Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nghiên cứu sự lây nhiễm của IHHNV trên tôm sú trong điều kiện phòng thí nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.99 KB, 11 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

NGHIÊN CỨU SỰ LÂY NHIỄM CỦA IHHNV TRÊN TƠM SÚ
TRONG ĐIỀU KIỆN PHỊNG THÍ NGHIỆM
Cao Thành Trung1, Phạm Cơng Ngun1, Nguyễn Văn Hảo2
TĨM TẮT
Virus gây hoại tử cơ quan lập biểu mô và cơ quan tạo máu có tên IHHNV (Infectiou Hyperdermal
and Hematopietic Necrosis Virus) hay còn gọi là virus Penaeus stylirostris densovirus (PstDNV)
gây chết hàng loạt trên tôm xanh (Penaeus stylirostris) nuôi ở Mỹ vào năm 1981. Virus này là tác
nhân gây bệnh cịi cọc và dị dạng (RDS) trên tơm thẻ chân trắng Penaeus vannamei. Thí nghiệm
lây nhiễm theo phương thức truyền dọc từ mẹ sang con và truyền ngang trong quần đàn tôm sú đã
được thiết lập dựa trên con mẹ đã giao vĩ mang mầm bệnh IHHNV và không mang IHHNV. Sự lây
truyền từ mẹ sang con được đánh giá thông qua trứng và các giai đoạn ấu trùng cùa con mẹ nhiễm
IHHNV bằng kỹ thuật PCR. Lây nhiễm truyền ngang được thực nghiệm, gồm lây nhiễm cùng loài
(sống chung và ăn tôm sú nhiễm IHHNV) và lây nhiễm khác lồi trong đó tơm sú (3-5g) khỏe sống
chung và ăn tôm thẻ chân trắng nhiễm IHHNV. Lây nhiễm truyền ngang được bố trí với ba nghiệm
thức (1) cho ăn tôm bệnh (2) cho ăn và sống chung tôm bệnh và (3) chỉ sống chung với tôm bệnh.
Lây truyền từ mẹ sẽ được thí nghiệm và thu trứng và ấu trùng con mẹ nhiễm IHHNV. Kiểm tra sự
lây nhiễm của IHHNV bằng phương pháp PCR. Kết quả phân tích trứng và các giai đoạn ấu trùng
của tôm mẹ bị nhiễm IHHNV cho thấy ở trứng, Nauplli 1-3, Mysis 1-3, Zoea 1-3 và Postlarvae
1-6 đều mang IHHNV. Kết quả lây nhiễm truyền ngang với 3 nghiệm thức với tỷ nhiễm sau 14, 4
tuần lây nhiễm lần lược là nhóm tơm sống chung tơm bệnh là 60,0% và 86,7%; nhóm tơm cho ăn
tơm bệnh 46,7 và 60,0%; nhóm cho ăn tơm và sống tơm bệnh là 66,7% và 76,7%. Ở thí nghiệm lây
nhiễm khác lồi có tỷ lệ nhiễm sau 14 và 4 tuần tương đương nhóm sống chung là 43,3% và 66,7%;
nhóm tơm cho ăn tơm thẻ nhiễm IHHNV là 13,3% và 40,0%; nhóm kết hợp cho sống chung và ăn
tơm thẻ nhiễm là 26,7% và 80,0%. Kết quả thí nghiệm này có thể dùng để nghiên cứu sự lây nhiễm
virus trên tơm sú nhằm tìm ra những giải pháp để ngăn ngừa và phòng trị bệnh do virus một cách
hiệu quả trên tơm ni.
Từ khóa: IHHNV, Penaeus monodon, lây nhiễm

I. ĐẶT VẤN ĐỀ


Những năm gần đây, nghề nuôi tôm trên thế
giới bị ảnh hưởng rất nhiều do virus gây bệnh.
Trong những năm thập kỷ 90, chỉ có 6 loại virus
gây bệnh trên tôm được ghi nhận, nhưng đến
nay con số đó đã tăng trên 20 loại (Walker và
Winton, 2010). Trên tơm ni ở Việt Nam trong
những năm gần đây, ngồi virus gây bệnh đốm

trắng WSSV (White spot symdrome virus), virus
gây bệnh còi MBV (Monodon baculovirus)
cũng đã xuất hiện nhiều virus khác gây bệnh
nghiêm trọng như bệnh đầu vàng (YHV/GAV),
virus gây bệnh đục cơ (MrNV & XSV) (Đặng
Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương,
2012). Thêm vào đó, một số virus mới trên tôm
thẻ và tôm sú nuôi cũng đã xuất hiện như virus

1

Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản 2.
Email:
2
Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản 2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014

99



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
gây bệnh đục cơ (Infectious myonecrosis virusIMNV, virus gây bệnh hoại tử cơ quan lập biểu
mô và cơ quan tạo máu IHHNV (Hùng và ctv.,
2009; Ngô Xuân Tuyến, 2010).

