Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2016
THÔNG BÁO KHOA HỌC
PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG SINH LỢI CỦA NGHỀ NUÔI THÂM CANH
TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI
PROFITABILITY ANALYSIS FOR THE INTENSIVE WHITE LEG SHIRMP FARMING
IN QUANG NGAI PROVINCE
Lê Kim Long1, Phạm Thị Thanh Bình2
Ngày nhận bài: 27/02/2016; Ngày phản biện thơng qua: 16/5/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016
TĨM TẲT
Nghiên cứu đo lường khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi
dựa trên các chỉ tiêu: (i) thặng dư của người sản xuất, (ii) lợi nhuận của người sản xuất, (iii) lợi nhuận rịng.
Mẫu khảo sát gồm 62 hộ ni với diện tích là 45 ha chiếm tỉ lệ khoảng 23% tổng diện tích ni tơm thẻ chân
trắng thâm canh của Quảng Ngãi. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân
trắng ở Quảng Ngãi là tương đối hấp dẫn đối với các nhà sản xuất nhưng dưới lăng kính bền vững thì nghề
ni này đã bắt đầu bước vào trạng thái bão hòa, phần lớn sự hấp dẫn của ngành đến từ việc chưa tính tốn
đến ngoại tác tiêu cực ra mơi trường. Hơn nữa, với thực trạng công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện tại ở Quảng
Ngãi, kết quả khảo sát cho thấy nuôi tôm thâm canh với mật độ cao hơn 150 con/m2 mặc dù có xu hướng cho
doanh thu lớn nhưng khả năng sinh lợi lại thấp và đặc biệt lượng ô nhiễm phát thải cũng rất lớn. Đây chính
là thời điểm các nhà quản lý cần nghiên cứu và ban hành các chính sách nhằm từng bước nội sinh hóa chi phí
mơi trường vào q trình sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp và bền vững. Các hỗ trợ người
nuôi như phát triển công nghệ, triển khai kỹ thuật nuôi và hỗ trợ vốn sản xuất cũng là những giải pháp cần
được chú trọng.
Từ khóa: khả năng sinh lời, tôm thẻ chân trắng, nuôi thâm canh, Quảng Ngãi
ABSTRACT
This study analyzes profitability for the intensive white leg shrimp farming in Quang Ngai province based
on 3 indicators: (i) producer’s surplus, (ii) producer’s profit and (iii) net profit per ha. A total of 62 shrimp
farmers praticing intensive aquaculture with the area of 45 ha (about 23% of the intensive white leg shrimp
farming in Quang Ngai province) were randomly surveyed. The result shows that the intensive white leg
shrimp farming in Quang Ngai province is quite promising for producers if the negative effect on environment
is neglecged. The steady state due to open-acess mechanism for this aquaculture has, however, been reached.
Furthermore, given existing technology, although farmimg with high density (above 150 individuals per m2)
has more revenue, its profitability is rather low – expencially inducing more poluttion. For sustainable
development, policies for endogenousing environment costs into production process should be considered
by policy makers and managers. Farmer supports such as technology development, technique training and
finance are also focussed.
Keywords: profitability, white shrimp, intensive farming, Quang Ngai
, Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang
1 2
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2001, tôm thẻ chân trắng đã bắt
đầu trở thành đối tượng nuôi quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế vùng duyên hải, Việt
Nam. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tập trung
chủ yếu ở các tỉnh miền trung và khu vực đồng
bằng sơng Mê-Kơng với diện tích ni gia tăng
nhanh chóng từ 13.455 hecta năm 2005 tới
22.192 hecta năm 2010 [8]. Đặc biệt, theo dữ
liệu của VASEP, trong năm 2012, mặc dù diện
tích ni tơm thẻ chân trắng chỉ chiếm 5,9%
diện tích ni thủy sản cả nước (hay 38.169
ha) nhưng sản lượng đạt tới 27,3% tổng sản
lượng ni cả nước (177.817 tấn) [11]. Đến
năm 2014, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng cả
nước đã đạt 98.866 ha (tính theo vụ ni) với
tổng sản lượng là 324.581 tấn [9].
