lùng,
trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều thi tứ .Trong miền thơ mênh mang ấy, “ánh
<i>trăng” của Nguyễn Duy nh một lời tâm sự chân thành ,đã neo lại trong tâm hồn ngời</i>
đọc những tâm trạng riêng,những suy ngẫm riêng giàu trăn trở .
<b>- MB4:</b> Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận
cho các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng
trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu
cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một ánh trăng.Và đối
diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vơ tình trước thiên nhiên, vơ tình
với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ <i>“Ánh trăng”</i> giản dị như
một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
<b>- MB1: </b><i>Quê hơng là gì hả mẹ</i>
<i> Mà cô giáo dạy phải yêu?</i>
<i>Quê hơng là gì hả mẹ</i>
<i> Ai đi xa cũng nhớ nhiều?</i>
(Đỗ Trung Quân)
Trong trái tim mỗi con ngời luôn có một khoảng dành riêng cho q hơng, tình cảm
ấy dạt dào cháy bỏng và có sức sống mãnh liệt, bền bỉ. Đặc biệt trong hồn cảnh khó
khăn, nguy hiểm, tình cảm ấy càng tỏa sáng rạng ngời. Với ngịi bút sắc sảo chân thực
cùng tâm hồn đồng cảm sâu sắc, nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại đã khắc họa thành
cơng hình ảnh con ngời Việt Nam có tình u làng q tha thiết. Nhng có lẽ thành cơng
hơn cả là nhà văn Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng -một lão nông
nghèo luôn nặng lịng với q hơng, tình q ấy gắn bó hịa nhập trong tình yêu đất
n-ớc.
<b>- MB2: </b>Kim Lân là nhà văn có vốn sống vơ cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn
Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của ngời nông
dân . Văn bản “<i>Làng</i>” đợc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp với nhân vật chính là ơng Hai - một lão nơng hiền lành, u làng, u nớc và
gắn bó với khỏng chin .
<b>- MB1: </b>Nguyễn Thành Long là một cây bút chun về truyện ngắn. Ơng đã rất thành
cơng ở các tác phẩm khai thác đề tài về những con ngời lao động mới trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn
<i>"Lặng lẽ Sa Pa". Tác phẩm không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng</i>
mà còn là lời ca ngợi những con ngời đang ngày đêm miệt mài lao động cống hiến cho
Tổ quốc.
<b>- MB2</b>: “<i>Trong cái im lặng của Sa Pa, dới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà</i>
<i>chỉ nghe tên, ngời ta chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con ngời làm việc và lo</i>
<i>nghĩ nh vậy cho đất nớc .</i>” “Có những ngời làm việc và lo nghĩ cho đất nớc”, đó là
những con ngời lao động thầm lặng, hi sinh hạnh phúc cá nhân, tìm hạnh phúc trong
lao động. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “<i>Lặng lẽ Sa Pa</i>” (Nguyễn Thành
Long) là một bức chân dung kí hoạ đẹp đẽ về con ngời này.
<b>- MB3</b>: Nguyễn Thành Long là một cây bút có tên tuổi về truyện ngắn đ ợc nhiều bạn
đọc a thích. Các tác phẩm của ông thờng phản ánh các cuộc sống sôi động đang diễn ra
hàng ngày, hàng giờ trên đất nớc. Truyện ngắn “<i>Lặng lẽ Sa Pa</i>” là truyện ngắn nh vậy.
Truyện đã khắc hoạ đợc chân dung của ngời lao động mới, đó là anh thanh niên với
những phẩm chất đáng q: cởi mở, hiếu khách, yêu công việc, khiêm tốn và có phong
cách thật đẹp.
<b>- MB4</b>: Gấp lại truyện ngắn “<i>Lặng lẽ Sa pa</i>” của Nguyễn Thành Long, lòng ta cứ xao
xuyến vấn vơng trớc vẻ đẹp của những con ngời, trớc những tình cảm chân thành, nồng
hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Dù đợc miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của
<i>LỈng lÏ Sa pa</i>
“ ” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục. Trong đó anh thanh
niên làm cơng tác khí tợng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tợng khó
phai mờ .
<b>- MB5</b>: Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong
nhiều ý vị sâu sắc. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ
của những con người lao động bình thường mà cao cả, những con người đầy quan tâm,
đầy trách nhiệm đối với đất nước mà tiêu biểu là anh thanh niên làm cơng tác quan trắc
khí tượng. Nhân vật anh thanh niên chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng
nổi bật nhất của bức tranh về phẩm chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà tác giả tập trung thể hiện.
