Đề tài: Tìm hiểu về phong tục giỗ tổ Hùng Vương của người Việt từ xưa đến
nay và phân tích tiền đề văn hóa hình thành nên tục giỗ tổ Hùng Vương của người
Việt.
MỞ ĐẦU
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa
sắc thái văn hóa, một nền văn hóa phong phú và cực kỳ đa dạng trên tất cả các khía
cạnh. Người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp
lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng. Những niềm tin bền
vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tơn
giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống
đến hiện đại của văn học nghệ thuật.
Cùng với sự thay đổi của thời gian, thăng trầm của lịch sử. Đã có nhiều phong
tục tập quán dần mai một đi hoặc được cải tiến bằng những văn hóa hiện đại du
nhập từ các nước phương Tây. Từ điển Hán- Việt đã định nghĩa rõ ràng về “Phong
tục” như sau: “Phong” là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và “Tục” là những thói
quen tồn tại lâu đời. Chính vì vậy, những phong tục tập qn ở Việt Nam đã có
hàng nghìn năm tuổi thọ và trở thành luật tục, in hằn và gắn chặt với đời sống cũng
như tiềm thức của các thế hệ người dân.
Hẳn chúng ta đã đều quá quen thuộc với câu ca dao: “Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày Giỗ tổ mùng mười tháng ba”, và hễ nhắc đến câu ca dao này là người
người ai cũng nhớ đến ngày Giỗ tổ Hùng Vương. Đây là một trong những lễ hội
lớn mang tính chất quốc gia, được tổ chức hàng năm nhằm để tưởng nhớ các vua
Hùng đã có cơng dựng nước. Không biết từ bao giờ, phong tục giỗ tổ Hùng Vương
đã trở thành một truyền thống văn hóa tồn quốc. Cứ vào mùa xuân là lễ hội diễn
ra và kéo dài từ mùng 8-11/03 âm lịch, trong đó mùng 10 là chính hội. Để hiểu rõ
hơn về lễ hội này, ta hãy tìm hiểu tiền đề văn hóa của phong tục giỗ tổ Hùng
Vương dưới góc nhìn văn hóa để thấy được nét đẹp phong tục mang tính chất quốc
gia này của người dân Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Nguồn gốc về phong tục giỗ tổ Hùng Vương.
Nguồn gốc lịch sử ngày giỗ tổ 10/03 được rất nhiều thế hệ trẻ quan tâm và
muốn tìm hiểu. Mỗi khi tới dịp ngày giỗ tổ Hùng Vương, bầu không khí tồn quốc
lại rộn ràng từng bừng. Là người dân Việt Nam, bạn không thể không biết câu ca
dao sau:
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm"
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng nơi cội nguồn của dân
tộc, của đất nước ln là biểu tượng tơn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với
dân tộc Việt Nam.
Đền Hùng Phú Thọ
Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là
xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ
chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi
Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu
Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu
rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù
Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng
10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu
của quốc gia Văn Lang xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các
Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ
người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3
âm lịch tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ
hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của
dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng và kết thúc vào ngày 10
tháng 3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương trên Đền Thượng.
Hình ảnh Lễ dâng hương Đền Hùng vào năm 1904.
Từ xa xưa lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người
Việt Nam. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời
vua Lê Kính Tơng năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng:
"...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là
Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa.
Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn khơng thay
đổi...". Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý
Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm
Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng,
miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê
Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày mùng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm làm
ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do
Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940)
cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: "Trước đây, ngày Quốc tế
lấy vào mùa thu làm định kỳ.
Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là
Lê Trung Ngọc có cơng văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng
năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày.
Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ". Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền
Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều về thăm
viếng. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức "uống nước nhớ
nguồn", ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của
Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ
ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng
Vương - hướng về cội nguồn dân tộc.
Hình ảnh Lễ dâng hương Đền Hùng vào năm 1905
Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ mới
được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng 1 tấm bản
đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị
xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng
nhau đồn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã 2 lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây
Người đã có câu nói bất hủ: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước". Người còn nhắc: "Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm
hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công
viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan"".
Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thơng báo
là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thông tin - thể thao phối hợp với các
ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm
lịch).