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đầu
tiên trong cả nước phát triển nuôi tôm thẻ
chân trắng thương phẩm. Từ năm 2005 đến
năm 2011, diện tích ni tơm thẻ chân trắng
gia tăng nhanh chóng từ 190 ha lên 450 ha
(tính theo vụ ni) và chiếm 97,5% diện tích
ni trồng của tồn tỉnh trong năm 2011. Đến
năm 2014, tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân
trắng của Quảng Ngãi đạt 1.029 ha (tính theo
vụ ni). Trong đó, tổng diện tích ni tơm
thẻ chân trắng thâm canh của Quảng Ngãi
đạt 426 ha (tính theo vụ ni) hay 193 ha tính
theo diện tích mặt nước ni (bình qn 2.2
vụ/năm) trong năm 2014 [7]. Việc dịch chuyển
nhanh chóng từ nghề ni tơm sú sang tơm thẻ
chân trắng là một xu thế tất yếu của người nuôi
chuyển từ đối tượng rủi ro cao, sang đối tượng
nuôi mới ít rủi ro hơn [7].
Sự dịch chuyển từ ni tôm sú sang tôm
thẻ chân trắng bước đầu đã mang lại nhiều
thành công. Tuy nhiên, việc chạy đua theo
lợi nhuận, thiếu quy hoạch và không tuân thủ
các quy định (mùa vụ ni, chất lượng giống,
mật độ, quy trình chuẩn bị ao, các biện pháp
phòng trị bệnh, xả thải sau khi nuôi) đã làm gia
tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh và gây thiệt
hại đáng kể cho nhiều người nuôi trên khắp
cả nước. Martinez & Leung (2004) và Bunting
Số 2/2016
(2013) chỉ ra rằng nguồn gốc gây ô nhiễm trong
nuôi tôm là là Ni-tơ và Phốt-pho phát thải (chủ
yếu là Ni-tơ) do dùng thức ăn ni tơm q
mức. Đây chính là ngun nhân làm thay đổi
hệ sinh thái và ô nhiễm nguồn nước [1, 4]. Hiện
nay, nghề nuôi trồng thủy sản vẫn được xem là
sinh kế của người nghèo ở Việt Nam cũng như
phần lớn các nước đang phát triển ở Châu Á
[1]. Do vậy, vấn đề tính tốn chi phí làm sạch
môi trường do chất thải của nghề nuôi cũng
như xác định đối tượng phải trả chi phí này vẫn
chưa được quan tâm ở Việt Nam cũng như các
nước đang phát triển ở Châu Á [6]. Với nghề
nuôi tôm thẻ chân trắng có quyền tiếp cận mở
và việc dịch chuyển tự phát trong những năm
qua, câu hỏi về tính bền vững của nghề nuôi
thẻ chân trắng trở nên rất quan trọng đối với
các nhà quản lý của Quảng Ngãi.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản
lý cũng như các chủ hộ nuôi là khả năng sinh
lợi của nghề nuôi. Dù vậy, khía cạnh tiếp cận
và mối quan tâm lại khơng đồng nhất. Từ giác
độ vi mô, các hộ nuôi tôm thường quan tâm
nhất đến mục tiêu khả năng sinh lợi của nông
hộ. Ở phạm vi quản lý ngành, các nhà hoạch
định chính sách phải quan tâm cả mục tiêu
hiệu quả về mặt kinh tế của nghề nuôi, đồng
thời phải bảo vệ tài nguyên môi trường thiên
nhiên để đảm bảo sự phát triển bền vững trong
dài hạn. Do đó, phân tích khả năng sinh lợi của
nghề ni ở các góc độ tiếp cận khác nhau là
một nhu cầu bức thiết và phải thực hiện ngay
nhằm giúp các nhà quản lý khuyến cáo chủ
trang trại và đề ra các biện pháp, chính sách
nhằm phát triển nghề ni bền vững.
Việc phân tích khả năng sinh lợi của các
đơn vị sản xuất từ các giác độ tiếp cận khác
nhau nhằm đề xuất các chính sách phát triển
bền vững đã được áp dụng rất rộng rãi để
trong ngành ni trồng thủy sản. Ví dụ, Folke
(1994) cho nghề nuôi cá hồi ở Thụy Điển [3];
Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi biển
ở Chi-lê [2]; và Irz & Mckenzie (2003) cho các
hộ nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Pampaanga,
Philippines [5].
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Mục tiêu của nghiên cứu này là: phân tích
khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh
tôm thẻ chân trắng thương phẩm của tỉnh
Quảng Ngãi dưới cả góc độ quan tâm của nhà
sản xuất cũng như các nhà quản lý ngành để
đề xuất một số khuyến nghị cho chính quyền
và chủ nơng hộ nhằm phát triển nghề nuôi
bền vững.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu về khả năng sinh lợi với quy
trình như sau [10]:
Tổng doanh thu
- Chi phí biến đổi
= Thặng dư của nhà sản xuất
- Chi phí cố định
= Lợi nhuận của nhà sản xuất
- Chi phí mơi trường
= Lợi nhuận rịng
Khả năng sinh lợi của trại nuôi trong nghiên
cứu được đo lường bằng các chỉ số: Thặng dư
của nhà sản xuất/ha; Lợi nhuận sản xuất/ha và
Lợi nhuận rịng/ha [10].