Virus gây hoại tử cơ quan lập biểu mô
và cơ quan tạo máu (IHHNV) là một trong
những tác nhân gây bệnh có độc lực rất cao
đối với tơm xanh Thái Bình Dương (Penaeus
stylirostris), tỷ lệ tôm chết lên trên 90 % sau
2 tuần lây nhiễm đối với tôm 30-50 ngày
tuổi. Tuy nhiên, đối với tôm thẻ chân trắng và
tôm sú nuôi (Penaeus vannamei và Penaeus
monodon) có thể mang nhiễm virus này nhưng
khơng gây chết. Chúng chỉ gây hội chứng
chậm lớn và dị dạng trên tôm nuôi (RDS - ruNt
deformity syndrome) (Bell và Lightner., 1984;
Primavera và Quinito., 2000). Sự lây nhiễm
IHHNV trên tôm sú Penaeus monodon trước
đây không được quan tâm, mặc dù vậy, một số
nghiên cứu chỉ ra rằng IHHNV hiện diện trên
lồi tơm này và cũng gây ra hội chứng RDS
ở các mẫu tôm sú nuôi bị nhiễm IHHNV tại
Philippine. Kết quả nghiên cứu ở Philippine
cho thấy tôm sú nuôi nhiễm IHHNV làm cho
tôm chậm lớn, kích thước nhỏ và biến dạng
lớp kitin. Bên cạnh đó, sự biến dạng xuất hiện
ở tơm kích thước lớn (hoặc nuôi lâu ngày) cho
thấy hội chứng RDS biểu hiện phụ thuộc vào
độ tuổi và kích thước tơm sú nuôi (Primavera

và Quinito., 2000). Tuy nhiên, IHHNV đã
được phát hiện và phân bố rộng rãi trong tôm
sú nuôi khu vực Đông và Đông Nam Á, nhưng
dường như không gây thiệt hại tỷ lệ sống và
sản lượng (Flegel., 1997; Chayaburakul và
ctv., 2005; Tang và ctv., 2003).
Hiện nay, vẫn cịn có nhiều ý kiến trái
ngược nhau về sự tác động của virus lên sự
tăng trưởng của tôm sú, một nghiên cứu cho
thấy, trên tơm sú ni ở Philipine có hiện
tượng dị dạng cịi cọc, phát triển có kích thước
khơng đều khi nhiễm IHHNV (Primavera &
Quinitio., 2000), trên tôm sú nuôi ở Ấn Độ có
hiện tượng tơm chậm lớn khi nhiễm IHHNV.
Theo Rai và ctv. (2009) ngoài những virus
100

MBV, HPV và LSNV gây hội chứng chậm
lớn, thì IHHNV cũng có mối liên hệ đến sự
chậm phát triển ở tôm sú. Tuy nhiên, cũng có
một số ý kiến cho rằng việc nhiễm IHHNV
khơng có tác động lớn về sự phát triển của
tôm nuôi. Theo Withyachumnarnkul và ctv.
(2006) nghiên cứu về ảnh hưởng của virus
đến tăng trưởng của tôm, số lượng trứng được
đẻ và tỷ lệ nở trứng cho thấy khơng có sự ảnh
hưởng lớn nào đến sự phát triển của tôm sú
cũng như đến sinh sản khi tôm mẹ nhiễm nhẹ
IHNNV. Một nghiên cứu khác ở Brazil mới
đây trên tôm thẻ chân trắng cho thấy, mặc

dù sự hiện diện của IHHNV với tỷ lệ rất cao
nhưng khi phân tích thống kê thì thấy khơng
có mối tương quan nào giữa sự nhiễm IHHNV
và dấu hiệu RDS hay trọng lượng cơ thể tôm
cũng như thời gian ni trong ao (Braz và
ctv., 2009). Thêm vào đó, sự lan truyền của
IHHNV diễn ra trong tự nhiên cả truyền dọc
và truyền ngang. Thí nghiệm truyền dọc cũng
đã được xác lập thông qua giám sát sự hiện
diện IHHNV ở phôi và thế hệ ấu trùng trên
tôm thẻ chân trắng khi cho thụ tinh trứng
từ hai tôm thẻ chân trắng cái (một bị nhiễm
IHHNV và một không nhiễm IHHNV) với
tôm đực khơng mang IHHNV. Kết quả phân
tích PCR cho thấy khi tơm cái nhiễm IHHNV
thì phơi và thế hệ con của chúng cũng nhiễm
IHHNV, trường hợp tơm mẹ khơng mang
IHHNV thì phôi và thế hệ con không mang
virus IHHN (Motte và ctv., 2003). Một nghiên
cứu khác về lây truyền dọc cho thấy, IHHNV
nhiễm trên mô của buồng trứng và trứng đã
thụ tinh của tơm Fenneropenaeus chinesis thì
các giai đoạn con của chúng đều mang virus
này (Zhang và Sun., 1997). Lây truyền dọc
đã được xác định, vì virus đã được phát hiện
trong các mô buồng trứng và nang buồng trứng
(Lotz, 1997). Một số cá thể trong quần đàn P.
stylirostris và P. vannamei sống sót qua các
đợt dịch bệnh và mang IHHNV trong suốt
thời gian sống, chúng đã truyền IHHNV sang


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
thế hệ con và các quần đàn khác thông qua cả
đường truyền ngang, lẫn truyền dọc (Bell và
Lightner, 1984; Lotz, 1997). Đây là điều rất
thú vị, và câu hỏi đặt ra IHHNV lan truyền
trong quần đàn tơm sú như thế nào và IHHNV
có ảnh hưởng đến quần đàn tơm sú ở Việt
Nam có hay khơng. Vì vậy, trong nghiên cứu
này, chúng tơi bố trí thí nghiệm lây nhiễm của
IHHNV trên tơm sú ni ở Việt Nam theo hai
con đường lan truyền ngang và truyền dọc.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mẫu vật sinh học
Mẫu tôm sú nhiễm IHHNV thu ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long được kiểm tra bằng
Multiplex PCR với cặp mồi vnIHF/R và
309F/R (OIE, 2009).
Mẫu tôm sú và giáp xác: tôm sú và tôm thẻ
(3-5 g) được thu ở trại nuôi thực nghiệm Bạc
Liêu – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản
2 và ni thuần ở Trại thực nghiệm Gị Vấp
thuộc Viện.
2.2. Phương pháp phân tích Multiplex
PCR
Qui trình Multiplex phát hiện IHHNV type
lây nhiễm dựa trên cặp mồi thiết kế vnIHF/R