•
Các hoạt động văn hóa trong giỗ tổ Hùng Vương của người Việt Nam
Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn
ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng)
của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng và kết thúc vào ngày 10
tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng
hiện là giỗ quốc Tổ, tổ chức lớn vào những năm chẵn.
Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:
Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều cờ, hoa, lọng,
kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền
để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương.
Lễ rước kiệu vua 2020
Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời
sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn
khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Theo quan niệm của
người Việt, mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây, hốc đá
cắm đỏ những chân hương.
Lễ dâng hương 2020
Phần hội có nhiều trị chơi dân gian. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát
ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co,
hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đồn thủy
binh luyện chiến.
•
Trang phục tế lễ
Bộ lễ phục được mặc trong lễ dâng hương (từ năm 2000 đến 2020) được thực
hiện theo mẫu của họa sĩ Ngô Thu Nga - Viện mẫu thời trang Fadin.
"Bộ lễ phục được thiết kế gồm 3 lớp. Trong cùng là bộ quần áo ta may bằng
lụa tơ tằm trắng, tiếp theo là lớp áo màu đỏ điều cũng may trên chất liệu tơ tằm và
ngoài cùng là áo the đen để tăng thêm phần lịch sự kín đáo. Hoa văn khá đơn giản,
ngoài hai con hạc được thêu bằng chỉ vàng trên cổ áo, họa tiết mặt trời hình trống
đồng ở mặt trước khăn xếp đội đầu là hai điểm nổi bật nhất. Tuy đơn giản nhưng
bộ lễ phục trên được đánh giá rất cao vì kiểu dáng áo quần vừa phù hợp với các lễ
hội truyền thống nhưng cũng rất hiện đại với hai vạt phía trước được phủ hai lớp
vải the với đường thẳng khỏe, khăn xếp, đội đầu cao 7cm và có nhiều vành xếp tạo
được nét hiện đại, mới mẻ. Bộ lễ phục cũng được cải tiến, không dùng khuy cài áo
mà dùng chất liệu dán vừa đẹp vừa tiện lợi, "lớp áo ngoài cùng sau này đều may
bằng vải nhung.
Bộ lễ phục được mặc trong lễ dâng hương
2. Tiền đề văn hóa phong tục giỗ tổ Hùng Vương của người Việt.
Để hiểu rõ biết được tiền đề văn hóa hình thành nên lễ giổ tổ này, ta hãy tìm
hiểu xã hội tự nhiên thời bấy giờ để có cái nhìn rõ nét nhất về phong tục truyền
thống văn hóa lâu đời này. Giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là Lễ hội Đền Hùng
hoặc Quốc giỗ là một ngày lễ truyền thống của Người Việt nhằm tưởng nhớ công
lao dựng nước của các vua Hùng Vương.
•
Tiền đề xã hội
Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 âm lịch tại
Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và được người dân Việt Nam trên toàn
thế giới kỷ niệm.
Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Đinh,
nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngơi
đền, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của Đấng
Thánh Tổ xưa.
Ngày giỗ Hùng Vương đã được các triều đại phong kiến công nhận là một trong
những ngày quốc lễ của Việt Nam. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong
kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông
nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.Cũng giống như
hầu hết các lễ hội khác của các tỉnh miền Bắc, lễ hội vua Hùng cũng được chia làm
2 phần là phần lễ và phần hội.
Phần tế lễ là phần quan trọng nhất và được tổ chức theo hình thức quốc lễ. Trong
dịp này, khơng chỉ có người dân từ khắp nơi đổ về mà ngay cả các cấp lãnh đạo địa
phương, Trung ương cũng tham gia.
Lễ vật dùng để tế lễ là “lễ tam sinh”, nghĩa là 1 lợn, 1 dê và 1 bò. Bên cạnh đó
cịn có các loại bánh truyền thống, thường xuất hiện trong ngày Tết cổ truyền là
bánh chưng, bánh dày và xơi nhiều màu. Các nhạc khí được sử dụng trong tế lễ là
trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng được gióng lên thì các vị có chức sắc sẽ
bước vào tế lễ dưới sự chủ trì của chủ lễ. Tiếp theo đó là đến lượt các vị bơ lão lâu
năm, có uy tín tạo các làng xã sở tại quanh đền bắt đầu đi vào tế lễ.