Chi phí mơi trường được tính chính là
chi phí cần bỏ ra để xử lý (làm sạch) hồn
tồn chất gây ơ nhiễm (xem Folke, 1994;
Buschmann và ctg, 1996) [2, 3]. Theo Martinez
& Leung (2004), lượng Ni-tơ phát thải gây ô
nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến việc ni tơm
được tính theo cơng thức [4]:
Ni-tơ gây ô nhiễm = Ni-tơ trong thức ăn Ni-tơ tích lũy trong tôm - Ni-tơ bay hơi
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang
phát triển nói chung, nghề ni tơm vẫn được
xem là sinh kế của người dân ven biển và
được khuyến khích phát triển nên chi phí mơi
trường do phát thải ô nhiễm chưa được quan
tâm đúng mức. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu
nào cơng bố chi phí làm sạch Ni-tơ phát thải
gây ô nhiễm của nghề nuôi trồng ở Việt Nam
hay các nước Châu Á [6]. Do vậy, nghiên cứu
này sử dụng mức chi phí trung bình để xử lý
34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 2/2016
1 kg Ni-tơ gây ô nhiễm trong nghề nuôi là 9,6
USD (giá trị nhỏ nhất là 6,4 USD và lớn nhất
là 12,8 USD) được tính tốn trong nghiên
cứu của Folke (1994) để phân tích khả năng
sinh lợi của nghề ni tơm thẻ chân trắng của
Quảng Ngãi [3]. Nhiều nghiên cứu cũng đã
sử dụng kết quả của Folke (1994) trong phân
tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi trồng như
Buschmann và ctg (1996) cho nghề nuôi cá
biển ở Chi-Lê và Ly (2009) cho nghề nuôi tôm
hùm ở Miền trung, Việt Nam [2, 6].
Hơn nữa, Ly (2009) cũng áp dụng cách
tiếp cận đối chứng bằng cách tính tốn ảnh
hưởng của Ni-tơ phát thải đến năng suất của
nghề ni tơm hùm để tìm ra “chi phí ẩn của
Ni-tơ ô nhiễm”. Kết quả nghiên cứu cho thấy
với mức giá tơm hùm bình qn giao động
từ 21,4 - 45,2 USD/kg trong giai đoạn 2007 2009, chi phí ẩn của 1 kg Ni-tơ ô nhiễm giao
động từ 9,9 - 21 USD. Cách tiếp cận này cho
thấy mức chi phí môi trường do Ni-tơ ô nhiễm
cao hơn nghiên cứu của Folke (1994) và phụ
thuộc vào mức giá tôm hùm trên thị trường [6].
2. Dữ liệu nghiên cứu
2.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu
Đối tượng khảo sát là các hộ nuôi tôm thẻ
chân trắng tại tỉnh Quảng Ngãi, số lượng hộ
nghiên cứu là 62 với tổng diện tích là 45ha
chiếm khoảng 23% tổng diện tích ni tơm
thẻ chân trắng thâm canh toàn tỉnh trong
năm 2014.
2.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản bằng cách dựa vào danh sách các hộ nuôi
thâm canh tôm thẻ chân trắng, sau đó rút thăm
ngẫu nhiên khơng lặp lại từ danh sách lập để
chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu thập
bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ.
3. Phương pháp phân tích dữ liệu
Mơ tả thống kê các chỉ số khả năng sinh lợi
tiêu biểu trong phân tích kinh tế là: (i) Thặng dư
của người sản xuất/ha; (ii) Lợi nhuận của nhà
sản xuất/ha và Lợi nhuận ròng/ha.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2016
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Đặc điểm của mẫu
Bảng 1. Thống kê mơ tả mẫu
Tiêu chí
ĐVT
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Giá trị lớn nhất
Giá trị nhỏ nhất
Diện tích/hộ
ha
0,74
0,54
3,00
0,20
Mật độ ni
con/m
144
60
330
60
Năng suất/năm
tấn/ha
22,86
8,58
45,00
8,00
Số ngày nuôi/vụ
ngày
78
8
95
55
vụ
2,18
0,43
3,00
1,00
Số vụ/năm
2
năm 2014 của Quảng Ngãi (xem [7]). Việc thiết
kế mẫu và kết quả của mẫu khảo sát đã được
tham khảo với các chuyên gia của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nơng thơn Quảng Ngãi.