và 309F/R. Thành phần phản ứng của PCR
gồm 50 mM KCl, 10 mM Tris-HCl (pH 8.3),
1.5 mM MgCl2, 200 µM deoxynucleoside
triphosphate, 25 µM mỗi mồi vnIHF/R, 10
µM mỗi mồi 309F/R, 1-2 µl (50 ng) bản mẫu
DNA, và enzyme DNA polymerase 0.125 U
(Promega, Mỹ). Tổng thể tích phản ứng 25 µl
được thực hiện trên máy PCR Thermal Cycler
(Biorad, MỸ). Điều kiện phản ứng: Biến tính
ban đầu 95°C trong 5 phút, sau đó 35 chu kỳ
khuếch đại với biến tính 95°C trong 45 giây,
bắt cặp của mồi ở 58°C trong 45 giây, kéo dài
mạch ở 72°C trong 1 phút. Kết thúc quá trình
khuếch đại phản ứng được ủ ở 72°C trong 7
phút. Sản phẩm khuếch đại được điện di trên
gel agarose 2%.

2.3. Ly trích DNA tổng số
Được tiến hành theo quy trình của Gudkovs,
(2008) có điều chỉnh. Sử dụng mô tôm, chân bơi,
ấu trùng, nghiền trong 300 µl dịch đệm ly trích
DNA (50 mM Tris, pH8; 1 mM EDTA, pH8;
500 mM NaCl; 1% SDS), ủ trong bồn nước đá 5
phút, sau đó đun ở 100°C trong 10 phút, lấy mẫu
ra cho vào trong nước đá 5 phút, ly tâm 13.000
vòng/phút trong 10 phút. Hút dịch nổi bên trên
chứa DNA cho vào eppendorf 1,5ml mới. Sau
đó tủa dịch nổi bằng 2 thể tích cồn tuyệt đối,
ly tâm ở 13.000 vòng/phút trong 5 phút để thu
tủa DNA. Loại bỏ dịch nổi, tủa DNA được làm

khô ở 560C trong 10 phút, hịa tan cặn tủa DNA
trong 200 µl nước khử ion và giữ ở −20°C.
2.4. Ly trích và nhân sinh virus
Tôm bị nhiễm IHHNV được dự trữ trong
tủ -70oC sẽ được lấy ra cho vào đá vảy để rã
đơng, sau đó loại bỏ lớp giáp ngồi và gan. Cân
khoảng 5 – 10 gam mô tôm cho vào cối (đã để
lạnh), nghiền trong 15 – 30 ml TN (0,02M Tris
HCl, 0,4 NaCl, pH 7,4) trong điều kiện lạnh.
Sau đó ly tâm 12.000 vòng/phút trong 5 phút.
Hút dịch nổi lọc qua màng lọc 0,45 µm. Cho vào
eppendorf 1,8 ml vơ trùng và bảo quản ở -27 oC
để sử dụng lây nhiễm do Dhar và ctv. (2001)
có bổ sung và chỉnh sửa. Hai mươi mircoliter
dịch tiêm vào mỗi cá thể tôm khỏe (3-5g). Sau 7
ngày tiêm, tôm nuôi lây nhiễm được tiêm nhắc
thêm một lần nữa. Tôm sau khi tiêm nhắc đến
ngày thứ 14 sẽ được cắt chân bơi kiểm tra sự
hiện diện virus. Tôm này được dùng để làm
nguồn sống chung và cho ăn.
2.5. Lây nhiễm theo trục dọc
Sử dụng phương pháp PCR để sàng lọc ra
khoảng 100 cá thể tôm sú mẹ đã giao vĩ trước
để xác định được 6 tôm mẹ nhiễm virus IHHNV
và 2 tôm sú mẹ không nhiễm IHHNV. Sáu tôm
mẹ nhiễm IHHNV và 2 tôm mẹ không nhiễm
IHHNV (đối chứng âm) đã giao vĩ trước đó
được kiểm tra IHHNV bằng PCR. Tiến hành
ni từng cá thể tơm mẹ trong mỗi bể 4000 lít
chứa nước biển (35 ppt) riêng biệt, nhiệt độ (28


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014

101


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
– 300C), có sục khí và cho thức ăn (mực tươi,
ốc mượn hồn). Cho đẻ, trứng và ở các giai đoạn
ấu trùng nauplli 1 – 3, zoea 1 – 3, mysis 1 – 3,
postlarvae 1- 6 được thu và cho vào lọ có cồn
700 có ghi số riêng biệt. Sau đó ly trích DNA
tổng số để phân tích bằng PCR.
2.6. Lây nhiễm theo trục ngang
2.6.1. Lây nhiễm cùng lồi
Thí nghiệm được thực hiện trên 3 nghiệm
thức:
+ Nhóm 1 - sống chung: 10 cá thể tôm sú
không nhiễm IHHNV đã được kiểm tra bằng
PCR sẽ sống chung với 5 cá thể tôm sú nhiễm
IHHNV đã được gây nhiễm trước đó bằng
phương pháp tiêm. Nhóm đối chứng 1, bao gồm
10 cá thể tôm sú khỏe mạnh sống chung với 5
cá thể tôm sú khỏe mạnh khác. Tôm sẽ được cho
ăn thức viên công nghiệp 3 lần/ngày.
+ Nhóm 2 - thức cho ăn mẫu tơm bệnh: 10
cá thể tôm sú không nhiễm IHHNV sẽ được cho
ăn mô tôm sú nhiễm virus này với tỉ lệ bằng
10% trọng lượng tôm trong 1 ngày. Tôm sẽ
được cho ăn 2 lần trong ngày trong thời gian 5