Sau nghi thức tế lễ long trọng là đến phần hội với các cuộc thi sôi nổi, được
chú ý nhất là cuộc thi kiệu. Nhờ sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà càng
khiến cho bầu khơng khí của lễ hội vua Hùng trở nên sôi động, náo nhiệt hơn. Để
tham gia cuộc thì thì trước khi lễ hội diễn ra vài ngày, các cỗ kiệu của các làng phải
tập trung trước để chuẩn bị.
Sau nghi thức tế lễ long trọng là đến phần hội với các cuộc thi sôi nổi, được
chú ý nhất là cuộc thi kiệu. Nhờ sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà càng
khiến cho bầu khơng khí của lễ hội vua Hùng trở nên sơi động, náo nhiệt hơn. Để
tham gia cuộc thì thì trước khi lễ hội diễn ra vài ngày, các cỗ kiệu của các làng phải
tập trung trước để chuẩn bị.
Cỗ kiệu được giải nhất năm nay sẽ được thay mặt cho các cỗ kiệu tham gia
vào lễ rước đền Thượng vào năm sau. Vì thế, có thể nói đây là một vinh dự vô
cùng to lớn bởi họ tin rằng như vậy là cả làng đã được các vua Hùng phù hộ để cả
năm may mắn, an khang. Thế nên, làng nào cũng mong rằng cỗ kiệu của mình sẽ
giành được chiến thắng. Tuy nhiên, để có được cỗ kiệu đẹp khơng phải là điều dễ
dàng, có làng phải chuẩn bị tới vài tháng trời để làm ra một cỗ kiệu tham dự vào
phần hội này.
Trong phần hội có đám gồm 3 cỗ kiệu đi sát nhau. Các kiệu đều có được sơn
son thiếp vàng và thiết kế tinh tế nhờ bàn tay khéo léo của các người thợ. Trong 3
chiếc kiệu thì chiếc đi đầu tiên sẽ bày lễ bao gồm hương hoa, đèn nhang, chóe
nước, bầu rượu và trầu cau. Chiếc thứ 2 sẽ bày hương án, bài vị của Thánh và phải
có lọng cùng quạt. Cịn cỗ thứ 3 được được bày bánh chưng, bánh dày, thủ lợn
luộc. Đi sau 3 cỗ kiệu sẽ là các vị quan chức và bơ lão có uy tín trong làng. Tuy
nhiên, trang phục của họ lại có điểm khác biệt. Các vị có chức sắc sẽ mặc loại áo
thụng như áo quan thời xưa. Cịn các vị bơ lão thì mặc áo thụng đỏ hoặc áo the,
khăn xếp, quần trắng.
Trong ngày lễ hội, Phú Thọ có một nghi lễ gọi là hát thờ hay hát Xoan. Đây là
hình thức khơng thể thiếu trong ngày lễ hội vua Hùng. Theo dân gian kể lại rằng
ngày xưa điệu hát này được gọi là hát Xuân và đã có từ thời các vua Hùng. Sau đó,
điệu hát này dần được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Điệu hát này đặc biệt rất
được vợ của Lý Thần Tơng u thích. Vì vậy, bà đã cho sưu tầm các điệu hát Xuân
và cải biên thành các điệu hát thờ tại các đình, làng thờ vua Hùng.
Lễ hát xoăn trong giỗ tổ Hùng Vương
Ngoài ra, ở đền Hạ còn tổ chức hát ca trù – một thể loại hát thờ được hát trước
các cửa đình và do phường hát Do Nghĩa biểu diễn. Bên cạnh đó, tại sân đền Hạ
còn tổ chức trò đu tiên – một trị chơi dân gian khơng thể thiếu trong các lễ hội
miền Bắc. Xung quanh khu vực núi Hùng, các trò chơi dân gian khác cũng thu hút
rất nhiều người tham gia như: ném côn, đấu vật, chịu gà, đánh cờ,…
Đền hạ - tương truyền là nơi Âu Cơ sinh hạ bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm
người con.
Tại đây, bạn có thể dễ dàng bắt gặp các nhóm trai gái tụm năm tụm ba cùng
nhau ca những điệu ví dặm hay hát đối đáp giao duyên. Vào buổi tối là lúc các sân
khấu hát tuồng, hát chèo hoạt động ở các bãi rộng trước cửa đền Hạ, đền Giếng.