Tính đại diện của mẫu, vì vậy, đảm bảo cho
việc suy diễn cho tổng thể nghiên cứu.
Bảng 1 mô tả đặc trưng của mẫu nghiên
cứu. Kết quả của mẫu cho thấy các hộ nuôi ở
Quảng Ngãi có đặc điểm chính là: (i) diện tích
bình quân là 0,74 ha (giá trị nhỏ nhất 0,2 ha
và lớn nhất là 3 ha); (ii) mật độ ni bình quân
là 144 con/m2 (giá trị nhỏ nhất 60 và lớn nhất
là 330); (iii) năng suất bình quân năm là 22,86
tấn/ha (giá trị nhỏ nhất 8 và lớn nhất là 45 tấn);
(iv) số vụ ni bình qn trong năm là 2,18 (giá
trị nhỏ nhất 1 và lớn nhất là 3 vụ). Các đặc
điểm này của mẫu có mức độ tương thích cao
với Báo cáo về tình hình sản xuất tơm nước lợ
2. Phân tích khả năng sinh lợi
Kết quả về khả năng sinh lợi của nghề
nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm tại tỉnh
Quảng Ngãi năm 2014 được trình bày như
trong bảng 2.
Bảng 2. Thống kê mô tả khả năng sinh lợi của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng
Quảng Ngãi trong năm 2014
(ĐVT: Triệu VNĐ)
Tiêu chí
Trung bình
Độ lệch chuẩn Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất
1. Doanh thu/ha
2783
1107
5625
721
2. Chi phí biến đổi/ha
1956
702
3993
738
3. Thặng dư của nhà sản xuất/ha (3) = (1)-(2)
827
616
2049
-510
4. Chi phí cố định/ha
519
150
840
190
5. Lợi nhuận của người sản xuất/ha
307
561
1331
-1188
8. Ni-tơ gây ơ nhiễm (kg)
719
352
1775
196
9. Chi phí mơi trường/ha
145
71
358
39
10. Lợi nhuận rịng/ha
162
543
1214
-1316
(Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra).
Theo lý thuyết kinh tế, các nhà sản xuất
thường đưa ra quyết định tiếp tục sản xuất
hay dừng lại trong ngắn hạn dựa trên cơ sở
thặng dư của người sản xuất. Trong ngắn hạn,
nếu thặng dư sản xuất lớn hơn định phí thì
lợi nhuận của người sản xuất dương nên dĩ
nhiên doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất; thặng
dư sản xuất dương và nhỏ hơn định phí thì
doanh nghiệp vẫn nên tiếp tục sản xuất vì định
phí vẫn được bù đắp một phần; thặng dư sản
xuất âm thì doanh nghiệp nên dừng sản xuất
[10]. Bảng 2 cho thấy thặng dư của người
sản xuất trung bình là 827 triệu đồng/ha và rõ
ràng lớn hơn định phí (519 triệu đồng), với giá
trị nhỏ nhất là -510 triệu đồng/ha, giá trị lớn
nhất là 2049 triệu đồng/ha, độ lệch chuẩn là
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
616 triệu đồng. Kết quả này cho thấy (i) nghề
nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi vẫn sẽ
tiếp tục duy trì tái sản xuất (thặng dư sản xuất
bình quân/hec-ta của nghề dương) dù một số
trang trại ni có thể sẽ dừng sản xuất (khoảng
13% số hộ nuôi, xem bảng 3).