ngày liên tục. Sau ngày cho ăn cuối cùng, tôm
sẽ được cho ăn lại thức ăn viên bình thường.
Đối với nhóm đối chứng tôm sẽ được cho ăn mô
tôm sú không nhiễm virus trong 5 ngày liên tục
sau đó cho ăn lại thức ăn viên.
+ Nhóm 3 - lây nhiễm bằng cách thức sống
chung đồng thời cho ăn mô tôm bệnh: 10 cá thể
tôm sú không nhiễm IHHNV sẽ sống chung với
5 cá thể tôm sú nhiễm IHHNV đã được kiểm
tra PCR trước đó, đồng thời sẽ được cho ăn mơ
tơm sú nhiễm IHHNV với tỉ lệ 10% trọng lượng
tôm trên 1 ngày. Tôm sẽ được cho ăn 2 ngày
trong ngày trong 5 ngày liên tục. Sau thời gian
cho ăn này, tôm sẽ được cho ăn lại thức ăn viên.
Đối với nhóm đối chứng, 10 cá thể tôm sú khỏe
mạnh sẽ sống chung với 5 cá thể tôm sú khỏe
mạnh khác đồng thời cho ăn mơ tơm sú khơng
nhiễm IHHNV, sau đó sẽ được cho ăn lại thức
ăn viên.
102

Mỗi nhóm nghiệm thức lặp lại 3 lần, thời
gian thí nghiệm kéo dài trong 4 tuần. Sau 2 tuần
và 4 tuần sẽ tiến hành thu mẫu chân bơi tôm sú
và kiểm tra bằng PCR, từ đó xác định mức độ
nhiễm IHHNV (tỉ lệ % tơm nhiễm).
2.6.2. Lây nhiễm khác lồi
Thí nghiệm được bố trí giống như lây nhiễm
khác lồi, nhưng tơm sống chung và cho ăn tôm
bệnh là tôm thẻ chân trắng nhiễm IHHNV.

III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả lây nhiễm truyền dọc
Trong các nghiên cứu trước trên tôm thẻ
chân trắng và tôm he Trung Quốc, khi tơm bố
mẹ mang virus IHHV thì phơi, trứng và các giai
đoạn ấu trùng con của chúng điều mang virus.
Ở nghiên cứu này, để đánh giá có sự lây truyền
IHHNV từ mẹ sang con con của tôm sú hay
không. Kết quả nghiên cứu cho thấy con mẹ
mang virus thì trứng và các con con của chúng
cũng mang virus. Trong 100 con mẹ, qua sàng
lọc bằng kỹ thuật PCR, chúng tôi chọn 6 mẹ
nhiễm IHHNV để cho sinh sản. Trong nghiệm
thức 6 con mẹ mang trứng đã giao vĩ xác định
nhiễm IHHNV được ni chung và sau đó cắt
mắt để cho đẻ. Trứng sau khi đẻ sẽ được thu mà
chuyển qua bể ương, trứng mỗi con mẹ sẽ được
ương trong từng bể riêng biệt. Mỗi giai đoạn
biệt hóa từ trứng sẽ cho đến ấu trùng PL6 sẽ
được thu cho vào từng lọ có kí hiệu riêng biệt và
kiểm tra sự hiện diện IHHHNV. Đối với 2 con
mẹ không nhiễm IHHNV cũng được bố trí đồng
thời, cách xa nhóm bệnh và cho sinh sản như
nhóm tơm mẹ mang mầm bệnh
Kết quả phân tích PCR cho thấy ở nhóm
lây nhiễm, tất cả các trường hợp tôm mẹ nhiễm
IHHNV đều truyền IHHNV cho trứng và các
giai đoạn sau của chúng. Ở nhóm đối chứng tôm
mẹ không nhiễm IHHNV sẽ cho kết quả trứng
và các giai đoạn sau đó của nó khơng bị nhiễm

IHHNV.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2

Hình 1 . Kiểm tra PCR phát hiện trên mẫu tôm mẹ nhiễm IHHNV
và các giai đoạn ấu trùng nhiễm virus
Sự lan truyền IHHNV từ mẹ sang con
của chúng thông qua các cá thể tôm sú mẹ
không nhiễm IHHNV và bị nhiễm IHHNV
đã được nghiên cứu. Trong đó, 2 cá thể tơm
mẹ (kí hiệu S2 và S9) khơng nhiễm IHHNV
làm thành nhóm đối chứng và 6 cá thể tơm

mẹ (kí hiệu S3, S4, S5, S6, S8 và S12) nhiễm
IHHNV sẽ được xếp vào nhóm lây nhiễm.
Sau khi tơm mẹ đẻ, trứng và các giai đoạn
ấu trùng của chúng sẽ được thu và phân tích
bằng phương pháp PCR. Kết quả thể hiện ở
bảng 1.

Bảng 1. Kết quả phân tích PCR các mẫu trứng và giai đoạn ấu trùng thu từ các cá thể tôm mẹ nhiễm
và khơng nhiễm IHHNV

Giai đoạn

Đối chứng


Nhóm lây nhiễm

Mẹ S2

Mẹ S9

Mẹ S3

Mẹ S4

Mẹ S5

Mẹ S6

Mẹ S8

Mẹ S12

Trứng
Nauplii 1
Nauplii 2
Nauplii3
Zoea 1
Zoea 2
Zoea 3

(-)
(-)
(-)
(-)

(-)
(-)
(-)

(-)
(-)
(-)
(-)
(-)
(-)
(-)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)


Mysis 1

(-)

(-)

(+)

(+)

(+)

(+)

(+)

(+)

Mysis 2
Mysis 3
PL 1
PL 2
PL 3
PL 4
PL 5
PL 6

(-)
(-)
(-)

(-)
(-)
(-)
(-)
(-)