•
Tiền đề tự nhiên
Nhiều người vẫn thắc mắc, vì sao có ngày mùng 10 tháng 3, hay ngày 10.3
chính xác là ngày giỗ của vị vua Hùng tên gì, đời thứ mấy?
Có rất nhiều tài liệu giải đáp về vấn đề này, tuy nhiên, vẫn chưa thể khẳng
định được tài liệu nào là chính xác nhất vì “các đời vua Hùng chỉ là ước đốn chứ
khơng có dấu tích nào rõ ràng” (theo một giảng viên Văn hóa học).
Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Do vậy, giỗ Tổ vua
Hùng, tức là giỗ tổ phụ Kinh Dương Vương. Có tài liệu thì ghi, ngày giỗ tổ đã có
từ cách đây 2.000 năm. Thời Thục Phán - An Dương Vương, trên núi Nghĩa Lĩnh
đã có cột đá thề với nội dung: “Nguyện có đất trời chứng giám, nước Nam được
trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng
và gìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu thất hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng,
búa dập”.
Do vậy, các đời vua sau này ghi nhớ công ơn của các đời vua Hùng dựng
nước và giữ nước. Giỗ Tổ vua Hùng được coi là dịp lễ để tưởng nhớ các đời vua
Hùng nói chung.
Vì sao giỗ vua Hùng ngày mùng 10 tháng 3? Câu hỏi này cũng có rất nhiều
câu trả lời, tuy nhiên, câu trả lời được nhiều người xem là hợp lý nhất, trả lời cho
câu hỏi vì sao giỗ vua Hùng lại là ngày mùng 10 tháng 3 thì có câu chuyện dưới
đây.
Trước đây, người dân khơng có đi lễ vào ngày mùng 10 tháng 3 mà tự chọn
ngày tốt theo bản mệnh của mình, rồi đến lễ bái các vua Hùng suốt năm. Thời điểm
đông nhất thường rơi vào các tháng xuân - thu chứ không định rõ ngày nào. Người
dân tại xã Hy Cương, phủ Lâm Thao thì lấy ngày 11.3, kết hợp với thờ Thổ kỳ, làm
lễ riêng.
Do đó, thời gian lễ bái thường kéo dài liên miên, vừa tốn kém tiền của lại
khơng bày tỏ được rõ lịng thành kính, khơng tập hợp được lịng dân. Nhận thấy
điều này, Tuần phủ Phú Thọ ông Lê Trung Ngọc vào năm 1917 (niên hiệu Khải
Định năm thứ nhất) đã làm bản tấu trình lên Bộ Lễ, xin định lệ lấy ngày mùng 10.3
âm lịch hằng năm để nhân dân cả nước kính tế Quốc tổ Hùng Vương, trước một
ngày so với ngày hội tế của dân xã bản hạt. Đồng thời, ông cũng xin miễn trừ các
khoản đóng góp của nhân dân địa phương vào các kỳ tế lễ mùa thu.
Sau đó, Bộ Lễ đã ban hành công văn phúc đáp và chính thức định lệ ngày
quốc lễ Giỗ Tổ HùngVương là ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch và quy định nghi
thức, nghi lễ, lễ vật tế Tổ hằng năm. Việc này được ghi trên tấm bia “Hùng miếu
điển lệ bi” do Hội đồng kỷ niệm tỉnh Phú Thọ lập và dựng tại đền Thượng - Khu di
tích đền Hùng vào mùa xuân năm 1923.
Cụ thể nội dung trên tấm bia: "Nay phụng mệnh theo Bộ Lễ, chuẩn định ngày
quốc tế tại miếu Tổ Hùng Vương là ngày mồng Mười tháng Ba. Chiều ngày mồng
Chín tháng Ba hằng năm, các quan liệt hiến trong tỉnh, cùng các quan viên trong cả
phủ huyện của tỉnh, đều phải mặc phẩm phục, tề tựu túc trực tại nhà công quán.