Chỉ số lợi nhuận sản xuất trên tài sản đầu
tư là chỉ số tổng hợp và quan trọng nhất để
đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của một
doanh nghiệp hay một ngành sản xuất. Chỉ số
này càng cao cho thấy hiệu quả của họat động
sản xuất càng lớn, và do vậy thành quả cho nỗ
lực đầu tư và chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư
càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích và tạo điều
kiện cho nhà đầu tư mở rộng sản xuất trong
dài hạn [10]. Để đơn giản, nghiên cứu này sử
dụng chỉ số lợi nhuận của nhà sản trên một
đơn vị diện tích (ha) để tính tốn và đánh giá
hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi. Mặc dù đây
không phải là chỉ số tốt nhất để đo lường hiệu
quả sản xuất của các hộ nuôi, nhưng đây là chỉ
số rất thường được sử dụng trong phân tích
hiệu quả sản xuất trong ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp hay thủy sản - khi mà đất đai là
tài nguyên rất quan trọng trong q trình sản
xuất (xem [5]). Kết quả tính tốn trong bảng 2
cho thấy lợi nhuận bình quân của người sản
xuất/ha của nghề nuôi tôm ở Quảng Ngãi trong
Số 2/2016
năm 2014 là 307 triệu đồng, giá trị nhỏ nhất
là - 1188 triệu đồng/ha, giá trị lớn nhất là 1331
triệu đồng/ha. Kết quả tính tốn cho thấy có
sự chênh lệch lớn giữa giá trị nhỏ nhất và giá
trị lớn nhất về lợi nhuận của nhà sản xuất thu
được trên mỗi ha, đồng thời với độ lệch chuẩn
lớn đã thể hiện sự khác biệt về hiệu quả kinh
tế của việc nuôi tôm thẻ chân trắng giữa các
nông hộ là rất lớn. Điều này ngụ ý nghề ni
tơm thẻ chân trắng này có mức độ độ rủi ro cao
(khoảng 29% hộ có lợi nhuận âm, xem bảng 3)
nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi có
giá trị lợi nhuận lớn.
Cụ thể hơn, với chu kỳ ni bình qn
là 2,18 vụ trong năm 2014, lợi nhuận bình
quân của người sản xuất là 307/2,18 = 140
triệu đồng cho mỗi vụ nuôi (khoảng 3 tháng).
Tổng chi phí sản xuất cho mỗi vụ ni (một
chu kỳ sản xuất) là (1956 + 519)/2,18 = 1135
triệu đồng. Do vậy, tỉ suất lợi nhuận bình
quân trên tổng chi phí sản xuất của cho 01 vụ
ni là 12%. Với lãi suất bình quân vay ngân
hàng (trung bình của thời kỳ 2013-2015) cho
sản xuất là 1% cho 01 tháng thì tỉ suất lợi
nhuận của nhà sản xuất thực tế thu được
bình quân là 3% mỗi tháng. Đây là mức tỷ
suất lợi nhuận khá hấp dẫn các nhà sản xuất
ở Quảng Ngãi.
Bảng 3. Thống kê tình hình các hộ ni tơm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi năm 2014
Tiêu chí
Số hộ (hộ)
Tần suất (%)
Số hộ có thặng dư âm
8
13
Số hộ có thặng dư dương
54
87
Số hộ có lợi nhuận âm
18
29
Số hộ có lợi nhuận dương
44
71
Số hộ có lợi nhuận rịng âm
23
37
Số hộ có lợi nhuận rịng dương
39
63
Thặng dư của người sản xuất
Lợi nhuận của người sản xuất
Lợi nhuận rịng
(Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra)
36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Phát triển bề vững nghĩa là các hoạt động
kinh tế hiện tại không làm ảnh hưởng tới
các hoạt động kinh tế ngày mai và cả trong
dài hạn. Do vậy, bên cạnh các đầu ra mong
muốn, rất nhiều nhà nghiên cứu đã kêu gọi
các nhà quản lý và các nhà sản xuất cần
quan tâm đến các đầu ra khơng mong muốn
của q trình sản xuất (còn được gọi là ngoại
tác tiêu cực, xem [10]). Thực tế, các nhà sản
xuất thường ít quan tâm đến ngoại tác tiêu
cực nếu các nhà quản lý không có những
hành động/chính sách bắt buộc các nhà sản
xuất phải nội sinh hóa các ngoại tác này vào
q trình sản xuất [10].
Đầu ra không mong muốn đối với nghề
nuôi tôm chủ yếu là Ni-tơ phát thải từ thức
ăn [1, 4]. Khác với các ngành sản xuất công
nghiệp (xi măng, giấy), chính Nitơ dư thừa này
Số 2/2016
lại là tác nhân gây ô nhiễm môi trường và ảnh
hưởng trực tiếp đến nghề nuôi tôm trong cả
ngắn và dài hạn. Như vậy, Ni-tơ gây ô nhiễm
không chỉ đơn thuần là ngoại tác tiêu cực (chỉ
tác động đến các đối tượng bên ngoài). Do đó,
hoạch tốn chi phí mơi trường là cần thiết cho
nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi.