(-)
(-)
(-)
(-)
(-)
(-)
(-)
(-)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)


(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)

Kí hiệu: (+): dương tính với IHHNV; (-): âm tính với IHHNV

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014

103


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Kết quả phân tích PCR cho thấy ở nhóm
lây nhiễm, tất cả các trường hợp tôm mẹ
nhiễm IHHNV đều truyền IHHNV cho trứng
và các giai đoạn sau của chúng. Ở nhóm đối
chứng tơm mẹ không nhiễm IHHNV sẽ cho
kết quả trứng và các giai đoạn sau đó của nó
khơng bị nhiễm IHHNV.
3.2. Thí nghiệm lây truyền ngang
Mục tiêu của thực hiện lây nhiễm là nhằm
xác định sự lây truyền giữa các cá thể tôm trong
1 quần đàn và giữa các quần đàn với nhau như
thế nào. Đồng thời đánh giá các triệu chứng lâm
sàng của bệnh hoại tử gan tụy do virus gây ra

trên tơm sú. Thêm vào đó xác định thời gian
bệnh xuất hiện bệnh lý khi nhiễm IHHNV. Thực
nghiệm này còn là phương pháp kiểm chứng
trong quá trình phát triển phương pháp PCR
chẩn đốn IHHNV.
3.3. Lây nhiễm cùng lồi

Để đánh giá sự hiện diện của virus thông
qua lây truyền ngang ở cùng 1 quần đàn như thế
nào, chúng tôi tiến hành 3 nghiệm thức: cho ăn,

sống chung và kết hợp sống chung cho ăn mẫu
tôm nhiễm virus. Sau 2 và 4 tuần lây nhiễm
chân bơi từng cá thể được thu nhận và kiểm
tra hiện diện IHHNV trên những mẫu tôm này.
Kết quả thể hiện ở bảng 2. Tỷ lệ nhiễm ở các
nhóm tơm sau khi phân tích bằng PCR ở 2 và 4
tuần sau khi lây nhiễm là nhóm cho sống chung
tơm bệnh là 60,0 và 86,67%; nhóm cho ăn tơm
bệnh là 46,67 và 60%; nhóm kết hợp cho ăn và
sống chung tôm bệnh là 66,67 và 76,67%. Tiến
hành so sánh thống kê các nhóm thí nghiệm
với nhau ở tuần thứ 2 sau khi lây nhiễm, chúng
tôi không thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào
giữa các nhóm nghiệm thức (p>0,05) ở biểu đồ
hình 2. Ở tuần thứ 4 sau khi lây nhiễm, tỉ lệ
nhiễm IHHNV đã tăng lên ở tất cả các nhóm
thí nghiệm. Điều này cho thấy khả năng nhân
lên số lượng bản sao của virus trong các cá thể
tôm nhiễm bệnh và khả năng truyền lại virus

này cho các cá thể tơm khỏe mạnh hơn cịn
gia tăng. Tuy nhiên, chúng tôi không ghi nhận
được sự khác biệt nào (p>0,05) giữa các nhóm
thí nghiệm sau thời gian này.

Bảng 2. Kết quả xác định mức độ nhiễm của từng nhóm thí nghiệm sau gây nhiễm
Nghiệm thức

Tổng số tơm
phân tích

Đối chứng 1
Đối chứng 2

2 tuần

4 tuần

Số lượng tơm
dương tính 

Tỉ lệ nhiễm
(%)

Số lượng tơm
dương tính

Tỉ lệ nhiễm
(%)


30

0

0

0

0

30

0

0

0

0

Đối chứng 3

30

0

0

0


0

Nhóm 1

30

18

60,0

26

86,67

Nhóm 2

30

14

46,67

18

60,0

Nhóm 3

30


20

66,67

23

76,67

Hình 2. Biểu đồ so sánh tỉ lệ nhiễm IHHNV (%)
giữa các nhóm thí nghiệm sau thời gian 2 tuần
và 4 tuần. Dữ liệu được thể hiện là tỉ lệ nhiễm
(%) với độ lệch chuẩn (M ± SD)
104

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.4. Lây nhiễm khác loài
Để khẳng định sự lây nhiễm truyền ngang
giữa các lồi tơm trong một quần đàn cùng hệ
sinh thái sống của tơm sú, chúng tơi cũng tiến
hành bố trí thí nghiệm lây nhiễm như lây nhiễm
truyền ngang cùng loài. Tuy nhiên, mẫu tôm để
cho ăn và sống chung là tôm thẻ chân trắng
mang IHHNV. Kết quả sau khi phân tích các
nghiệm thức sau khi lây nhiễm ở 2 và 4 tuần.
Kết quả ở nhóm tơm sú sống chung với tơm
thẻ nhiễm là 43,33 và 66,67%; Nhóm tơm cho
ăn tơm thẻ nhiễm IHHNV là 13,33 và 40,0%;

Nhóm kết hợp cho sống chung và ăn tôm thẻ

nhiễm là 26,67 và 80,0%. Tiến hành phân tích
so sánh thống kê giữa các nhóm lây nhiễm
khác nhau, chúng tơi nhận thấy khơng có sự
khác biệt (p>0,05) giữa các nhóm lây nhiễm.
Tuy nhiên sau 4 tuần lây nhiễm, khi so sánh
thống kê giữa các nhóm, kết quả cho thấy có
sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,02 < 0,05) giữa
nhóm thí nghiệm sống chung đồng thời cho ăn
so với nhóm chỉ cho ăn mơ tơm bệnh và khơng
ghi nhận thấy sự khác biệt nào giữa các nhóm
cịn lại (p>0,05). Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm
tăng lên và nhiễm cao ở nhóm sống kết hợp
cho ăn với tôm thẻ bệnh.