<b>- MB6</b><i>: NÕu là con chim chiếc lá</i>
<i> Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh</i>
<i> Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình</i>
Mt nh thơ đã từng viết nh vậy song chỉ đến khi đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long, tiếp xúc với các nhân vật trong tác phẩm đặc biệt là anh
thanh niên ta mới thấy thấm thía hơn ý nghĩa của những vần thơ trên. Anh thanh niên
trong tác phẩm là ngời có những phẩm chất đáng q: cởi mở, hiếu khách, u cơng
việc, khiêm tốn và có phong cách thật đẹp.
<b>- MB7:</b> Người ta thường nói Sài Gòn náo nhiệt, Hà Nội hào hoa, Sa Pa lặng l
<b>- MB1:</b> Có một nhà văn đã nói rằng : "Khơng có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng
<i>chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu</i>
chuyện đã trở thành huyền thoại đợc các nhà văn ghi lại nh những câu chuyện cổ tích
hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lợc ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật
cô bé Thu tám tuổi có một tình u cha đằm thắm, kì lạ, tiêu biểu cho những điều kì
diệu mà những con ngời Việt Nam đã viết nên.
<b>- MB2:</b> Chúng ta đang sống trong một đất nước hồ bình, được sự dìu dắt, yêu thương
của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được
chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính
mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho
thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả
những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan
thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng,
tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận
đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gửi lại quê hương đứa con thân yêu
<b>- MB3:</b> Ra đời cách đây hơn 50 năm, nhng truyện ngắn Chiếc lợc ngà của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng, mỗi lần đọc lại vẫn đem đến cho chúng ta niềm xúc động lạ
th-ờng. Sức hấp dẫn của tác phẩm không phải chỉ ở cốt truyện ít nhiều li kì, hay tính cách
nhân vật khác lạ mà chính là ở nội dung sâu sắc và cảm động của câu chuyện: Tình cha
con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
<b>- MB1</b>: Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm
của những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình
dịng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn theo
đơi cánh cị trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng vậy, ơng
cũng là người Việt Nam, dịng máu chảy trong huyết quản ơng cũng mang tên Lạc
Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ
của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp
vỗ cánh cị. Và <i>“Con cò” </i>là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế, một bài thơ mà
chất triết lí, suy tưởng đã hoà làm một với những lời ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca
ngợi ý nghĩa của những lời hát ru với cuộc đời mỗi con người.
<b>-MB2</b>: Con cị là hình ảnh quen thuộc với làng q Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế
mà từ lúc nào khơng biết, hình ảnh cị đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách
bình thường nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ
Việt Nam chịu thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cị được mượn để ví cho thân
phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ
thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cị, tác giả Chế Lan Viên đã mượn
chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca ngợi tình
mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ.
Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác
<b>- MB3:</b> Từ ngàn đời nay văn chơng đã dành bao nhiêu lời đẹp ý hay để nói về ngời mẹ,
về tình mẫu tử, nhng đề tài quen thuộc ấy vẫn ko bao giờ là chuyện xa cũ. Với tuổi ấu
thơ, ngời mẹ, tình mẹ lại ln gắn liền với lời ru. Dịng sữa và lời hát ru ngọt ngào của
mẹ đã nuôi đứa trẻ lớn lên: “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” (Nguyễn Duy).
Tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con ngời đã đợc nhà thơ Chế Lan
Viên gửi gắm trong những vần thơ nhẹ nhàng mà đậm chất triết lí. Đó là bài thơ Con
<i>cị.</i>
<b>- MB1:</b> Mùa xn ln là nguồn cảm hứng vơ tận của các thi nhân. Nguyễn Bính đã
từng đánh thức ngời nhà quê trong mỗichúng ta bằng “Mùa xuân xanh”, Hàn Mạc Tử
thì bâng khuâng xao xuyến nơi đất khách q ngời với “Mùa xn chín”. Cịn ‘‘<i>Mùa</i>
<i>xn xn nho nhỏ’’ củaThanh Hải lại là tâm nguyện sau cùngcủa ông về tình yêu</i>
cuộc sống, về khát vọng đợc cống hiến sức lực của mình cho đất nớc khi ơng sắp lâm
chung.
<b>- MB2</b>: Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xa và nay. Nếu nh họa sĩ dùng đờng
nét và sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng ngơn từ để diễn tả
cảm xúc của mình - đặc biệt là tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh sắc quê hơng. Ta đã từng
bắt gặp một sắc cỏ xuân non tơ trong thơ Nguyễn Du, một nét xuân chín rạo rực của thi
sĩ họ Hàn, hay một mùa xuân xanh tơi tắn nhẹ nhàng trong thơ Nguyễn Bính. Và xúc
động biết bao khi ta đợc hịa mình vào “<i>Mùa xuân nho nhỏ</i>” của nhà thơ xứ Huế –
Thanh Hải để rồi thêm hiểu và yêu cuộc sống hơn.
thôn nữ, trẻ trung, xinh đẹp của Hàn Mặc Tử. Nhng bằng hình tợng “ Mùa xuân nho
nhỏ” rất độc đáo của Thanh Hải đã tạo nên một dấu ấn riêng trong vờn thơ xuân đất
Việt. Bài thơ “<i>Mùa xuân nho nhỏ</i>” đợc sáng tác 1980 trong khung cảnh hồ bình, xây
<b>- MB1:</b> Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống
hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969, để lại biết
bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ
về Bác, và <i>“Viếng lăng Bác”</i> của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc
nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.
<b>- MB2:</b> Nếu nh hoạ sĩ dùng đờng nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh
thì thi sĩ lại dùng hình ảnh để diễn tả cảm xúc của mình. Có lẽ vì thế mà thơ là những
gì cơ đọng nhất, tinh tế nhất. Bài thơ “<i>Viếng lăng Bác</i>” để lại cho ta nhiều ấn tợng khắc
sâu trong tâm khảm về vị cha già kính yêu của dân tộc. Ngời đã dành tình thơng u vơ
vàn cho Miền Nam, miền đất đi trớc về sau. Bác thờng hay bảo “Miền Nam luôn trong
trái tim tôi”. Ngời cha ấy đã đi xa để lại mn vài tình thơng, niềm tiếc nuối trong lịng
mỗi ngời dân. Bài thơ “Viếng Lăng Bác” thể hiện nỗi xúc động bồi hồi, niềm thành
kính, cảm xúc trào dâng mãnh liệt của nhà thơ Viễn Phơng từ thành phố giải phóng ra
thăm Bác. Bài thơ là một dồn nén kết tinh tình cảm chân thành thơng nhớ Bác. Khơng
chỉ riêng nhà thơ mà cịn là tình cảm lớn của hàng triệu chiến sĩ đồng bào Miền nam,
những ngời cũng nh nhà thơ tuy cha một lần gặp Bác trong thực tế nhng đã nghìn lần
gặp Bác trong mơ, trong hồi vọng lý tởng cao đẹp của mình.
<b>- MB1:</b> Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo
vào lịng ngời những rung động nhẹ nhàng khiến ta nh giao hoà, đồng điệu . Khi chúng
ta cha hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” thì đã gặp một
Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vơ cùng qua một thống “<i>Sang Thu</i>” .
<b>- MB2:</b> Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi
nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của
mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng
cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc một
cái nhìn mới mẻ. Ơng là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc sống ở
nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương
vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài
<i>"Sang thu"</i> được ông sáng tác cuối năm 1977.
<b>- MB3:</b> Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm
xúc về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc
giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ:
<b>- MB4:</b> Không biết tự bao giờ thu thành bến đợi gieo tình cho nhiều thi sĩ. Ngời ta yêu
thu bởi cái dịu dàng, nhẹ nhàng mà thanh thoát. Thu đã trở thành điểm tựa cho mỗi thi
sĩ và dệt vần nên những bài thơ. Cái duyên tình thu ấy đã dệt nên vẻ đẹp tinh xảo trong
thơ Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu nổi tiếng, lắng sâu trong Tản Đà với “Cảm thu”
và “Tiễn thu’ hay nồng nàn trong “Đây mùa thu tới’ của Xuân Diệu. Nhng mùa thu
trong “<i>Sang thu</i>” của Hữu Thỉnh mới thực sự đặc biệt. Nó khơng hẳn là bài thơ tả cảnh
mùa thu mà là tiếng thì thầm của khoảng khắc hạ chuyển sang thu. Cái khoảng khắc ấy
đáng yêu và đáng nhớ biết bao.
<b>- MB1:</b> Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm
nguyên sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương
con cái, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê
hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những
<b>- MB2:</b> Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng, thấm nhuần những
tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày, Y Phơng (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân
tộc miền núi. "Thơ Y Phơng nh một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác
nhau, phong phú và đa dạng, nhng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là
bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình
thức. Với Y Phơng, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm
một giọng điệu mới, một phong cách mới" (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt
<i>Nam). </i>
<b>- MB3:</b> Thơ Y Phơng hồn nhiên mà trong sáng, chân thật mà mạnh mẽ nh một bức
tranh thổ cẩm đan dệt những sắc màu phong phú và đa dạng, nhng trong đó ln có
một màu sắc chủ đạo, là bản sắc dân tộc đậm nét độc đáo. “<i>Nói với con</i>” là một bài thơ
haycủa nhà thơ. Bài thơ nh một khúc tâm tình của ngời cha, thể hiện lòng yêu thơng
con của ngời miền núi và ớc mong thế hệ con cái phát huy truyền thống tốt đẹp của quê
hơng.
<b>- MB4:</b> Tạo hóa đã ban tặng cho con ngời hai thứ tình cảm thiêng liêng và cao q, đó
là tình mẹ và tình cha. Nếu mẹ cho con dòng sữa ngọt ngào cùng lời ru êm ái nâng
giấc cho con thì cha cho con vòng tay yêu thơng và bờ vai rộng mở ơm ấp che chở con.
Đã có rất nhiều tác phẩm thành công ở chủ đề cảm xúc ấy. Nếu nh chúng ta biết đến
tình mẹ bao la trìu mến trong “Con cị” của Chế Lan Viên thì ta cũng khơng thể qn
đợc tình cha u thơng dạy dỗ trong “<i>Nói với con</i>” của Y Phơng. Bài thơ gồm hai khổ
thơ, khổ nào cũng đẹp, cũng hay, cũng để lại ấn tợng sâu sắc trong lòng ngời đọc…
ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một <i>“Bến quê”</i> mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải
nghiệm về một đời người. Có lẽ sẽ chẳng ai gấp lại trang sách <i>“Bến quê”</i> mà không
cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút
gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi
của q hương thì vẫn cịn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc
chúng ta.
<b>- MB1:</b> Cuc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc của nhân dân ta đã góp thêm những trang
vàng vào lịch sử dân tộc. Đã có rất nhiều văn nghệ sẽ đã có đợc cảm hứng sáng tác từ
đề tài này. Chính vì vậy đây cũng là giai đoạn văn học có nhiều thành cơng góp phần
làm rạng rỡ nền văn học nớc nhà. "Những ngôi sao xa xôi" của nữ tác giả Lê Minh
Khuê là một trong những đóng góp nh vậy. Nhân vật chính của tác phẩm là Phơng Định
- một cô gái đã để lại ấn tợng sâu sắc trong lòng ngời đọc.
<b>- MB2: </b>Chúng ta đã từng biết đến hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trờng Sơn qua tác
phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính" của Phạm Tiến Duật. Họ là những chiến sĩ trẻ
trung sơi nổi can trờng mang trong mình khát vọng thống nhất non sông. Và một lần
nữa chúng ta lại đợc gặp hình ảnh những con ngời gan dạ trẻ trung trên tuyến đờng
Tr-ờng Sơn qua tác phẩm "Những ngơi sao xa xơi" của Lê Minh Kh. Đó là ba cô gái nhỏ
nhắn xinh xắn trong một tổ trinh sát mặt đờng. Nhân vật chính trong tác phẩm và cũng
là ngời kể chuyện là Phơng Định - một cô gái Hà Nội. Nhân vật đã để lại ấn tợng sâu
sắc trong lịng đơng đảo bạn đọc.
<b>- MB3: </b>Là cây bút chuyên về truyện ngắn, trong chiến tranh Lê Minh Khuê viết về
cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đờng Trờng Sơn . “<i>Những ngôi sao xa xôi</i>” là
tác phẩm đầu tay của bà, đợc viết năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc đang diễn ra rất ác liệt. Truyện giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái
thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đờng Trờng Sơn .
<b>- MB4:</b> Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là
biểu tượng anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lập tự do. Nhà văn Lê Minh Khuê
đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Những tác
phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây
đã gây được sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn <i>"những ngôi sao xa xôi"</i> là một trong
những tác phẩm ấy. Truyện viết về ba cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm
nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường Trường Sơn đạn bom khốc liệt. Phương Định,
nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu
sắc trong lòng người đọc.
<b>- MB5:</b> Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua….. nhưng ánh sáng chói lọi của nó vẫn
ln tồn tại cùng với lịch sử dân tộc ta qua các tác phẩm văn học như….. Và có những
con người bình dị, đã làm nên cuộc kháng chiến ấy, đó là những người lính, những cơ
thanh niên xung phong, những chiến sĩ vô danh…. <i>"Những ngôi sao xa xôi"</i> viết về
những con người như vậy. Ba cô gái thanh niên họp thành một tổ trinh sát mặt
đường….
<i>Giản dị và bình tâm</i>
<i>Không ai nhớ mặt đặt tên</i>
<i>Nhưng họ đã làm nên đất nước.</i>
(Ngã ba Đồng Lộc)
<b>- MB6:</b> Truyện <i>"Những ngôi sao xa xôi"</i> của Lê Minh Khuê được viết năm 1971, khi
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Truyện kể lại cuộc sống của
ba cô gái thanh niên xung phong làm công tác trinh sát và phá bom thông đường trên
một cao điểm của Trường Sơn những năm tháng chống Mĩ. Qua đó thể hiện và ca ngợi
tâm hồn và phẩm chất cao đẹp của những người con gái Việt Nam thời chống Mĩ: Hồn
nhiên, trong sáng trong cuộc sống, dũng cảm trong chiến đấu và luôn lạc quan trước