Nghiên cứu này đã áp dụng cách tiếp cận tính
chi phí mơi trường Folke (1994), Buschmann &
ctg (1996) và Martinez & Leung (2004) để xử
lý Ni-tơ gây ô nhiễm [2, 3&4]. Kết quả nghiên
cứu cho thấy lượng Ni-tơ gây ơ nhiễm bình
qn trên 1 ha nuôi tôm thẻ ở Quảng Ngãi là
719 kg với chi phí xử lý ơ nhiễm bình qn cần
145 triệu đồng. Như vậy, lợi nhuận rịng thực
sự từ góc nhìn của các nhà quản lý cho mỗi ha
ni tơm thẻ chân trắng ở Quảng Ngãi là 162
triệu đồng trong năm 2014.
Hình 1. Lợi nhuận rịng trên 1ha của 62 hộ ni tơm thẻ chân trắng
Với chu kỳ ni bình qn là 2,18 vụ/năm,
lợi nhuận rịng bình qn/ha là 162/2,18 = 74
triệu đồng cho mỗi vụ ni. Tổng chi phí sản
xuất cho mỗi vụ nuôi (một chu kỳ sản xuất) là
(1956 + 519 + 145)/2,18 = 1202 triệu đồng. Do
vậy, tỉ suất lợi nhuận bình qn trên tổng chi
phí sản xuất của mỗi ha cho 1 vụ nuôi là 6,2%.
Với lãi suất bình quân vay ngân hàng cho sản
xuất là 1% cho 1 tháng (trung bình của thời kỳ
2013-2015) thì tỉ suất lợi nhuận của nhà sản
xuất thực tế thu được bình quân chỉ là 1,1%
mỗi tháng. Đây là mức tỷ suất lợi nhuận chỉ
tương đương mức chi phí cơ hội (gần bằng lãi
suất cho vay của ngân hàng). Hơn nữa, bảng
3 cũng cho thấy, nếu tính cả phí mơi trường, có
tới 37% số hộ lỗ. Hình 1 cũng cho thấy phần
lớn các hộ có mức lợi nhuận rịng/ha giao động
xung quanh và tương đối đối xứng quanh mức
giá trị trung bình. Kết quả này rất tương thích
với lý thuyết kinh tế về các ngành sản xuất có
quyền tiếp cận mở ở trạng thái bão hịa (ví dụ
như nghề đánh bắt cá) [10].
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 37
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2016
Bảng 4. So sánh khả năng sinh lợi cho 2 phân khúc
Mật độ<=150
(39 hộ nuôi)
Mật độ >150
(23 hộ nuôi)
Chênh lệch
1. Doanh thu/ha
2635
3033
398
2. Chi phí biến đổi/hec-ta
1772
2267
495
862
766
(96)
Tiêu chí
3. Thặng dư của nhà sản xuất/ha
(3) = (1)-(2)
4. Chi phí cố định/ha
516
525
9
5. Lợi nhuận của nhà sản xuất/ha
346
241
(105)
8. Ni-tơ gây ô nhiễm (kg)
626
876
250
9. Chi phí mơi trường
126
177
39
10. Lợi nhuận rịng
220
64
(156)
(Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra)
Trên góc độ kỹ thuật, Bộ Nơng nghiệp
và Phát triển nông nông cũng như Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ngãi
thường khuyến cáo người dân không nên nuôi
tôm thẻ chân trắng quá mật độ 150 con/m2. Dù
vậy, thực tiễn nuôi tôm thẻ ở Quảng Ngãi và
mẫu cho thấy có tới 37% hộ ni vượt q mật
độ khuyến cáo. Lý giải hành vi này là người
nuôi đã cố gắng tối đa hóa doanh thu sản xuất
(hoặc năng suất) với doanh thu bình quân
3.033 triệu đồng/ha cho mật độ trên 150 con/
m2 (nhóm 2) so với 2.635 triệu đồng/ha cho
mật độ dưới 150 con (nhóm 1). Đây là hành vi
của nhà sản xuất thường thấy trong sản xuất
nông nghiệp khi các nhà sản xuất không tạo
được ảnh hưởng lên giá các yếu tố đầu vào
và đầu ra.
Phân tích sâu hơn cho thấy lợi nhuận bình
quân của nhà sản xuất/ha của nhóm 2 nhỏ hơn
nhóm 1 tới 105 triệu đồng (bảng 4). Nguyên
nhân là việc nuôi với mật độ quá cao sẽ dẫn
đến việc lãng phí các yếu tố đầu vào khi mà chi
phí cố định (đại diện cho công nghệ và mức độ
đầu tư vào sản xuất) gần như khơng đổi giữa
hai nhóm. Hơn nữa, việc lãng phí các yếu tố
đầu vào (đặc biệt là thức ăn) đã làm mức độ
Ni-tơ phát thải gây ơ nhiễm ở nhóm 2 cao hơn
nhóm 1 (tới 250 kg N). Cuối cùng, lợi nhuận
rịng bình qn/ha của nhóm 1 đã gấp 3,4 lần
nhóm 2.