Bảng 3. Kết quả xác định mức độ nhiễm của từng nhóm thí nghiệm sau gây nhiễm

2 tuần

4 tuần

Nghiệm thức

Tổng số tơm
phân tích

Số lượng
tơm dương
tính IHHNV


Tỉ lệ nhiễm
(%)

Số lượng
tơm dương
tính IHHNV

Tỉ lệ nhiễm
(%)

Đối chứng 1

30

0

0

0

0

Đối chứng 2

30

0

0


0

0

Đối chứng 3

30

0

0

0

0

Nhóm 1

30

13

43,33

20

66,67

Nhóm 2


30

4

13,33

12

40,0

Nhóm 3

30

8

26,67

24

80,0

Hình 3. Biểu đồ so sánh tỉ lệ nhiễm IHHNV (%) giữa các nhóm thí nghiệm trong thời gian 2 tuần
và 4 tuần. Dữ liệu được thể hiện bằng mức độ nhiễm với độ lệch chuẩn (M ± SD)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014

105



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.5. Biểu hiện bệnh tích sau khi lây nhiễm
Tơm sau khi lây nhiễm, chỉ ghi nhận được có một số con mang virus có biểu hiện màu sắc khác
thường so với bể đối chứng.

Hình 4. Quan sát, biểu hiện hình thái của tơm sau khi lây nhiễm 2 tuần. (A) Tôm trong bể lây nhiễm;
(B) Tôm trong bể lây nhiễm (mũi tên) và trong bể đối chứng.
IV. THẢO LUẬN

Sự lây truyền của IHHNV từ bố mẹ
sang thế hệ con trên tôm thẻ chân trắng và P.
chinesis đã được nghiên cứu và chứng minh,
IHHNV lan truyền từ mẹ sang con (Motte và
ctv., 2003; Zhag và ctv., 1997). Tuy nhiên
ở Việt Nam, trên tôm sú ni chưa thấy có
sự tác động lớn của IHHNV. Các nghiên
cứu chủ yếu tập trung trên bệnh đốm trắng,
bệnh còi. Đồng thời, chưa có nghiên cứu cơ
bản nào về việc truyền lan của IHHNV trên
tôm sú nuôi ở Việt Nam, để làm rõ hơn sự
lây truyền của virus này trên tơm sú ni ở
ĐBSCL từ đó nhằm đưa ra các giải pháp hạn
chế sự lan truyền của chúng trong tôm ni
ở nước ta. Ở nghiên cứu này, ở nhóm tơm mẹ
đã giao vĩ bị nhiễm IHHNV cho đẻ, trứng
của chúng và các giai đoạn ấu trùng khi được
kiểm tra bằng PCR. Kết quả cho thấy có sự
lây truyền từ IHHNV trên tôm sú mẹ mang
IHHNV sang con con thông qua trứng và các
giai đoạn phát triển của ấu trùng potlavae 6 ở

bảng 1 đã được chứng minh. Ở nhóm mẹ âm
tính IHHNV khi phân tích bằng PCR, trứng
và con con của chúng đều âm. Kết quả này
cho thấy, nguồn nước bể ương và q trình
106

cho sinh sản và ương ni khơng có sự lây
truyền ngang IHHNV. Lây truyền theo chiều
dọc có thể đã góp phần đáng kể vào sự lây
lan nhanh chóng của IHHNV trong hệ thống
ni trồng thuỷ sản và đóng một vai trị quan
trọng gây bùng phát dịch do IHHNV ở đàn
tôm hoang dã trong tự nhiên. Lây truyền từ
mẹ sang con giúp virus phát tán trong hệ
thống ương, sau đó lây nhiễm sang ấu trùng
khi chúng bắt đầu ăn hoặc lan truyền từ trứng
sang ấu trùng (Lotz, 1997). Ở kết quả bảng
1, đã xác định được khi tơm sú mẹ nhiễm
thì thế hệ con của chúng cũng bị nhiễm. Kết
quả này cũng giống như kết quả nghiên cứu
trước đó ở tơm sú, tơm thẻ chân trắng và
tơm Fenneropeneaus chinesis chứng minh
rằng IHHNV lây truyền theo chiều dọc có
thể được truyền từ bố mẹ cho con cháu của
chúng thông qua sự hiện diện của virus trên
buồng trứng, đến trứng và các thế hệ con
(Withuyachumnarnkul và ctv., 2006; Motte
và ctv., 2003; Zhang và Sun., 1997).
Lây truyền ngang của IHHNV được biết
là bằng con đường tôm ăn thịt xác vật chủ bị

nhiễm bệnh, tiếp xúc trực tiếp giữa tôm bệnh
và khơng bệnh hoặc tiếp xúc gián tiếp thơng

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
qua nước. Khi xảy ra dịch bệnh, hiện tượng
tôm ăn lẫn nhau được xem như là con đường
lây nhiễm nhanh và hiệu quả nhất trong tự
nhiên (Lightner và ctv.,1983; Bell và Lightner,
1984). IHHNV khi nhiễm trên tơm sú hoặc
tơm thẻ thì khơng gây chết chỉ gây chết trên
tôm xanh. Trong nghiên cứu này, sau khi lây
nhiễm IHHNV, tôm không bị chết bởi virus,
mà chỉ biểu hiện thay sắc tố, nhưng không
rõ ràng. Đây là cơ sở để nghiên cứu và hiểu
rõ vể bản chất của virus lây truyền tự nhiên
nhằm nghiên cứu các quần đàn tơm có mang
virus mà khơng biểu hiện bệnh, những lồi
tơm kháng IHHNV hoặc giai đoạn sớm của
tơm đã mang mầm bệnh virus lây truyền qua
những lồi tơm nhạy cảm hơn theo giai đoạn
sống bằng cách thông qua các thí nghiệm lây
truyền cho ăn tơm bệnh và sống chung. Phân
tích tỷ lệ nhiễm IHHNV sau 2 tuần và 4 tuần
lây nhiễm cho thấy tỷ lệ nhiễm ở các nghiệm
thức điều tăng lên rõ rệt. Ở nghiệm thức sống
chung và sống chung kết hợp ăn bệnh phẩm
5 ngày tỷ nhiễm lệ đạt cao trên 70%, sự gia