Sáng hôm sau, tới miếu kính tế…"
Từ đó về sau, vào ngày 10.3 nhân dân cả nước lại hướng về vùng đất cội
nguồn - xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ để tôn vinh cơng lao của các vị vua
Hùng. TS Văn hóa học Trần Long, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP.HCM cho rằng Hùng Vương trong khảo cổ ngồi đền Hùng,
thì chỉ có các giếng ngọc với một số di tích cịn lại thơi chứ khơng có dấu tích nào
chứng minh được chắc chắn. Nơi đặt thủ phủ của các đời vua cũng chỉ ước đốn
chứ chính xác chưa ai biết nó nằm chỗ nào nên không thực hiện được khảo cổ.
Theo TS Trần Long, đối với người Việt thì có 3 dạng lễ hội được coi trọng, đó
là: lễ hội nghiêng về tín ngưỡng phồn thực, lễ hội tự nhiên và lễ hội thờ cúng anh
hùng dân tộc. Theo thời gian, lễ hội nghiêng về tín ngưỡng phồn thực và lễ hội tự
nhiên có phần khai nhạt. Vậy nhưng, lễ hội thờ cúng các anh hùng dân tộc, những
người có cơng với đất nước thì khơng những khơng phai mà cịn được bảo tồn, giữ
gìn, phát triển, được chú ý hơn và tổ chức long trọng hơn như: lễ hội Thánh Gióng,
vua Quang Trung.
Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo
là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thơng tin - thể thao phối hợp với các
ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm
lịch). Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước,
trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ
thể như sau:
- “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hố Thơng tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.
- “Năm trịn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy ban Nhân dân
tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ
dâng hương.
- “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân
dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng
hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.
Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê
chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ
làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ
đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang ý
nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà
mọi trái tim dù đang sống và làm việc ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi
cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng. Trong ngày này, nhân dân cả nước cịn có
điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lịng thành kính tri ân các
Vua Hùng đã có cơng dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.
Trong hồ sơ đề trình UNESCO cơng nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương” là di sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lịng tơn
kính đối với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Theo đánh giá của các chuyên gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”
đã đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí, đó là, di sản có giá trị
nổi bật mang tính tồn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc
đẩy giá trị đó. Vì vậy, ngày 6/12/2012, UNESCO đã chính thức cơng nhận “Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”, biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết,
truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam là Di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có cơng dựng nước
và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng thời còn là
dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc
đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý
truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước - Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”.
2. Bàn luận về Các hoạt động văn hóa ngày giỗ tổ Hùng Vương
Trong những chuỗi ngày diễn ra tục giổ tổ, cả nước hào hứng đón chờ và hịa
nhập chung khơng khí vui tươi mang màu hãnh diễn khi đã được sinh ra và lớn lên
tại đất nước Việt Nam. Có rất nhiều chuỗi hoạt động được diễn ra vào thời điểm
này, trong đó sẽ nhắc đến một số hoạt động nổi bật như:
• Tục nấu bánh chưng, giã bánh dày
Tục nấu bánh chưng, giã bánh dày là một trong những hoạt động văn hóa
truyền thống trong dịp Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm. Bánh chưng, bánh dày
tượng trưng cho Trời và Đất để dâng lên các vua Hùng, là 2 sản vật gắn liền với
truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu, con thứ 18 của vua Hùng dâng lên vua cha để
thể hiện lòng hiếu thảo đối với các bậc sinh thành. Bên cạnh đó, Hội thi cịn chứa
đựng yếu tố tâm linh sâu sắc, thể hiện lòng tri ân công đức của các vua Hùng,
những người đã dạy dân trồng lúa, gây dựng lên nền văn minh nông nghiệp lúa
nước cho muôn đời con dân nước Việt. Hội thi gói, nấu bánh chưng, giã bánh dày
cịn là dịp để mỗi người dân Việt Nam ln có ý thức nhớ về nguồn cội, nhớ về
quá khứ hào hùng của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cũng tại hội
thi, nhiều nghệ nhân, diễn viên trong cả nước trình bày các tiết mục văn hóa, văn
nghệ dân gian mang đậm bản sắc văn hóa vùng đất Tổ và các vùng miền trong cả
nước...
Hình ảnh trong cuộc thi gói bánh chưng
Hình ảnh mọi người đang giã bánh chày
• Lễ hội bơi chải
Lễ hội bơi chải truyền thống trên sông Lô là lễ hội bơi chải có truyền thống
lâu đời nhất trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, nhằm tơn vinh giá trị văn hóa đặc sắc của
nghệ thuật bơi chải, quảng bá tiềm năng du lịch; qua đó phục dựng, chuẩn hóa nghi
thức tổ chức lễ hội truyền thống, là căn cứ để xây dựng hồ sơ khoa học đề nghị đưa
vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Lễ hội diễn ra với ý nghĩa tưởng
nhớ sức mạnh của các bậc anh hùng thời xưa, và tôn vinh những điều đó.
Với mong muốn rằng, con cháu của mình đừng bao giờ quên chúng ta có
những sức mạnh nổi trội gì. Và hãy cố gắng phát huy những điều đó một cách tốt
nhất. Lễ hội luôn thu hút được sự tham ra đông đảo của người dân đến từ các tỉnh
thành khác nhau. Hằng năm, cứ đến cuộc thi này thì người dân rất hào hứng, và
tham ra một cách sôi nổi kể cả người đi cổ vũ và người thi. Lúc nào hai bên sơng
cũng đơng kín người, và sự reo hị, cổ động nhiệt tình của khán giả đã làm cho
cuộc thi diễn ra rất sôi động.
Các đội thi chuẩn bị xuất phát
Quang cảnh sôi nỗi diễn ra trong cuộc thi
Quang cảnh lúc kết thúc hội thi
• Hội thi hát xoăn
Nguồn gốc của Hát Xoan có nhiều cách giải thích bằng huyền thoại được đặt
vào thời các Vua Hùng dựng nước. Có chuyện kể rằng Vua Hùng đi tìm đất đóng
đơ, một hơm nghỉ chân ở nơi này là q Xoan Phù Đức - An Thái, thấy các trẻ
chăn trâu hát múa, vua rất ưa thích và lại dạy thêm nhiều điệu khúc nữa, những
điệu hát múa ấy của Vua Hùng và các em chăn trâu, đó cũng là những điệu Xoan
tiên.
Lại có câu chuyện kể rằng, vợ Vua Hùng đau bụng đã lâu ngày mà vẫn không
sinh nở, một nàng hầu gái nói nên đón nàng Quế Hoa múa đẹp hát hay đến múa
hát. Quế Hoa được gọi đến trước giường, uốn tay đưa chân, dáng như tiên, giọng
như suối, sắc như hoa... Vợ Vua Hùng xem múa nghe hát quả nhiên vui vẻ sinh ra
được 3 người con trai tuấn tú khác thường. Vua Hùng rất vui mừng, truyền cho các
công chúa trong cung nữ đều học những điệu múa hát của Quế Hoa. Lúc đó vào
mùa xuân nên vua đặt tên các điệu múa hát đó là Hát Xuân.
Chuyện dân gian xã Cao Mại kể rằng Nguyệt Cư công chúa - Vua Bà xã Cao
Mại lúc lọt lịng mẹ cứ khóc hồi khơng ai dỗ được, chỉ khi nghe người làng An
Thái hát em mới nín khóc, cứ như thế cho tới năm em lên ba tuổi. Các cụ còn kể
rằng Nguyệt Cư qua làng An Thái được nghe hát rồi đau bụng đẻ, quân gia phải
khiêng kiệu chạy thật nhanh về trang để bà kịp sinh nở. Cũng vì những tình tiết
trên mà ở Cao Mại có lệ chạy kiệu Vua Bà và có hát Xoan trong các ngày đình đám
tế lễ, đó là những trị diễn hội làng có ý nghĩa kỷ niệm.
Một số nhà nghiên cứu âm nhạc lại cho rằng: Hát Xoan xuất hiện vào khoảng
thế kỷ XV (tức là đời hậu Lê), lời ca Xoan có những đặc điểm như hình thức, văn
chương của thế kỷ XV, nghĩa là hình thể chưa cố định, vừa gồm các thể thất ngôn,
vừa xen kẽ những câu 6 tiếng và kết luận rằng: Hát Xoan là một hình thức âm nhạc
phong tục phát sinh từ thời kỳ nhà Lê.
Hát Xoan có 3 chặng: Hát nghi lễ, hát quả cách và hát giao duyên (hát hội).
Hát nghi lễ gồm các bài: Hát chào Vua, mời Vua, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ
nhang, Đóng đám. Hát quả cách gồm 14 bài (quả là bài; cách là hình thức hát, lối
hát): Kiều giang cách; Nhàn ngâm cách; Tràng mai cách; Ngư tiều canh mục cách;
Đối dẫy cách; Hồi liên cách; Xoan thời cách; Hạ thời cách; Thu thời cách; Đông
thời cách; Tứ mùa cách; Thuyền chèo cách; Tứ dân cách; Chơi dâu cách. Hát hội
gồm nhiều bài, hát tự do phóng khống, nội dung các bài hát mang tính trữ tình sâu
sắc: Thết trầu (còn gọi là Bợm gái); Bỏ bộ; Xin huê - Đố huê; Đố chữ; Hát đúm;
Cài huê; Mó cá...
Hát xoan- Phú Thọ
Gốc của hát Xoan ở vùng Phú Thọ, sau đó lan tỏa tới các làng quê thuộc đôi
bờ sông Lô, sông Hồng, qua cả tỉnh Vĩnh Phúc. Bốn phường Xoan cổ là An Thái,
Phù Đức, Kim Đới và Thét nằm ở 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu (Phú Thọ).
Ca nhạc của Xoan là ca nhạc biểu diễn với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát
nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc; có đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca,
hát đa thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp. Về sắc thái
âm nhạc, nhạc Xoan vừa có những giọng nghiêm trang, thong thả vừa có những
điệu dồn đuổi khỏe mạnh, lại có những giọng duyên dáng, trữ tình.
Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu
múa minh họa nội dung cho lời ca. Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất
định. Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc
tụng, xen mô tả sản xuất. Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách). Sau
phần hát cách đến các tiết mục có tính chất dân gian với nội dung đậm nét trữ tình,
mang dáng dấp của các bài dân ca, ví giao duyên, hát trống quân. Mỗi tiết mục nối
tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn
mang tính chất hoạt cảnh như: Hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài huê, hát
đúm, đánh cá... Sức sống của hát Xoan chính là ở sự kết hợp của loại hình hát lễ
nghi với hát giao duyên, tồn tại lâu dài và được nhiều thế hệ u thích.
Hát Xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ. Những người đi hát Xoan thường
sống cùng chịm xóm và tổ chức thành phường. Đây là một tổ chức văn nghệ
nghiệp dư của những người cùng làng, phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau.
Người đứng đầu một phường Xoan (hay họ Xoan) gọi là ơng Trùm. Ơng Trùm là
một người có kinh nghiệm về nghề nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số
bài dài được chép bằng văn tự. Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi
phường Xoan có khoảng 15 đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng;
nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm
các mầu, quần lụa, đeo xà tích. Những làng có người đi hát Xoan này nước nghĩa
với phường Xoan và các phường Xoan cũng nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau
thân thiết như anh em, nhưng tuyệt đối đào kép Xoan không được lấy nam nữ
thanh niên của làng nước nghĩa.
KẾT THÚC
Nền văn hóa truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nền văn
minh nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi con người Việt Nam đều gắn bó mật thiết
với xóm làng, quê hương. Dần dà, các tổ chức này ngày càng ổn định và chặt chẽ
hơn. Trên cơ sở đồng lịng nhất trí, ở làng có luật làng, gọi là hương ước , thợ thủ
công ở các xóm nghề, phố nghề thì có phường ước. Từ đó, phong tục tập quán
ViệtNam đa dạng lên nhưng không mất đi những nghi thức cho đến tận bây giờ.
Vào thời điểm hiện tại, tuy rằng quan niệm về văn hóa hay thẩm mỹ đã có những
thay đổi để phù hợp hơn với sự đi lên của xã hội. Dù đất nước đã trải qua bao
nhiêu lần đổi mới và hội nhập phù hợp với thời cuộc. Nhưng ngày giỗ tổ Hùng
Vương vẫn không bị thay đổi. Những giá trị truyền thống tốt đẹp này cần được bảo
tồn và phát huy nhiều hoưn nữa. Đây không chỉ là một ngày giỗ đơn thuần mà nó
mang ý nghĩa rất lớn đối với dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ về cội nguồn của
mình, và biết ơn đối với cơng sức của các vị anh hùng đã hy sinh để dành độc lập
cho con dân được hưởng thái bình như bây giờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
•
Nguồn Internet:
/> /> />