38 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, với giác
độ của nhà sản xuất, nghề nuôi tôm thẻ chân
trắng tại tỉnh Quảng Ngãi hiện tương đối hấp
dẫn. Nghề ni này có đủ khả năng tái sản xuất
trong ngắn hạn (thặng dư tương đối tốt) cũng
như mở rộng sản xuất trong dài hạn (tỷ suất lợi
nhuận khá hấp dẫn). Dù vậy, đây cũng là nghề
sản xuất có mức rủi ro tương đối cao (29% hộ
ni có lợi nhuận của nhà sản xuất âm).
Dưới lăng kính phát triển bền vững, chi phí
mơi trường đã được ước lượng để tính tốn lợi
nhuận rịng của nghề ni tơm thẻ chân trắng
ở tỉnh Quảng Ngãi năm 2014. Với giả thiết chi
phí làm sạch 1 kg Ni-tơ phát thải ô nhiễm là
9,6 USD (thấp hơn mức chi phí ẩn của Ni-tơ
ơ nhiễm theo tính tốn của Ly (2009) cho nghề
ni tơm hùm ở Miền trung, Việt Nam [6]), kết
quả cho thấy nghề nuôi tơm thẻ của Quảng
Ngãi hiện đã xuất hiện tín hiệu về trạng thái
cân bằng dài hạn (bão hòa) với thể chế quả
lý nghề ni có quyền tiếp cận mở, tức tỉ suất
sinh lợi của nghề đã gần mức chi phí cơ hội của
thị trường. Folke (1994) và Buschmann&ctg
(1996) cũng tìm thấy kết quả tương tự cho
nghề nuôi cá hồi ở Thụy Điển và nghề nuôi
cá biển Chi-lê [2, 3]. Kết quả này hàm ý rằng
sự hấp dẫn hiện tại của nghề ni chính là sự
“ăn lạm vào tương lai” hay do chưa tính đến
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
ngoại tác tiêu cực. Mặt khác, chính Ni-tơ dư
thừa này lại là tác nhân gây ô nhiễm môi trường
và ảnh hưởng trực tiếp đến nghề nuôi tôm trong
cả ngắn và dài hạn. Như vậy, tác động đến môi
trường của nghề nuôi này cần được phổ biến,
tính tốn và có giải pháp khắc phục nhằm duy
trì và phát triển nghề ni bền vững.
Nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng
thực nghiệm cho khuyến cáo của các nhà quản
lý về mật độ nuôi tôm thẻ chân trắng vùng Nam
Trung Bộ. Với thực trạng công nghệ sản xuất
hiện tại ở Quảng Ngãi, kết quả khảo sát cho
thấy nuôi tôm với mật độ cao hơn 150 con/m2
mặc dù có xu hướng cho doanh thu lớn nhưng
mức độ lãng phí trong việc sử dụng các nguồn
lực đầu vào tương đối cao. Hơn nữa, lượng ô
nhiễm phát thải cũng rất lớn. Kết quả là mức
lợi nhuận rịng bình qn là tương đối thấp so
với nuôi mật độ ở mức vừa phải.
Cuối cùng, trong giới hạn của bài báo này,
nghiên cứu còn một số hạn chế cần tiếp tục
được giải quyết ở các nghiên cứu sau. Thứ
nhất, nghiên cứu đã sử dụng kết quả xử lý
Ni-tơ phát thải gây ô nhiễm được tính tốn bởi
Folke (1994) cho nghề ni cá hồi của Thụy
Điển để cảnh báo chính quyền và các hộ ni
về tính bền vững của nghề ni tơm thẻ chân
trắng ở Quảng Ngãi. Lưu ý rằng chi phí về xử
lý Ni-tơ phát thải gây ơ nhiễm có thể sẽ khác
với điều kiện thực tế ở Quảng Ngãi do sự khác
biệt về điều kiện về công nghệ và mức sống
dân cư. Các nghiên cứu kế tiếp nên thiết lập
mơ hình xử lý chất thải thực tế để có các kết
quả chính xác hơn. Thứ hai, Phốt-pho phát thải
gây ơ nhiễm (dù nhỏ) cũng cần được tính tốn
vào chi phí mơi trường. Thứ ba, để đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm gia tăng tính bền vững
của nghề ni, mơ hình hồi quy phân tích các
nhân tố về đặc điểm nơng hộ ảnh hưởng đến
khả năng sinh lợi dưới các góc độ khác nhau
nên được áp dụng cho nghề nuôi tôm thẻ chân
trắng ở Quảng Ngãi.