tăng tỷ lệ nhiễm chứng tỏ virus nhân lên và có
sự lây lan rõ rệt. Tương tự như nghiệm thức 2
cho tôm ăn mẫu bệnh phẩm 5 ngày liên tiếp,
mặc dù ở 2 tuần kiểm tra sự hiện diện virus
trong tôm lây nhiễm IHHNV thấp (46,67%)
và ở 4 tuần tỷ lệ nhiễm lên đến 60,0 %. Trong
phần thảo luận tránh lặp lại chi tiết các kết
quả. Kết quả trên cũng cho thấy, có sự lây
lan của virus trong quần đàn tôm sú. Trong
kết quả nghiên cứu về IHNNV nhân sinh của
virus bằng cách tiêm, sự nhân sinh của virus
rất chậm trên tôm lây nhiễm, còn tùy thuộc
vào điều kiện nhiệt độ cũng như thời gian
(Montgomery-Brock và ctv., 2007; GalvánAlvarez và ctv., 2012). Ở nhiệt độ thường
28-300C, thời gian nhân sinh virus trong tôm
thẻ chân trắng cao nhất khoảng 17-21 ngày.
Vì vậy, trong thí nghiệm lây nhiễm này, tỷ lệ
phát hiện của IHHNV trong trong 4 tuần cao
hơn 2 tuần ở tất cả các nghiệm thức là điều
phù hợp với nghiên cứu trước đó. Điều này

cho thấy khi lây nhiễm bằng con đường ăn
và sống chung với tơm mang virus, virus cần
phải có một thời gian để thích nghi và tương
tác với tế bào chủ. Chúng phải có thời gian
vượt qua hệ thống miễn dịch của tôm, đồng
thời tăng cường sự nhân lên bộ gen của virus
trong tế bào chủ. Vì vậy, trong giai đoạn 2
tuần đầu tỷ lệ nhiễm virus tùy thuộc vào mức
độ virus đưa vào và sự ổn định của chúng khi

xâm nhiễm vào tế bào chủ. Một số nghiên cứu
cho rằng tơm sú nhiễm IHHNV ngồi tự nhiên
có thể bị cịi cọc, chậm lớn, dị hình và màu sắc
tơm sú thay đổi thành màu xanh lơ nước biển
(Rai và ctv., 2009). Ở nghiên cứu này, chúng
tôi nhận thấy tôm sau 2 tuần lây nhiễm một
số tơm có thay đổi về màu sắc, khơng có biến
đổi về hình thái như phân đàn hay dị dạng như
tơm sú ở ngồi tự nhiên nhiễm IHHNV. Kết
quả này cũng giống như những nghiên cứu
của Withyachumnarnkul và ctv. (2006).
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà cịn
nhiều quốc gia trên thế giới đang có xu hướng
nhập giống ngoại lai để nuôi nhằm tăng cao
sản lượng cũng như tránh rủi ro bởi các loại
bệnh mà giống địa phương đang gặp phải.
Trong những năm trở lại đây, ngoài đàn tơm
sú hiện có, tơm thẻ chân trắng được đưa vào
ni trên những địa phương gia tăng một cách
nhanh chóng và đại trà. Những nghiên cứu
gần đây cho thấy, sự lây truyền giữa những
bệnh ngoại lai như LOVV (Lymphoid organ
vacuolization virus) từ tôm thẻ sang tôm sú, sự
hiện diện của virus này có thể là nguyên nhân
gây bệnh chậm lớn trên tôm sú. Hoặc bệnh đục
cơ do MrNV và XSV từ tôm càng xanh nhiễm
qua tôm sú và Penaeus (Fenneropenaeus)
indicus kết quả là tôm bị chết rất nhiều do
đục cơ (Flegel., 2012). Cho đến nay, chưa có
một nghiên cứu nào nói về vật chủ trung gian

truyền lây của IHHNV trên tơm sú được biết
đến. Vì vậy để hiểu rõ sự lan truyền virus từ
tôm thẻ chân trắng sang tôm sú, từ đó để có
cách phịng trị kịp thời, tiến hành thiết kế thí
nghiệm dựa trên 2 quần đàn tơm sú và tơm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014

107


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
thẻ chân trắng đã được kiểm tra sự hiện diện
của IHHNV bằng kỹ thuật PCR. Kết quả thí
nghiệm đã chứng minh được có sự lây truyền
dọc từ mẹ sang con, khi con tôm sú mẹ nhiễm
IHHNV thì trứng và con con của chúng cũng
nhiễm IHHNV. Cũng như chứng minh được
sự lây truyền ngang cùng lồi và khác lồi
trong quần đàn, khi tơm sú sống chung với
tôm thẻ và ăn tôm thẻ nhiễm IHHNV thì tơm
sú cũng nhiễm virus này sau 2 tuần lây nhiễm.
Tơm sú nhiễm virus sau 2 tuần lây nhiễm có
thể trên 50% nếu sống chung và ăn tôm nhiễm
virus. Từ kết quả này làm cơ sở bước đầu cho
nghiên cứu và có biện pháp phịng trị sự lây
truyền IHHNV trong tôm nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Gudkovs, N., 2008. Tài liệu thực hành phịng thí

nghiệm, thuộc dự án “Nâng cao năng lực các
phịng xét nghiệm virus trên tơm ở Việt Nam” của
ACIAR, Úc phối hợp với Bộ NN & PTNT và ĐH
Cần Thơ, Việt Nam thực hiện.
Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương,
2012. Các bệnh nguy hiểm trên tơm ni ở Đồng
bằng sơng Cửu Long. Tạp chí Khoa học, Đại học
Cần Thơ, tập 22c, trang 106-118.
Phạm Văn Hùng, Nguyễn Tẫn Bình, Nguyễn Đăng
Ninh, Phạm Hùng Vân, Phạm Thành Hổ, 2009.
Sự phổ biến của virus gây bệnh hoại tử dưới vỏ
và cơ quan tạo máu trên tôm sú nuôi tại Việt Nam.
Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 13 (2), trang
234-238.
Ngô Xuân Tuyến, 2010. Điều tra phát hiện bệnh hoại
tử cơ trên tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei
do virus IMNV gây ra tại Việt Nam. Báo cáo đề
tài nghiên cứu cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản 2, 54 trang.
Tài liệu tiếng Anh
Bell, T.A., and Lightner, D.V., 1984. IHHN virus:
Infectivity and pathogenicity studies in Penaeus
stylirostris and Penaeus vannamei. Aquaculture
38, 185-194.

108

Braz, R.F.S., Silva, C.P.R.O., Reis, L.G.,, Martins,
P.C.C., Sales, M.P., Meissner, R.V., 2009.
Prevalence of infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) in Penaeus

vannamei cultured in Northeastern Brazil.
Aquaculture 288, 143–6.
Chayaburakul, K., Lightner, D.V., Sriurairattana, S.,
Nelson, K.T., and B. Withyachumnarnkul, 2005.
Different responses to infectious hypodermal
and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) in
Penaeus monodon and Penaeus vannamei. Dis.
Aquat. Org., 67:191-200.
Dhar, A.K., Roux, M.M., Klimpel, K.R., 2001.
Detection and quantification of infectious
hypodermal and hematopoietic necrosis virus
and white spot virus in shrimp using real-time
quantitative PCR and SYBR green chemistry. J.
Clin. Microbiol. Aug. 39 (8), 2835–2845.
Flegel, T.W., 1997. Special Topic Review: Major
viral diseases of the black tiger prawn (Penaeus
monodon) in Thailand. World Journal of
Microbiology and Biotechnology 13, 433-442.
Flegel, T.W., 2012 Minireview: Historic emergence,
impact and current status of shrimp pathogens in
Asia, J Invertebr Pathol 110, 166-73.
Galván-Alvarez, D, Mendoza-Cano, F, Hernández-López, J., Sánchez-Paz, A., 2012. Experimental
evidence of metabolic disturbance in the white
shrimp Penaeus vannamei induced by the
Infectious Hypodermal and Hematopoietic
Necrosis Virus (IHHNV). Journal of Invertebrate
Pathology 111, 60–67.
Lightner, D.V., Redman, R.M., Bell, T.A., Brock,
J.A., 1983. Detection of IHHN virus in Penaeus
stylirostris and Penaeus vannamei imported into

Hawaii. J. World Maricult. Soc 14, 212-225
Lotz, J.M., 1997. Special topic review: viruses,
biosecurity and specific pathogen-free stocks in
shrimp aquaculture. World J Microbiol Biotechnol
13, 405–13.
Montgomery-Brock, D., Tacon, A.G.J., Poulos, B.,
& Lightner, D.V., 2007. Reduced replication of
infectious hypodermal and hematopoietic necrosis

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
virus (IHHNV) in Litopenaeus vannamei held in
warm water. Aquaculture 265, 41–48.

Penaeus monodon from India. Aquaculture 295,
168–174.

Motte, E., Yugcha, E., Luzardo, O.J., Castro, F., Leclercq, G., Rodrisguezj, J., Miranda, P., Borja, O.,
Serrano, J., Terreros, M., Montalvo, K., Narvasez, A., Tenorio, N., Cedno, V., Mialhe, E., and
Boulo, V., 2003. Prevention of IHHNV vertical
transmission in the white shrimp Litopenaeus
vannamei. Aquaculture 219, 57–70.

Tang, K.F.J., Poulos, B.T., Wang, J., Redman, R.M.,
Shih, H.H., & Lightner, D.V., 2003. Geographic
variations among infectious hypodermal and
hematopoietic necrosis virus (IHHNV) isolates
and characteristics of their infection. Dis. Aquat.

Org 53, 91–99.

Primavera, J.H., Quinitio, E.T., 2000. Runt-deformity
syndrome in cultures of the giant tiger prawn
Penaeus monodon. J. Crust. Biol. 20, 796–802.
Rhode, S.L., 1985. Trans-activation of parvovirus
P38 promoter by the 76K nucelocapsid protein. J.
Virol 55, 886–889.
Rai, P., Safeena, M,P., Karunasagar, I., Karunasagar,
I., 2009. Simultaneous presence of infectious
hypodermal and hematopoietic necrosis virus
(IHHNV) and Type A virus-related sequence in

Walker, P.J., and Winton, J.R., 2010. Review: Emerging
viral diseases of fish and shrimp. Vet. Res 41, 51.
Withyachumnarnkul, B., Chayaburakul, K., Supak,
L.A., Plodpai, P., Sritunyalucksana, K., Nash,
G., 2006. Low impact of infectious hypodermal
and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) on
growth and reproductive performance of Penaeus
monodon, Dis. Aquat. Org 69, 129–136.
Zhang, J.X., Sun, X.Q., 1997. A preliminary study on the
virus in the eggs of Penaeus chinensis. Oceanogr.
Huanghai and Bohai Seas 15 (1), 48–51.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014

109




×