Số 2/2016
2. Kiến nghị
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù
nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng ở
Quảng Ngãi hiện tương đối hấp dẫn các nhà
sản xuất nhưng dưới lăng kính bền vững thì
nghề ni này đã bắt đầu bước vào trạng thái
bão hịa, phần lớn sự hấp dẫn của ngành
đến từ việc chưa tính tốn đến ngoại tác tiêu
cực ra mơi trường. Khác với các ngành sản
xuất công nghiệp như xi măng hay giấy, chính
Ni-tơ dư thừa này lại là tác nhân gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến nghề
nuôi tơm trong cả ngắn và dài hạn. Chính vì
thế, các nhà quản lý, nhà khoa học và các tổ
chuyên môn và đặc biệt là trung tâm Khuyến
nơng có thể sử dụng thông tin từ nghiên cứu
này để khuyến cáo người nuôi nhằm giúp
hiểu rõ bản chất khả năng sinh lợi trong sản
xuất. Kiến thức này sẽ giúp người nuôi quản
trị q trình ni tốt hơn và có các quyết định
chính xác về đầu tư trong ngắn và dài hạn
nhằm đạt được sự phát triển bền vững của
nghề nuôi. Đây cũng chính là thời điểm các
nhà quản lý cần nghiên cứu và ban hành các
chính sách nhằm từng bước nội sinh hóa
chi phí mơi trường vào q trình sản xuất
để tiến tới một nghề nuôi chuyên nghiệp và
bền vững. Các giải pháp cụ thể có thể là: (i)
ban hành tiêu chuẩn nghề nuôi và cấp giấy
phép sản xuất; (ii) đánh thuế mơi trường; (iii)
hình thành thị trường giấy phép có khả năng
chuyển nhượng; (iv) thành lập các hợp tác
xã (HTX) sản xuất có vùng xử lý nước thải
chung; (iv) Quy hoạch vùng xử lý nước thải
bắt buộc và tập trung,…Bên cạnh đó, các hỗ
trợ người ni như phát triển cơng nghệ, tập
huấn kỹ thuật và vốn sản xuất cũng là các vấn
đề cần quan tâm.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2016
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bunting, S. W. (2013). Principles of sustainable aquaculture: promoting social, economic and environmental
resilience. Routledge.
2.
Buschmann, A. H., López, D. A., & Medina, A. (1996). A review of the environmental effects and alternative
production strategies of marine aquaculture in Chile. Aquacultural engineering, 15(6), 397-421.
3.
Folke, C., Kautsky, N., & Troell, M. (1994). The costs of eutrophication from salmon farming: implications for
policy. Journal of environmental management, 40(2), 173-182.
4.
Martinez-Cordero, F. J., & Leung, P. (2004). Sustainable aquaculture and producer performance: measurement
of environmentally adjusted productivity and efficiency of a sample of shrimp farms in Mexico. Aquaculture,
241(1), 249-268.
5.
Irz, X., & Mckenzie, V. (2003). Profitability and technical efficiency of aquaculture systems in Pampaanga,
Philippines. Aquaculture Economics & Management, 7(3-4), 195-211.
6.
Ly, N. T. Y (2009). Economic analysis of the environmental impact on marine cage lobster aquaculture in Viet
Nam. MSc thesis, University of Tromso, Noway.
7.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn Quảng Ngãi (2014). Tình hình sản xuất, ni trồng thủy sản năm 2013
và Kế hoạch và các giải pháp năm 2014. Quảng Ngãi, Việt Nam.
8.
Tổng cục Thủy sản Việt Nam (2012). Báo cáo tóm lược về kế hoạch phát triển nghề cá Việt nam đến 2020 và
tầm nhìn 2030. Hà Nội, Việt Nam.
9.
Tổng cục Thủy sản Việt Nam (2015). Tổng kết nuôi tôm nước lợ năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ năm
2015. Hà Nội, Việt Nam
10. Varian, H. R., & Repcheck, J. (2010). Intermediate microeconomics: a modern approach (Vol. 6). New York,
NY: WW Norton & Company.
11. VASEP (2013). Báo cáo về tình hình xuất khẩu tơm năm 2012 và dự báo cho năm 2013. Hà Nội, Việt Nam.
40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG