Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản: Số 1/2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 84 trang )

ISSN 1859 - 2252

Số

1 - 2020

NHA TRANG UNIVERSITY

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


TẠP CHÍ

KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ THỦY SẢN
ISSN 1859 - 2252
TỔNG BIÊN TẬP
TS. TRẦN DỖN HÙNG
PHĨ TỔNG BIÊN TẬP
TS. VŨ KẾ NGHIỆP
BAN BIÊN TẬP
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Anh
Trường Đại học Nha Trang

GS. TS. Augustine Arukwe

PGS. TS. Lê Phước Lượng
Trường Đại học Nha Trang

PGS. TS. Nguyễn Đình Mão

Norwegian University of Science and Technology, Trondheim,


Norway

Trường Đại học Nha Trang

PGS. TS. Vũ Ngọc Bội

Trường Đại học Nha Trang

Trường Đại học Nha Trang

TS. Phan Thị Dung
Trường Đại học Nha Trang

TS. Nguyễn Hữu Dũng
Trường Đại học Nha Trang

PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng
Trường ĐH Kinh tế Luật- ĐHQG Tp HCM

PGS. TS. Nguyễn Văn Duy
Trường Đại học Nha Trang

PGS.TS. Nông Văn Hải
Viện Nghiên cứu hệ gen - Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam

PGS. TS. Lê Văn Hảo
Trường Đại học Nha Trang

TS. Nguyễn Thị Hiển
Trường Đại học Nha Trang


TS. Nguyễn Văn Hịa
Trường Đại học Nha Trang

GS. TS. Hồng Đình Hịa
Trường ĐH Bách khoa Hà Nội

GS. TS. Nguyễn Trọng Hoài
Trường ĐH Kinh tế Tp. HCM

TS. Lê Minh Hoàng
Trường Đại học Nha Trang

TS. Mai Thị Tuyết Nga
PGS. TS. Ngô Đăng Nghĩa
Trường Đại học Nha Trang

PGS. TS. Nguyễn Văn Nhận
Trường Đại học Nha Trang

TS. Nguyễn Hữu Ninh
Viện Nghiên cứu NTTS I - Bộ NNPTNT

PGS. TS. Mai Thanh Phong
Trường ĐH Bách khoa - ĐHQG Tp. HCM

GS. TS. Nguyễn Thanh Phương
Đại học Cần Thơ

PGS. TS. Trần Gia Thái

Trường Đại học Nha Trang

GS. TS. Trương Bá Thanh
Đại học Đà Nẵng

PGS. TS. Phạm Hùng Thắng
Trường Đại học Nha Trang

TS. Khổng Trung Thắng
Trường Đại học Nha Trang

TS. Hồng Văn Tính
Trường Đại học Nha Trang

GS. TS. Toshiaki Ohshima
Tokyo University of Marine Science and Technology,
Japan

TS. Hoàng Hoa Hồng

PGS. TS. Trang Sĩ Trung

Trường Đại học Nha Trang

Trường Đại học Nha Trang

PGS. TS. Lại Văn Hùng

PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn


Trường Đại học Nha Trang

Trường Đại học Nha Trang

GS. TS. Nguyễn Ngọc Lâm
Viện Hải dương học - Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam

GS. TS. Yew-Hu Chien
National Taiwan Ocean University, Taiwan

GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội

PGS. TS. Đỗ Thị Thanh Vinh
Trường Đại học Nha Trang

BAN THƯ KÝ
ThS. Trần Nhật Tân - ThS. Lương Đình Duy









Tòa soạn
: Trường Đại học Nha Trang, số 02 Nguyễn Đình Chiểu, TP. Nha Trang - Khánh Hòa
Điện thoại

: 0258.2220767
Fax: 0258.3831147
E-mail:
Giấy phép xuất bản : 292/GP-BTTTT ngày 3/6/2016
Chế bản tại
: Phòng Khoa học và Công nghệ - Trường Đại học Nha Trang
In tại
: Công ty cổ phần In và Thương mại Khánh Hòa, số 08 Lê Thánh Tôn - Nha Trang


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

MỤC LUÏC
Ảnh hưởng của nồng độ chất hỗ trợ tạo keo đến độ ổn định của dung dịch nano bạc sả
Lương Thị Tú Uyên, Vũ Ngọc Bội, Nguyễn Thanh Quảng,
Lương Quý Phương, Nguyễn Thị Như Thảo, Nguyễn Thị Mỹ Trang,
Phạm Trung Sản, Đặng Xuân Cường
Bệnh xuất huyết do vi khuẩn gây ra ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum,
1792) nuôi thương phẩm tại Lâm Đồng
Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung
Ảnh hưởng của vi khuẩn Lactobacillus fermentum đến một số chỉ tiêu miễn dịch và
khả năng kháng bệnh của cá chẽm (Lates calcarifer)
Trương Thị Hoa, Nguyễn Ngọc Phước, Đặng Thị Hoàng Oanh
Ảnh hưởng của thức ăn và độ mặn đến sự thành thục của tôm đất Metapenaeus ensis
(De Haan, 1844) bố mẹ
Tôn Nữ Mỹ Nga, Nguyễn Văn Dũng,
Lê Thị Ngọc Huyền, Lê Văn Chí
Nghiên cứu ứng dụng bơm nhiệt để sưởi ấm cho bể nuôi tôm hùm thương phẩm trên cạn

Trần Đại Tiến, Lê Như Chính, Huỳnh Văn Thạo
Nghiên cứu ảnh hưởng của các thơng số hình học dao cắt và điều kiện gia cơng lên
q trình bào da đà điểu
Ngơ Quang Trọng
Đánh giá chất lượng cảm quan và một số chủng vi khuẩn gây thối cá ngừ chù nguyên
liệu bảo quản bằng oligochitin kết hợp với nước đá
Trần Văn Vương, Vũ Ngọc Bội
Đánh giá hiệu quả của vaccine bất hoạt phòng bệnh mù mắt do liên cầu khuẩn gây
ra ở cá bớp ni tại Khánh Hịa
Trần Vĩ Hích, Nguyễn Thị Kim Cúc

2

9
17

27
35

41

46

54

Dẫn liệu thành phần loài cá ở hồ Tân Giang, tỉnh Ninh Thuận
Cao Văn Nguyện, Trần Công Thịnh, Bùi Hữu Mạnh

59


VẤN ĐỀ TRAO ĐỔI
Lựa chọn các thông số kiểm tra an tồn kỹ thuật máy chính tàu cá
Phùng Minh Lộc, Phạm Trọng Hợp

65

Phát triển thương hiệu du lịch biển Cửa Lò
Phan Thảo Nguyên

71


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ CHẤT HỖ TRỢ TẠO KEO ĐẾN
ĐỘ ỔN ĐỊNH CỦA DUNG DỊCH NANO BẠC SẢ
EFFECTS OF COLLOID CONCENTRATIONS TO THE STABILITY OF
THE NANO-SILVER LEMONGRASS SOLUTION
Lương Thị Tú Uyên¹, Vũ Ngọc Bội², Nguyễn Thanh Quảng¹,
Lương Quý Phương¹, Nguyễn Thị Như Thảo², Nguyễn Thị Mỹ Trang²,
Phạm Trung Sản³, Đặng Xuân Cường³
¹ Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Quảng Nam
² Khoa Công nghệ Thực phẩm, Đại học Nha Trang
³ Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang, VAST
Tác giả liên hệ: Đặng Xuân Cường (Email: )
Ngày nhận bài: 11/03/2020; Ngày phản biện thông qua: 25/03/2020; Ngày duyệt đăng: 30/03/2020

TĨM TẮT

Bài báo này cơng bố về nghiên cứu xác định chất và nồng độ chất hỗ trợ tạo keo trong quá trình chế tạo
dung dịch keo nano bạc sả. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bổ sung các chất hỗ trợ tạo keo với nồng độ khác
nhau: PVP (Polyvinylpyrrolidone) và PVA (Polyvinylalcohol 500) với nồng độ thay đổi: 0,15%, 0,3%, 0,45%
và 0,6%; Chitosan với nồng độ thay đổi: 0,05%, 0,1%, 0,15% và 0,3% vào dung dịch nano bạc sả. Kết quả cho
thấy sử dụng chất hỗ trợ tạo keo PVA với nồng độ 0,3% thì dung dịch nano bạc sả có độ hấp thụ quang cao
nhất, thể hiện dung dịch keo nano bạc sả hình thành thể keo bền và có độ ổn định nhất.
Từ khóa: Chitosan, PVA, PVP, dung dịch nano bạc sả.
ABSTRACT
This paper focused on the research to determine colloidal substances and their concentrations in the
preparation of the nano-silver lemongrass solution. Results of adding colloidal substances with different
concentrations, such as: PVP (Polyvinylpyrrolidone) and PVA (Polyvinylalcohol 500) with concentrations
of 0.15%, 0.3%, 0.45%, and 0.6%; and, chitosan with concentrations of 0.05%, 0.1%, 0.15%, and 0.3% to
create the nano-silver lemongrass solution. Results showed that the nano-silver lemongrass solution with PVA
of 0.3% had the highest optical absorbance. This indicated that the nano-silver lemongrass colloidal solution
was the most stable.
Keywords: Chitosan, PVA, PVP, nano-silver lemongrass solution.

I. LỜI MỞ ĐẦU
Nano bạc là dung dịch bao gồm các hạt bạc
có kích thước nano, khoảng từ 1-100 nanomet.
Thơng thường kích thước đo được khoảng 25
nanomet. Các hạt nano bạc có diện tích bề mặt
lớn giúp gia tăng tiếp xúc với vi khuẩn hoặc
nấm vì thế dung dịch nano bạc có hiệu quả diệt
khuẩn ngay khi tiếp xúc [2], [3].
Màng bảo vệ của tế bào vi khuẩn là một cấu
trúc gồm các glycoprotein. Các ion bạc được
giải phóng ra từ bề mặt các hạt nano bạc có
khả năng tương tác với các nhóm peptidoglican
nằm trên màng tế bào vi khuẩn và ức chế khả

năng vận chuyển oxy vào bên trong tế bào vi
2 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

khuẩn, dẫn đến làm tê liệt vi khuẩn. Tế bào
động vật được cấu trúc bởi hai lớp lipoprotein
có khả năng cho điện tử do đó khơng cho phép
các ion bạc xâm nhập, vì vậy tế bào hầu như
khơng bị tổn thương khi tiếp xúc với các ion
bạc. Do vậy, nano bạc hồn tồn khơng gây hại
đến con người và động vật. Hiện ở Việt Nam
có một số nhà khoa học ở Viện Công nghệ
môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam đã nghiên cứu điều chế dung
dịch nano bạc bằng phương pháp hóa học và
điện hóa cũng như đánh giá nano bạc có khả
kháng nhiều loại vi khuẩn Gram (-) và Gram
(+)… Trên thế giới, có nhiều sản phẩm nano


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
bạc đã được các tổ chức như FDA, EPA của
Mỹ, SIAA của Nhật Bản chính thức cho phép
sử dụng để khử trùng trong y tế và đời sống.
Tuy vậy, so với thế giới việc nghiên cứu sử
dụng nano bạc trong thực tế ở nước ta cịn khá
khiêm tốn [2÷12].
Theo Đỗ Tất Lợi, sả là cây dùng để chiết
tinh dầu và các loài sả khác nhau thì thành
phần tinh dầu cũng khác nhau. Cây sả chanh
(Cymbopogon flexuosus Stapf.) là loài sả được

trồng phổ biến ở miền Trung Việt Nam - đây
là loài sả cho tinh dầu với thành phần chủ yếu
là xitrala làm cho tinh dầu có mùi chanh rất
rõ. Tinh dầu sả chanh có mùi thơm dịu nhẹ,
có tính kích thích vào hệ thống cảm xúc của
não bộ, giúp giảm căng thẳng, bớt lo lắng,
tinh chất sả còn được dùng để hỗ trợ để điều
trị chứng mất ngủ và giúp có giấc ngủ ngon
hơn [1].
Do vậy, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh
Quảng Nam đã cho phép Trường Cao đẳng
Kinh tế Kỹ thuật Quảng Nam phối hợp với
Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha
Trang thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hồn thiện
quy trình tổng hợp keo nano bạc từ dung dịch
AgNO3 bằng tác nhân khử dịch chiết nước lá
sả làm chất kháng khuẩn tại các cơ sở y tế ở
Quảng Nam”. Được sự tài trợ từ nguồn kinh
phí của đề tài trên chúng tôi tiến hành “Nghiên
cứu chế tạo dung dịch nano bạc sả có hoạt tính
kháng vi sinh” [3].
Tuy vậy, trong giới hạn của bài báo này,
chúng tôi chỉ trình bày một phần nghiên cứu
của chúng tơi về lĩnh vức này: nghiên cứu chọn
lựa chất tạo keo và nồng độ chất tạo keo trong
quá trình chế tạo dung dịch nano bạc sả.
II. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nguyên vật liệu
1.1. Dung dịch nano bạc

Dung dịch AgNO3 1mM (AgNO3 99,9%)
do Công ty Daejung, Hàn Quốc sản xuất và
được đề tài “Nghiên cứu hồn thiện quy trình
tổng hợp keo nano bạc từ dung dịch AgNO3
bằng tác nhân khử dịch chiết nước lá sả làm
chất kháng khuẩn tại các cơ sở y tế ở Quảng
Nam” cung cấp [3].

Số 1/2020
1.2. Dung dịch tinh dầu sả
Cây sả chanh (Cymbopogon flexuosus
Stapf.). được trồng theo tiêu chuẩn VIEGAP
tại hộ gia đình ơng Nguyễn Hồng Phước,
thôn Phú Trung, xã Tam Xuân 1, huyện Núi
Thành, tỉnh Quảng Nam và trồng tại Trại Sản
xuất Thực nghiệm - Trường cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Quảng Nam, thôn Bích Ngơ, xã
Tam Xn 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng
Nam. Dung dịch tinh dầu sả được chiết rút từ
lá của cây sả chanh theo quy trình chiết của
đề tài “Nghiên cứu hồn thiện quy trình tổng
hợp keo nano bạc từ dung dịch AgNO3 bằng
tác nhân khử dịch chiết nước lá sả làm chất
kháng khuẩn tại các cơ sở y tế ở Quảng Nam”
[3]. Quá trình chiết tinh dầu sả chanh được tiến
hành: Lá sả chanh tươi sau khi thu nhận, được
rửa sạch, cắt nhỏ và cân 200 g lá sả đã cắt nhỏ
cho vào cốc thủy tinh có chứa 800 ml nước cất
ở nhiệt độ 90ºC và giữ ở nhiệt độ này trong 60
phút để chiết tinh dầu sả. Sau đó, lọc hỗn hợp

qua giấy lọc để thu dịch chiết tinh dầu lá sả [3].
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp chế tạo dung dịch nano bạc
sả
Dịch chiết tinh dầu sả chanh được trộn với
dung dịch AgNO3 1mM (AgNO3 99,9%) theo
tỉ lệ 1:4, đây là tỷ lệ nồng độ đã được đề tài
“Nghiên cứu hồn thiện quy trình tổng hợp keo
nano bạc từ dung dịch AgNO3 bằng tác nhân
khử dịch chiết nước lá sả làm chất kháng khuẩn
tại các cơ sở y tế ở Quảng Nam” xác định là tỷ
lệ thích hợp cho q trình tạo nano bạc [3]. Sau
đó, bổ sung thêm chất hỗ trợ tạo keo (PVA Polyvinylalcohol 500 hoặc PVP hoặc chitosan)
theo các nồng độ khác nhau và sử dụng dung
dịch NaOH 0,1N điều chỉnh pH của hỗn hợp
dung dịch bằng 7. Hỗn hợp dung dịch được
khuấy từ với tốc độ 1000 vịng/phút trong điều
kiện có gia nhiệt ở nhiệt độ 40ºC trong thời
gian 3 giờ. Sau đó hỗn hợp dung dịch tiếp tục
được ủ ở nhiệt độ 40ºC khoảng 24 giờ [3].
2.2. Phương pháp đánh giá độ ổn định của
dung dịch nano bạc sả:
Độ ổn định của dung dịch keo nano bạc sả
được xác định bằng phương pháp đo độ hấp
phụ quang (quang phổ hấp phụ Uv – Vis)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

của dung dịch nano bạc sả trên máy Uv-Vis,
Shimadzu, Nhật Bản [2], [3].
3. Phân tích dữ liệu
Loại bỏ giá trị bất thường bằng phương
pháp Duncal. Mỗi nghiệm thức được lặp lại tối
thiểu là 3 lần (n=3).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Xác định nồng độ PVA (Polyvinylalcohol
500) trong dung dịch nano bạc sả
Tiến hành phối trộn dịch chiết tinh dầu sả
với dung dịch nano bạc theo cách thức đã mô

Số 1/2020
tả ở trên. Sau đó, bổ sung thêm PVA cho đạt tỷ
lệ nồng độ: 0,15%; 0,3%; 0,45%; 0,6% và thực
hiện quá trình tạo dung dịch nano bạc sả như
mô tả ở trên. Kết thúc quá trình chế tạo, tiến
hành lấy mẫu xác định mật độ quang, kết quả
trình bày ở Bảng 1 và Hình 1.
Kết quả phân tích trình bày ở Hình 1 và
Bảng 1 cho thấy nồng độ PVA sử dụng trong
q trình chế tạo dung dịch nano bạc sả khơng
ảnh hưởng đến chiều hướng hấp thụ quang của
dung dịch nano bạc sả và dung dịch nano bạc
sả đều có chiều hướng hấp thu quang tương tự

Bảng 1. Kết quả đánh giá độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả bổ sung PVA với nồng độ khác nhau

Mẫu
1

2
3
4

Nồng độ PVA (C%)
0,15%
0,3%
0,45%
0,6%

Mật độ quang (Abs)
1,543±0,018
1,859±0,016
1,413±0,012
1,109±0,013

Hình 1. Ảnh hưởng của nồng độ PVA đến sự thay đổi độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả.

nhau trong dải sóng đo mật độ quang từ 200
- 700 nm. Kết quả đo độ hấp thụ quang cũng
cho thấy mức độ hấp phụ quang của dung dịch
nano bạc sả cực đại ở bước sóng 450 nm. Mức
độ hấp phụ quang cao thể hiện hạt keo nano
bạc sả được hình thành tốt nhất.
Kết quả phân tích cịn cho thấy nồng độ
PVA sử dụng trong q trình chế tạo dung dịch
nano bạc sả có ảnh hưởng đến giá trị tuyệt đối
của độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc
sả tại một giá trị bước sóng nhất định. Cụ thể,
khi tăng nồng độ PVA sử dụng trong tạo dung

dịch nano bạc từ 0,15% lên 0,3% thì mật độ
quang của dung dịch keo nano bạc sả tăng từ
1,543 đến 1,859 - giá trị mật độ quang cực đại
của dung dịch keo nano bạc sả. Sau đó khi
nồng độ PVA sử dụng tăng > 0,3% thì độ hấp
phụ quang của dung dịch keo nano bạc sả lại
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

giảm nhỏ hơn giá trị cực đại (Hình 1). Cụ thể,
khi nồng độ PVA sử dụng tăng lên tới 0,45% và
0,6% thì mật độ quang của dung dịch keo nano
bạc sả giảm xuống, chỉ còn tương ứng là 1,413
và 1,109. Kết quả này có thể được giải thích:
khi sử dụng PVA với nồng độ cao > 0,3% dẫn
tới hạt keo nano bạc sả có kích thước lớn. Khi
kích thước hạt keo lớn - nằm trong vùng không
bền của dung dịch keo, sẽ dẫn đến sự kết lắng
của các hạt keo nano bạc sả có kích thước lớn
từ đó làm giảm nồng độ nano bạc sả trong dung
dịch nên mật độ quang giảm [3, 4]. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với
nghiên cứu của Anitha và cộng sự năm 2012 về
độ hấp thụ quang của dung dịch nano bạc - dịch
chiết Amaranthus tristis có bổ sung PVA [5].
Từ các phân tích ở trên cho thấy khi sử
dụng PVA với nồng độ 0,3% thì dung dịch


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
nano bạc sả có độ hấp thụ quang cao nhất thể

hiện dung dịch keo nano bạc sả hình thành thể
keo bền nên dung dịch có độ ổn định nhất. Do
vậy, chúng tơi quyết định chọn nồng độ PVA
sử dụng để tạo dung dịch nano bạc sả là 0,3%
làm nồng độ cố định cho quá trình nghiên cứu
sau này.
2. Xác định nồng độ PVP (Polyvinylpyrrolidone)
trong dung dịch nano bạc sả
Tiến hành phối trộn dịch chiết tinh dầu sả
với dung dịch nano bạc theo cách thức đã mơ

Số 1/2020
tả ở trên. Sau đó, bổ sung thêm PVP cho đạt tỷ
lệ nồng độ: 0,15%; 0,3%; 0,45%; 0,6% và thực
hiện quá trình tạo dung dịch nano bạc sả như
mơ tả ở trên. Kết thúc q trình chế tạo, tiến
hành lấy mẫu xác đinh độ hấp phụ quang, kết
quả trình bày ở Bảng 2 và Hình 2.
Kết quả phân tích trình bày ở Hình 2 và
Bảng 2 cho thấy nồng độ PVP sử dụng trong
quá trình chế tạo dung dịch nano bạc sả gần
như không ảnh hưởng đến chiều hướng hấp
thụ quang của dung dịch nano bạc sả và dung

Bảng 2. Kết quả đánh giá độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả bổ sung PVP với nồng độ khác nhau

Mẫu
1
2
3

4

Nồng độ PVP (C%)
0,15%
0,3%
0,45%
0,6%

Mật độ quang (Abs)
1,126±0,011
1,294±0,013
1,093±0,010
0,953±0,008

Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ PVP đến sự thay đổi độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả.

dịch nano bạc sả đều có chiều hướng hấp thu
quang tương tự nhau trong dải sóng đo độ hấp
thụ quang từ 200 - 700 nm. Kết quả đo độ
hấp thụ quang cũng cho thấy mức độ hấp phụ
quang của dung dịch nano bạc sả cực đại ở
bước sóng 450 nm. Mức độ hấp phụ quang
cao thể hiện hạt keo nano bạc sả được hình
thành tốt nhất.
Kết quả phân tích cịn cho thấy nồng độ
PVP sử dụng trong q trình chế tạo dung dịch
nano bạc sả có ảnh hưởng đến giá trị đo độ hấp
thụ quang của dung dịch nano bạc sả tại một
bước sóng nhất định. Cụ thể, khi tăng nồng
độ PVP sử dụng trong tạo dung dịch nano bạc

từ 0,15% lên 0,3% thì độ hấp thụ quang của
dịch keo nano bạc sả tăng từ 1,126 đến 1,294
- giá trị mật độ quang cực đại của dung dịch
keo nano bạc sả. Sau đó, khi nồng độ PVP sử
dụng tăng > 0,3% thì độ hấp thụ quang của

dung dịch keo nano bạc sả lại giảm nhỏ hơn
giá trị cực đại (Hình 2). Cụ thể, khi nồng độ
PVA sử dụng tăng lên tới 0,45% và 0,6% thì
độ hấp thụ quang của dung dịch keo nano bạc
sả giảm xuống, chỉ còn tương ứng là 1,093 và
0,953. Kết quả này được giải thích là do sự tụ
của các hạt keo nano bạc có kích thước hạt lớn
nằm trong vùng khơng bền của dung dịch keo
từ đó làm giảm nồng độ hạt keo nano bạc trong
dung dịch nên độ hấp thụ quang của hỗn dịch
giảm [2].
Từ các phân tích ở trên cho thấy khi sử
dụng PVP với nồng độ 0,3% thì dung dịch keo
nano bạc sả có độ hấp thụ quang cao nhất thể
hiện dung dịch keo nano bạc sả hình thành hạt
keo bền và có độ ổn định nhất. Do vậy, chúng
quyết định chọn nồng độ PVP sử dụng để tạo
dung dịch nano bạc sả là 0,3% làm nồng độ cố
định cho quá trình nghiên cứu sau này.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
3. Xác định nồng độ chitosan trong dung

dịch nano bạc sả
Tiến hành phối trộn dịch chiết tinh dầu sả
với dung dịch nano bạc theo cách thức đã mơ
tả ở trên. Sau đó, bổ sung thêm chitosan cho

Số 1/2020
đạt tỷ lệ nồng độ: 0,05%; 0,1%; 0,15%; 0,3%
và thực hiện quá trình tạo dung dịch nano bạc
sả như mô tả ở trên. Kết thúc quá trình chế tạo,
tiến hành lấy mẫu xác định mật độ quang, kết
quả trình bày ở Bảng 3 và Hình 3.

Bảng 3. Kết quả đánh giá độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả bổ sung
chitosan với nồng độ khác nhau

Mẫu
1
2
3
4

Nồng độ Chitosan (C%)
0,05%
0,1%
0,15%
0,3%

Mật độ quang (Abs)
1,7430±0,012
1,9316±0,014

1,8130±0,012
1,6090±0,010

Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ chitosan đến sự thay đổi độ hấp phụ quang của dung dịch nano bạc sả.

Kết quả phân tích trình bày ở Hình 3 và
Bảng 3 cho thấy nồng độ chitosan sử dụng
trong quá trình chế tạo dung dịch nano bạc
sả cũng không ảnh hưởng đến chiều hướng
hấp thụ quang của dung dịch nano bạc sả và
dung dịch nano bạc sả đều có chiều hướng
hấp thu quang tương tự nhau trong dải sóng
đo mật độ quang từ 200 - 700 nm. Kết quả đo
độ hấp thụ quang cũng cho thấy mức độ hấp
phụ quang của dung dịch nano bạc sả cực đại
ở bước sóng 450 nm. Mức độ hấp phụ quang
cao thể hiện hạt keo nano bạc sả được hình
thành tốt nhất.
Kết quả phân tích cịn cho thấy nồng độ
chitosan sử dụng trong quá trình chế tạo dung
dịch nano bạc sả chỉ có ảnh hưởng đến giá trị
đo độ hấp thụ quang của dung dịch nano bạc
sả ở một bước sóng nhất định. Cụ thể, khi
tăng nồng độ chitosan sử dụng trong tạo dung
dịch nano bạc từ 0,05% lên 0,1% thì mật độ
quang của dung dịch keo nano bạc sả tăng từ
1,7430 đến 1,9316 - giá trị mật độ quang cực
đại của dung dịch keo nano bạc sả. Sau đó
khi nồng độ chitosan sử dụng tăng > 0,1% thì
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


mật độ quang của dung dịch keo nano bạc sả
lại giảm nhỏ hơn giá trị cực đại (Hình 3). Cụ
thể, khi nồng độ chitosan sử dụng tăng lên tới
0,15% và 0,3% thì mật độ quang của dung
dịch keo nano bạc sả giảm xuống và chỉ còn
tương ứng 1,8130 và 1,6090. Kết quả này là
do sự kết tụ của các hạt keo nano bạc có kích
thước hạt keo lớn nằm trong vùng khơng bền
của dung dịch keo từ đó làm giảm nồng độ
hạt keo nano bạc trong dung dịch nên mật độ
quang giảm.
Từ các phân tích ở trên cho thấy khi sử
dụng chitosan với nồng độ 0,1% thì dung dịch
nano bạc sả có độ hấp thụ quang cao nhất thể
hiện dung dịch keo nano bạc sả hình thành
hạt keo bền và có độ ổn định nhất. Do vậy,
chúng tôi quyết định chọn nồng độ chitosan
sử dụng để tạo dung dịch nano bạc sả là 0,1%
làm nồng độ cố định cho quá trình nghiên cứu
sau này.
4. Ảnh hưởng của PVA, PVP và chitosan
đến sự hình thành dung dịch nano bạc sả
Tiến hành sản xuất dung dịch keo nano
bạc sả bổ sung các chất hỗ trợ tạo keo với


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
nồng độ đã xác định được ở trên: PVA 0,1%,
PVP 0,3% và chitosan 0,1%. Sau khi sản


Số 1/2020
xuất, lấy mẫu xác định mật độ quang. Kết
quả đánh giá được trình bày ở Hình 4.

Hình 4. Ảnh hưởng của các chất hỗ trợ tạo keo đến độ hấp thụ quang của
dung dịch nano bạc sả.

Kết quả phân tích trình bày ở Hình 4 cho
thấy các chất hỗ trợ tạo keo khác nhau ảnh
hưởng không đáng kể đến chiều hướng hấp
thụ quang của dung dịch nano bạc sả tạo
thành và dung dịch nano bạc sả đều có chiều
hướng hấp thu quang tương tự nhau trong dải
sóng đo mật độ quang từ 200 - 700 nm. Kết
quả đo độ hấp thụ quang cũng cho thấy dung
dịch nano bạc sả sử dụng các chất hỗ trợ tạo
keo PVA hay PVP hoặc chitosan đều có mức
độ hấp phụ quang cực đại ở bước sóng 450
nm. Mức độ hấp phụ quang cao thể hiện hạt
keo nano bạc sả được hình thành tốt nhất.
Kết quả phân tích cịn cho thấy các chất
hỗ trợ tạo keo khác nhau được sử dụng trong
quá trình chế tạo dung dịch nano bạc sả có
anh hưởng nhất định đến giá trị đo độ hấp
thụ quang của dung dịch nano bạc sả tại một
bước sóng nhất định. Cụ thể, khi sử dụng
chitosan hoặc PVA làm chất hỗ trợ tạo keo
trong quá trình tạo dung dịch nano bạc sả thì
độ hấp thụ quang của dung dịch keo nano bạc

sả đạt giá trị cao nhất và nằm trong khoảng
1,859 ÷ 1,9316. Kết quả phân tích cũng cho
thấy sử dụng PVP thì độ hấp phụ quang của
dung dịch keo nano bạc sả thấp nhất và chỉ
còn 1,294. Kết quả này chứng tỏ PVP không
phù hợp với việc hỗ trợ tạo dung dịch keo
nano bạc sả. Mặt khác, kết quả phân tích
cũng cho thấy sử dụng PVA trong hỗ trợ tạo
dung dịch keo nano bạc sả có ưu thế hơn sử
dụng chitosan ở chỗ dung dịch keo tạo thành
nano bạc sả tạp thành từ q trình chế tạo có

sử dụng PVA có độ hấp phụ quang cao trong
khoảng bước sóng rộng từ 400 đến 550nm,
đạt cực đại ở bước sóng 450 nm sau đó độ
hấp phụ quang giảm nhưng mức độ giảm
chậm trong khoảng bước sóng từ 450 nm đến
550 nm. Trong khi đó, dung dịch keo nano
bạc sả bổ sung chitosan cũng có độ hấp phụ
quang cực đại ở bước sóng 450 nm, sau đó độ
hấp phụ quang giảm nhanh hơn trong khoảng
bước sóng từ 450nm đến 500 nm. Kết quả
này chứng tỏ dung dịch keo nano bạc sả bổ
sung PVA có độ ổn định cao nhất.
Từ tất cả các phân tích ở trên cho thấy khi
sử dụng chất hỗ trợ tạo keo PVA với nồng độ
0,3% thì dung dịch nano bạc sả có độ hấp
thụ quang cao và ổn định thể hiện dung dịch
keo nano bạc sả hình thành thể keo bền.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Từ các nghiên cứu cho phép rút ra một số
kết luận: trong các chất hỗ trợ tạo dung dịch
keo nano bạc sả đã sử dụng thì PVA là chất
hỗ trợ tạo keo tốt nhất và nồng độ PVA thích
hợp cho quá trình tạo dung dịch keo nano
bạc sả là 0,3%. Dung dịch nano bạc sả bổ
sung PVA 0,3% có độ hấp thụ quang cao và
ổn định thể hiện dung dịch keo nano bạc sả
hình thành thể keo bền.
Từ những nghiên cứu ở trên chúng tôi
đề xuất tiếp tục nghiên cứu một số yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình tạo dung dịch keo
nano bạc sả như thời gian khuấy và nhiệt độ
khuấy,…

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt
1. Đỗ Tất Lợi (2005). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb. Y học.
2. Phạm Trung Sản và cs (2013). Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp VHLKHCNVN “Nghiên cứu công nghệ
điều chế nano bạc hoạt tính cao bằng phương pháp điện hóa định hướng sử dụng làm dược phẩm điều trị và hỗ
trợ điều trị viêm xoang mũi” giai đoạn 2010-2013. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
3. Lương Thị Tú Uyên và cộng sự (2018). Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp tỉnh Quảng Nam

“Nghiên cứu hồn thiện quy trình tổng hợp keo nano bạc từ dung dịch AgNO3 bằng tác nhân khử dịch chiết
nước lá sả để sản xuất dung dịch keo nano bạc làm chất kháng khuẩn tại các cơ sở y tế của tỉnh Quảng Nam”,
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam.

Tiếng Anh
4. Agni Hadjilouka, Melissanthi Polychronopoulou, Spiros Paramithiotis, Periklis Tzamalis, Eleftherios
H. Drosinos. (2015). Effect of Lemongrass Essential Oil Vapors on Microbial Dynamics and Listeria
monocytogenes Survival on Rocket and Melon Stored under Different Packaging Conditions and Temperatures.
Microorganisms. 3(3), 535–550.
5. Anitha. J., Krithikadevi. R., Raam Dheep. G., Kiruba Daniel. S.C.G., Kasi Nehru, Muthusamy Sivakumar.
(2012). Biosynthesis of Ag Nanoparticles Using Amaranthus tristis Extract for the Fabrication of Nanoparticle
Embedded PVA Membrane. Current Nanoscience. 8(5), 000-000.
6. Burt S. (2004). Essential oils: Their antibacterial properties and potential applications in foods—A review.
Int. J. Food Microbiol. 94, 223253.
7. Fernanda Vitúria Leimann, Odinei Hess Gonỗalves, Ricardo Antonio Francisco Machado, Ariovaldo Bolzan.
(2009). Antimicrobial activity of microencapsulated lemongrass essential oil and the effect of experimental
parameters on microcapsules size and morphology. Materials Science and Engineering C 29(2):430-436.
8. Hibah M Aldawsari, Shaimaa M Badr-Eldin, Gihan S Labib, Amal H El-Kamel (2015). Design and
formulation of a topical hydrogel integrating lemongrass-loaded nanosponges with an enhanced antifungal
effect: in vitro/in vivo evaluation. Int J Nanomedicine. 10, 893–902.
9. Marilena Carbone, Domenica Tommasa Donia, Gianfranco Sabbatella, Riccarda Antiochia. (2016). Silver
nanoparticles in polymeric matrices for fresh food packaging. Journal of King Saud University. 28(4), 273-279.
10. Nate Seltenrich. (2013). Nanosilver: Weighing the Risks and Benefits. Environ Health Perspect. 121(7):
a220–a225.
11. Rojas-Grau M.A., Oms-Oliu G., Soliva-Fortuny R., Martın-Belloso O. (2009). The use of packaging
techniques to maintain freshness in fresh-cut fruits and vegetables: A review. Int. J. Food Sci. Technol. 44,
875–889.
12. Sivakumar D., Bautista-Banos S. (2014). A review on the use of essential oils for postharvest decay control
and maintenance of fruit quality during storage. Crop Prot. 64, 27–37.


8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

BỆNH XUẤT HUYẾT DO VI KHUẨN GÂY RA Ở CÁ HỒI VÂN (Oncorhynchus
mykiss Walbaum, 1792) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI LÂM ĐỒNG
BACTERIAL HEMORRHAGE DISEASE ON GWOWTH-OUT RAINBOW TROUT
(Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792) IN LAMDONG PROVINCE
Võ Thế Dũng¹, Võ Thị Dung¹
¹Viện Nghiên cứu Ni trồng thủy sản III
Tác giả liên hệ: Võ Thế Dũng (Email: )
Ngày nhận bài: 04/08/2019; Ngày phản biện thông qua: 7/01/2020; Ngày duyệt đăng: 26/02/2020

TĨM TẮT
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về bệnh xuất huyết do vi khuẩn gây ra trên cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss Walbaum, 1792) nuôi thương phẩm ở Lâm Đồng. Tổng số 58 cá thể cá hồi vân (chiều dài trung
bình 289,2± 21,2 mm) có dấu hiệu xuất huyết được sử dụng để phân lập và định danh vi khuẩn; 100 cá thể
cá hồi vân khỏe (chiều dài trung bình 275,5 ± 10,6 mm) được sử dụng để cảm nhiễm vi khuẩn Aeromonas
hydrophila và 100 cá thể cá hồi vân khỏe (chiều dài trung bình 260,5 ± 20,5 mm) được sử dụng để cảm
nhiễm vi khuẩn Burkholderia cepacia. Kết quả phân lập được 08 loài vi khuẩn từ các mẫu cá hồi bị xuất
huyết bao gồm Aeromonas hydrophyla, Burkholderia cepacia, Edwardsiella tarda, Escherichia vulneri, E.
hermanii, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Stenotrophomonas maltophilia. Trong đó, A. hydrophila
và B. cepacia có tỷ lệ bắt gặp lần lượt là 79,3% và 41,4%; E. tarda và P. vulgaris có tỷ lệ bắt gặp chung là
22,4%; E. vulneris và K. pneumoniae có tỷ lệ bắt gặp bằng 15,5%; S. maltophilia và E. hermanii chỉ được phát
hiện ở 3,4% số mẫu (2/58); Kết quả nghiên cứu cảm nhiễm xác định A. hydrophyla là vi khuẩn gây bệnh xuất
huyết ở cá hồi vân thương phẩm tại Lâm Đồng.
Từ khóa: Aeromonas hydrophila, Bệnh xuất huyết, Cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792),

tỉnh Lâm Đồng.
ABSTRACT
This paper presents studying results of hemorrhage disease caused by bacteria on rainbow trout
(Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792) growing out in Lam Dong Province. A total of 58 rainbow trout
specimens (mean length 289.2± 21.2 mm) with signals of hemorrhage disease were used for bacterial
isolation and determination; 95 healthy rainbow trout specimens (mean length 275.5± 10.6 mm) were used
for Aeromonas hydrophila infection and 95 healthy rainbow trout specimens (mean length 260.5± 20.5 mm)
were used for Burkholderia cepacia infection. Eight species of bacterium were isolated from the hemorrhage
fish, including Aeromonas hydrophila, Burkholderia cepacia, Edwardsiella tarda, Escherichia vulneris,
Escherichia hermanii, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris and Stenotrophomonas maltophilia. Of which,
A. hydrophila and B. cepacia were found from 79.3% and 41.4% of the examined fish, respectively; E. tarda
and P. vulgaris were found in 22.4% the examined fish; E. vulneris and K. pneumoniae were found in 15.5%
examined fish; S. maltophilia, E. hermanii were found in 3.4% examined fish (2/58). Infection studying results
showed that, A. hydrophila was the one causing hemorrhage disease on growth-out rainbow trout in Lam Dong
Province.
Keywords: Aeromonas hydrophila, hemorrhage disease, Lam Dong Province, rainbow trout
(Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792).

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss
Walbaum, 1792) được nhập về nuôi ở Việt
Nam từ năm 2005. Kết quả cho thấy, cá hồi

có thể thích nghi tốt và sinh trưởng nhanh ở
một số địa phương như Lâm Đồng, Lào Cai,...
Sau thời gian đầu phát triển rất nhanh, gần đây,
nghề ni cá hồi vân có dấu hiệu chững lại,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9



Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

bệnh là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất làm ảnh hưởng nghề ni lồi đặc
sản này (Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, 2018).
Mặc dù vậy, hiện có rất ít thơng báo chính thức
về bệnh cá hồi vân ở Việt Nam; cho đến nay
mới chỉ có 03 bài báo chính thức liên quan đến
bệnh cá hồi vân ở Việt Nam, bao gồm 02 bài
liên quan đến cá nuôi thương phẩm (Võ Thế
Dũng, Võ Thị Dung, 2018; Võ Thế Dũng, Trần
Thị Bạch Dương, 2011), và 01 bài báo ở cá hồi
vân giống (Võ Thế Dũng và cộng sự, 2014).
Do quá hạn chế về nguồn thơng tin xuất bản
rộng rãi, phần nào đó tạo nên những hạn chế

trong nghiên cứu bệnh cá hồi vân như hiện nay,
việc phòng và trị bệnh cá hồi vân vì thế cũng
cịn nhiều khó khăn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Thu mẫu và vận chuyển mẫu: Thu mẫu
chọn lọc, chỉ thu những con có dấu hiệu bệnh
lý như lở loét, xuất huyết, và kết hợp thu cá
khỏe tại các ao nuôi cá hồi ở Klong - Klanh,
Yangly, Thung Lũng Nắng, tỉnh Lâm Đồng.
Mẫu cá được vận chuyển bằng thùng xốp đựng
nước ngọt lọc sạch về Nha Trang, duy trì nhiệt

độ trong thùng ở mức 17-21ºC.

Bảng 1: Mẫu cá hồi được sử dụng để nghiên cứu vi khuẩn

Mẫu nghiên cứu
Cá bệnh để phân tích dấu hiệu
bệnh lý và phân lập vi khuẩn
Cá khỏe để cảm nhiễm
A. hydrophila
Cá khỏe để cảm nhiễm
B. cepacia

Số lượng cá

Chiều dài (mm)

Khối lượng (g)

58

289,2± 21,2

372,3 ± 102,9

95

275,5 ± 10,6

310,4 ± 16,7


95

260,5 ± 20,5

290,1 ± 25,3

2. Phương pháp xử lý mẫu trong phịng thí
nghiệm
+ Mẫu cá mang về được xử lý ngay. Quan
sát, đo chiều dài cá bệnh và ghi chép các dấu
hiệu trên cá: màu sắc cá, các vết loét, các điểm
xuất huyết, vây, vẩy.
+ Sử dụng kéo, dao, panh đã khử trùng bằng
cách đốt trên ngọn lửa đèn cồn. Khi nội tạng lộ
ra, quan sát và ghi chép các hiện tượng khác

thường như sự tích dịch, màu sắc dịch, biến đổi
màu sắc hình dạng, thể trạng gan, thận, lách,
mật, ruột.
2.1. Phương pháp nuôi cấy, phân lập và định
danh vi khuẩn: Sử dụng phương pháp nghiên
cứu bệnh vi khuẩn ở cá và động vật thủy sản
của Bergy được giới thiệu bởi Holt và cộng
sự (1994). Sơ đồ nghiên cứu được trình bày ở
Hình 1.

Hình 1: Sơ đồ nuôi cấy, phân lập, định danh vi khuẩn.

10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
2.2. Phương pháp cảm nhiễm vi khuẩn
- Cá thí nghiệm: Cá hồi thu từ một số hộ
nuôi cá hồi ở Lâm Đồng, ni thuần dưỡng
trong hệ thống bể thí nghiệm cho đến khi cá
chủ động bắt mồi trong bể mới đưa vào thí
nghiệm.
- Điều kiện ni: nước ngọt lọc sạch, nhiệt
độ khống chế 18-20ºC bằng cách đặt các bể
ni trong phịng có máy điều hòa nhiệt độ,
nước dùng để thay cũng được giữ trong phịng
điều hịa, sục khí liên tục, ni 10 con/bể xi
măng 2 m³, cho ăn bằng thức ăn công nghiệp.
- Thí nghiệm gây nhiễm: các chủng vi
khuẩn (Areomonas hydrophila, Burkhoderia
cepacia) có tần số xuất hiện cao trên các mẫu
cá bị bệnh xuất huyết, được dùng để cảm
nhiễm bằng phương pháp tiêm dưới da bằng

Số 1/2020
cách chích mũi tiêm nghiêng 30º so với thân
cá, mũi tiêm chỉ vừa qua lớp da mà không
đi sâu vào cơ, liều lượng 0,2 ml dịch khuẩn/
con cá với 3 nghiệm thức nồng độ là NT1(103
CFU/ml), NT2 (105 CFU/ml), NT3 (107 CFU/
ml); Mỗi nghiệm thức cảm nhiễm 10 cá thể, lặp
lại 3 lần. Nhóm đối chứng gồm 5 cá thể được
tiêm dưới da bằng nước muối sinh lý tiệt trùng
0,85%, liều lượng 0,2 ml/cá, không lặp lại như

nhóm cảm nhiễm.
- Chăm sóc cá thí nghiệm: Theo dõi tình
trạng sức khỏe của cá, hàng ngày cho ăn,
siphon bể và thay 30% nước. Khi xuất hiện cá
bị bệnh, ghi chép các dấu hiệu lâm sàng. Cá
chết được quan sát, giải phẩu kiểm tra sự thay
đổi ở những cơ quan bên ngoài và bên trong,
thu mẫu bệnh phẩm để nghiên cứu vi khuẩn.

Hình 2: Sơ đồ thí nghiệm cảm nhiễm vi khuẩn.

Thí nghiệm kéo dài 10 ngày.
- Phân lập định tính lại: Lấy mẫu bệnh phẩm
gan, thận, chỗ xuấy huyết, mang cá bệnh phân
lập định tính lại bằng test kit API-20E. Định
danh vi khuẩn dựa vào phản ứng sinh hóa trên
kít API 20E kết hợp với hệ thống phân loại của
Buller (2004).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Dấu hiệu cá hồi vân bị bệnh xuất huyết
Dấu hiệu bệnh lí: Cá bị bệnh có triệu chứng
kém ăn, sau đó bỏ ăn, bơi chậm trên tầng mặt,

màu da sẫm đen hơn cá khỏe. Trên thân cá
có vết loét nhỏ hoặc lớn, khơng có hình dạng
nhất định, ăn sâu vào thịt cá, để lộ cơ ra ngoài.
Thường xuất huyết tại gốc vây, trên thân, dọc
theo đường bên, cá chết rải rác.
Giải phẫu những cá bị bệnh lở loét điển
hình, quan sát bên trong, thường thấy gan bầm,

hoặc xuất huyết, nội tạng cũng xuất huyết, lá
lách đen thẫm, xoang bụng có tích dịch màu
vàng. Nếu cá bị bệnh nặng, gan thường nhão
ra. Dạ dày và ruột có ít hoặc khơng có thức

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

ăn. Hậu môn sưng to hoặc xuất huyết. Các cơ
quan mềm nhão, hệ thống cơ trong xoang bụng
không chặt chẽ. Nhưng khơng phải tồn bộ

các dấu hiệu trên đều xuất hiện cùng lúc ở cá
nhiễm bệnh. Có dấu hiệu lặp đi lặp lại, có dấu
hiệu chỉ xuất hiện vài lần.

Bảng 2: Tần suất bắt gặp các dạng dấu hiệu ở cá hồi vân bị xuất huyết

Dấu hiệu bệnh lý
Cá kém ăn
Da sẫm màu
Lở loét trên thân
Xuất huyết trên thân và đường bên
Xuất huyết quanh vết loét
Xuất huyết ở gốc vây ngực
Xuất huyết ở gốc vây bụng

Xuất huyết ở gốc vây hậu mơn
Xuất huyết ở gốc vây lưng
Xuất huyết trong mắt
Mịn vây, cụt đuôi
Hậu môn sưng đỏ hoặc xuất huyết
Dạ dày, ruột trống rỗng
Gan bầm hoặc xuất huyết
Gan nhão
Dịch vàng trong xoang bụng
2. Kết quả phân lập vi khuẩn trên các mẫu
cá hồi bị bệnh xuất huyết
Thành phần và tần suất bắt gặp vi khuẩn
trên cá bị xuất huyết được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3 cho thấy, từ các mẫu bệnh
phẩm đã bắt gặp 8 loài vi khuẩn, bao gồm:
Aeromonas hydrophila, Burkholderia cepacia,
Edwardsiella tarda, Escherichia vulneri, E.
hermanii, Klebsiella pneumoniae, Proteus
vulgaris, Stenophomonas maltophilia. Trong
đó, A. hydrophila và B. cepacia có tỷ lệ bắt gặp
lần lượt là 79,3% (46/58) và 41,4% (24/58). E.
tarda và P. vulgaris cùng có tỷ lệ bắt gặp là

Tần suất bắt gặp (n=58)
58/58
40/58
42/58
34/58
30/58
29/58

22/58
22/58
14/58
13/58
16/58
23/58
31/58
35/58
24/58
23/58

Tỷ lệ %
100,0
68,9
78,6
58,6
51,7
50,0
37,9
37,9
24,1
22,4
27,5
39,6
53,4
60,3
41,3
39,6

22,4% (13/58). E. vulneris và K. pneumoniae

cùng có tỷ lệ bắt gặp bằng 15,5% (9/58). S.
maltophilia, E. hermanii chỉ được phát hiện ở
2/58 mẫu (3,4%).
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã cho biết
Aeromonas hydrophila là lồi được phát hiện
ở hầu hết các khu vực, từ ôn đới đến cận nhiệt
đới và nhiệt đới, là tác nhân của bệnh nhiễm
trùng huyết, đốm đỏ, xuất huyết ở nhiều loài
thủy sản nước ngọt (Inglis et al., 1993). Loài
vi khuẩn này được bắt gặp thường xuyên trên
các mẫu cá hồi vân ni ở Thổ Nhĩ Kỳ (Ưztürk
and Altınok, 2014), đặc biệt là các mẫu cá bị

Bảng 3: Thành phần và tần suất bắt gặp các loài vi khuẩn ở cá bị xuất huyết

Loài vi khuẩn
Aeromonas hydrophila
Burkholderia cepacia
Edwardsiella tarda
Escherichia vulneri
Escherichia hermanii
Klebsiella pneumoniae
Proteus vulgaris
Stenophomonas maltophilia
12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số cá nhiễm/số cá kiểm tra
46/58
24/58
13/58

9/58
2/58
9/58
13/58
2/58

Tỷ lệ % số cá nhiễm
79,3
41,4
22,4
15,5
3,4
15,5
22,4
3,4


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

A

Số 1/2020

B

Hình
Vi khuẩn
thu thập
từ hồi
cá hồi

ni
LâmĐồng:
Đồng:Tiêu
Tiêu bản
Hình 3:
Vi 3:
khuẩn
thu thập
từ cá
ni
tạitạiLâm
bản nhuộm
nhuộm
Gram
vi
khuẩn
A.
hydrophyla
(A),
vi
khuẩn
B.
cepacia
(B)
Gram vi khuẩn A. hydrophyla (A), vi khuẩn B. cepacia (B)
bệnh nhiễm trùng máu (Kayis et al., 2009);
ở cá hồi vân ni tại Scotland. E. vulneris, E.
Có thể bắt gặp A. hydrophila trên cá hồi vân
hermanii phân bố khá rộng, từng được phân lập
quanh năm, lúc mùa đơng có nhiệt độ thấp (7,7

từ động vật, mơi trường, thậm chí là cả nước
± 1,4ºC), khi mùa hè với nhiệt độ cao (17,6 ±
sạch và con người, bắt gặp trên cá hồi vân và cá
4,6ºC) (Nematollahi et al., 2003). Ở Việt nam,
diếc ở Thổ Nhĩ Kỳ (Austin and Austin, 1986).
Đỗ Thị Hòa và cộng sự (2004) cho biết nhiều
3. Kết quả thí nghiệm cảm nhiễm vi khuẩn
loài thủy sản nước ngọt như cá trắm cỏ, cá
lên cá hồi khỏe
mè, cá basa, cá bống tượng, và cả cá sấu, ba
3.1. Cảm nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila
ba thường gặp bệnh đốm đỏ do Aeromonas di
- Sau 10 ngày theo dõi thí nghiệm, kết quả
động (A. hydrophila, A. sorbia, A. caviae) gây
cho thấy: Sau khi tiêm, cá vẫn bơi lội, bắt mồi
ra. Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung (2014; 2016)
bình thường. Thời gian phát bệnh tương ứng ở
và Võ Thế Dũng và cộng sự (2011) xác định A.
3 nghiệm thức 103, 105 và 107 cfu/ml là 72 giờ,
hydrophila là một trong các tác nhân gây bệnh
42 giờ và 24 giờ. Cá có những biểu hiện bất
xuất huyết ở cá tầm tại Lâm Đồng.
thường, dấu hiệu đầu tiên là cá kém ăn, bỏ ăn,
Trước đây, rất nhiều tài liệu đều thông
nổi lờ đờ, bơi sát thành bể. Ở vết tiêm có dấu
báo phân lập Burkholderia cepacia và
hiệu xuất huyết dưới da, sau đó loét ra, ăn sâu
Stenotrophomonas maltophilia từ môi trường
vào cơ, loang thành lỗ lớn, hậu mơn cá bị sưng
đất, nước ao hồ; Trong đó, B. cepacia thường

to và có dấu hiệu bị viêm, cá yếu dần.
được biết đến là tác nhân cơ hội gây bệnh xơ
- Những dấu hiệu như trên tương tự với mô
nang ở người và thối củ ở hành tây. Gần đây,
tả của Đỗ Thị Hòa và cộng sự (2004) về bệnh
mới có một vài thơng báo nghiên cứu lồi vi
đốm đỏ do vi khuẩn Aeromonas di động gây
khuẩn này ở cá; Miranda và Zemelman (2002)
ra trên một số loài thủy sản ở Việt Nam. Kết
cho biết bắt gặp B. cepacia trên cá hồi ở Chilê,
quả này cũng giống với “chứng thủng da” do
tuy nhiên tỷ lệ nhiễm rất thấp (3,9%). Đi sâu
Gopalakrishnan (1961) mô tả, tương tự như
nghiên cứu, Kayis và cộng sự (2009) thông báo
triệu chứng của bệnh loét, nhiễm trùng xuất
bắt gặp B. cepacia và S. maltophila trên các
huyết do A. hydrophila ở cá với phần nội tạng
mẫu cá hồi vân thu từ 32 trang trại ở Thổ Nhĩ
tích tụ chất lỏng, thiếu máu và hoại tử trong các
Kỳ; Trong đó, B. cepacia hiện diện ở da, gan,
cơ quan đặc biệt là thận và gan dẫn đến tỷ lệ tử
thận và lá lách cá hồi vân trong cả mùa xuân
vong cao mà Jeyasekaran và cộng sự (1996)
lẫn mùa hè.
đã đề cập. Bệnh nhiễm cá hồi trong nghiên
Theo Yousuf và cộng sự (2006), E. tarda
cứu này, sau khi mắc bệnh cũng có triệu chứng
thường cư trú trong đường ruột của cá, nhưng có
tương tự, nhẹ thì gan xuất huyết, nặng thì gan
thể sống bên ngồi vật chủ, trong dịng nước, là

mềm nhão, thận đen thẫm, xuất huyết trong.
một tác nhân gây bệnh cơ hội, có thể gây bệnh
Hình 5 cho thấy, tương ứng với nồng độ cảm
nhiễm khuẩn xuất huyết “edwardsiellosis”, làm
nhiễm 107, 105 và 103 cfu/ml, cá bắt đầu chết
chết rất nhiều cá, nhất là cá bơn. K. pneumoniae
ở ngày thứ 3, thứ 5 và thứ 8 của thí nghiệm. Ở
là vi khuẩn thường gây lở vây, mịn cụt đuôi
nồng độ tiêm 103 cfu/ml, ngoại trừ 1 trường

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

Hình 4: Một số hình ảnh cảm nhiễm và cá bị bệnh sau khi cảm nhiễm vi khuẩn A. hydrophila lên cá hồi khỏe.

hợp có biểu hiện đặc trưng của bệnh xuất huyết
và chết ở ngày thứ 8, những con cá khác khơng
có biểu hiện gì. Ở nồng độ 105 cfu/ml, cá chết
rải rác, đến ngày cuối cùng tỷ lệ chết tích lũy là
55%. Ở nồng độ 107 cfu/ml, cá chết nhanh, nội
quan xuất huyết, cơ nhão, dù bên ngồi chưa
có vết loét, tỷ lệ tử vong tích lũy đạt tới 100%,
sau 6 ngày.
3.2. Cảm nhiễm vi khuẩn Burkhoderia cepacia

Sau khi tiêm, cá vẫn bơi lội bình thường.

Thời gian phát bệnh đầu tiên ở 2 nghiệm thức
tiêm 105 và 107 CFU/ml lần lượt tương ứng là
48 giờ và 32 giờ. Cá cũng có những biểu hiện
bất thường như kém ăn, bỏ ăn, nổi lờ đờ, bơi
sát thành bể. Tuy nhiên, biểu hiện khơng giống
như ở thí nghiệm tiêm A. hydrophila, cá bị mất
màu ở vị trí vết tiêm và tại đó cấu trúc cơ nhão,
hậu môn sưng to, nhưng không thấy xuất huyết

Hình 5: Tỷ lệ chết tích lũy (của cá hồi) trong
thí nghiệm cảm nhiễm vi khuẩn A. hydrophila.

Hình 6: Tỷ lệ chết tích lũy trong thí nghiệm
cảm nhiễm vi khuẩn B. cepacia lên cá hồi khỏe.

14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
và lt bên ngồi, nội quan có xuất huyết, gan
tím bầm, đầu miệng cá có vết trắng bất thường.
Ở nghiệm thức thí nghiệm tiêm mật độ 107
CFU/ml, cá chết nhanh sau khi có dấu hiệu
bệnh, hậu mơn sưng đỏ, nội quan tím bầm.
Cá bắt đầu có hiện tượng chết sau 3 ngày cảm
nhiễm đến ngày thứ 8 của thí nghiệm tỷ lệ
chết là 100%. Trong khi đó, ở nghiệm thức thí
nghiệm 105 CFU/ml, cá chết rải rác đến ngày
thứ 8 của thí nghiệm và tỷ lệ chết tích lũy sau
10 ngày cảm nhiễm là 43,8%. Ở nghiệm thức

tiêm với mật độ 103 CFU/ml một số cá có biểu
hiện sưng nhẹ tại vị trí vết tiêm, sang ngày thứ
2 thì hết sưng, khơng có hiện tượng chết.
Cá ở nghiệm thức đối chứng vẫn khoẻ mạnh
bình thường trong suốt thời gian thí nghiệm.
Phân lập vi khuẩn ở cá bệnh cho thấy một
dạng khuẩn lạc đặc thù của B. cepacia. Mật độ
vi khuẩn phân lập được ở Nghiệm thức 2 (105
CFU/ml) là 6,45 x 103 CFU/g và ở Nghiệm

Số 1/2020
thức 3 (107 CFU/ml) là 1,36 x104 CFU/g. Từ
kết quả như trên, có thể khẳng định tác nhân
chính của bệnh xuất huyếtt trên cá hồi vân là vi
khuẩn A. hydrophila.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Phân lập được 8 loài vi khuẩn gồm
Aeromonas hydrophila, Burkholderia cepacia,
Edwardsiella tarda, Escherichia vulneri,
Escherichia hermanii, Klebsiella pneumoniae,
Proteus vulgaris, Stenophomonas maltophilia
từ các mẫu cá hồi vân nuôi tại Lâm Đồng bị
xuất huyết, trong đó A. hydrophila là tác nhân
chính gây bệnh xuất huyết.
2. Kiến nghị
- Tiếp tục nghiên cứu phòng trị bệnh do vi
khuẩn gây ra để hạn chế tác hại đối với sản
xuất.
- Sớm nghiên cứu sản xuất vaccine phòng

bệnh xuất huyết cho cá hồi tại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Thị Muội, 2004. Bệnh học thủy sản. Nhà xuất
bản Nơng nghiệp - Thành phố Hồ Chí Minh. 423 trang.
2. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, 2018. Ký sinh trùng ký sinh ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum,
1792) ni thương phẩm tại Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 14/2018: 65-69.
3. Thế Dũng, Võ Thị Dung, 2016. Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá tầm nga giống (Acipenser guldenstaedtii)
tại Lâm Đồng và đề xuất biện pháp phịng trị. Tạp chí Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Số 5/2016: 87-91.
4. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, 2014. Kết quả nghiên cứu bệnh xuất huyết, lở loét do vi khuẩn gây ra ở cá tầm
ni thương phẩm tại Lâm Đồng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Số 23/2014: 99-105.
5. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Hòang Ngọc Hồi, Đinh Thị Thu Thùy, 2014. Nghiên cứu một số ký sinh trùng
gây bệnh ở cá hồi vân (Onchorhynchus mykiss) giống tại Lâm Đồng. Tạp chí Nơng nghiệp và phát triển nơng
thơn, Số 6/2014: 69-73.
6. Võ Thế Dũng, Trần Thị Bạch Dương, 2011. Nghiên cứu tác nhân gây bệnh trên cá tầm (Acipencer baeri) và
cá hồi (Oncorhynchus mykiss) trong hệ thống ao nuôi công nghiệp. Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học Thuỷ
sản tồn Quốc năm 2011, Nhà xuất bản Nơng nghiệp, trang 196-200.
7. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Nguyễn Thị Hồng Tuyên, Nguyễn Viết Thùy, Lê Phước Thuần, 2011. Nghiên
cứu một số tác nhân có khả năng gây bệnh xuất huyết lở loét ở cá tầm (Acipenser gueldenstaidtii và A. baeri)
ni ở Lâm Đồng. Tạp chí Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn. Số 23/2011: 74-79.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

Tiếng Anh
8. Austin B., and Austin D.A., 1986. “Bacterial fish pathogens: disease of farmed and wild fish”, p 11.

9. Buller N.B., 2004. Bacteria from fish and other aquatic animals: A Practical Identiication Manual. CABI
Publishing, Cambridge, MA, USA.
10. Gopalakrishnan V., 1961. Observations on a new epidemical eye disease affecting the Indian carp Catla
catla (Hamilton Buchanan). Indian journal of fisheries 8(1): 222-232.
11. Holt J.G., Krieg N.R., Sneath P.H.A., Staley J.T., and Williams S.T., 1994. Bergey’s Manual of Determinative
Bacteriology, Ninth Edition. Williams and Wilkins, Baltimore, Maryland. 787 pp.
12. Inglis V., Roberts R.J., and Bromage N.R., 1993. “Bacterial Diseases of Fish”, New York, NY, Halsted
Press.
13. Jeyasekaran G., Karunasagar I., and Karunasagar I., 1996. Incidence of Listeria spp. in tropical fish.
International Journal of Food Microbiology, 31: 333-340.
14. Kayis S., Capkin E., Balta F., and Altinok I., 2009. “Bacteria in Rainbow Trout (Oncorhynchus mykiss) in
the Southern Black Sea Region of Turkey - A Survey”, The Israeli Journal of Aquaculture – Bamidgeh, 61(4):
339 – 344.
15. Miranda C.D., and Zemelman R., 2002. Bacterial resistance to oxytetracycline in Chilean salmon farming.
Aquaculture 212: 31 – 47.
16. Nematollahi A., Decostere A., Pasmans F., and Haesebrouck F., 2003. “Flavobac - terium psychrophilum
infections in salmonid fish”, J. Fish Dis. 26: 563-574.
17. Ưztürk R.Ç., and Altınok İ., 2014. Bacterial and Viral Fish Diseases in Turkey. Turkish Journal of Fisheries
and Aquatic Sciences 14: 275-297.
18. Yousuf R.M., How S.H., Amran M., Hla K.T., Shah A., and Francis A., 2006. "Edwardsiella tarda septicemia
with underlying multiple liver abscesses”: 49-53.

16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

ẢNH HƯỞNG CỦA VI KHUẨN Lactobacillus fermentum ĐẾN

MỘT SỐ CHỈ TIÊU MIỄN DỊCH VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG BỆNH CỦA
CÁ CHẼM (Lates calcarifer)
EFFECTS OF Lactobacillus fermentum DIETARY SUPPLEMENT ON PARAMETERS OF
IMMUNE RESPONSE AND BACTERIAL RESISTANCE OF BARRAMUNDI (Lates calcarifer)
Trương Thị Hoa¹, Nguyễn Ngọc Phước¹, Đặng Thị Hồng Oanh²
¹ Khoa Thủy sản - Trường Đại học Nông Lâm Huế
² Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ
Tác giả liên hệ: Trương Thị Hoa (Email: )
Ngày nhận bài: 04/07/2019; Ngày phản biện thông qua: 23/12/2019; Ngày duyệt đăng: 25/02/2020

TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của việc bổ sung vi khuẩn Lactobacillus fermentum
vào thức ăn lên sự đáp ứng miễn dịch tự nhiên của cá chẽm (Lates calcarifer). Thí nghiệm được bố trí với 4
nghiệm thức và 3 lần lặp. Nghiệm thức đối chứng âm (NT 1): Không bổ sung vi khuẩn L. fermentum vào thức
ăn và không cảm nhiễm vi khuẩn Streptococcus iniae vào xoang bụng cá; Nghiệm thức đối chứng dương (NT
2): Không bổ sung vi khuẩn L. fermentum vào thức ăn và cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae vào xoang bụng cá sau
14 ngày thí nghiệm với liều tiêm là 1,9x105 CFU/mL/cá; Nghiệm thức 3 (NT 3): Bổ sung vi khuẩn L. fermentum
vào thức ăn, mật độ 109 CFU/g thức ăn và không cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae; Nghiệm thức 4 (NT 4): Bổ sung
vi khuẩn L. fermentum vào thức ăn, mật độ 109 CFU/g thức ăn và cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae vào xoang bụng
cá sau 14 ngày cho ăn với liều tiêm là 1,9x105 CFU/mL/cá. Tỷ lệ sống của cá được theo dõi ngay sau khi cảm
nhiễm S. iniae đến 14 ngày sau cảm nhiễm. Các chỉ tiêu huyết học và khả năng kháng S. iniae của huyết thanh
cá chẽm được đánh giá vào 1, 14, 21 và 28 ngày thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng tế bào hồng
cầu và tổng bạch cầu của cá ở NT 3 và NT 4 ở các ngày 14, 21 và ngày thứ 28 cao hơn so với NT 1 và NT 2
(p<0,05). Ở thời điểm 21 ngày thí nghiệm: số lượng tổng bạch cầu và khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae của
huyết thanh cá chẽm ở NT 4 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với NT 2 (p<0,05); hoạt tính lysozyme ở NT 4 cao
hơn nhưng khơng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với NT 2 (p>0,05). Ở thời điểm 28 ngày thí nghiệm, tỷ lệ
sống của cá ở NT 2 và NT 4 lần lượt là 23,7% và 52,3%.
Từ khóa: Cá chẽm, đáp ứng miễn dịch, vi khuẩn Lactobacillus fermentum.
ABSTRACT
The aim of this study is to evaluate - effects of Lactobacillus fermentum supplement in diets on the innate immune response of barramundi (Lates calcarifer). The experiment was designed in 4 treatments with

triplicates. The negative control (NT 1): no L. fermentum supplement to the barramundi diet and no S. iniae
i.p injection. The positive control (NT 2): no L. fermentum supplement to the barramundi diet and S. iniae i.p
injection to the barramundi cavity after 14 days with the dose of 1.9x105 CFU/mL/fish. The treatment 3 (NT
3): L. fermentum supplement to the barramundi diet at 109 CFU/g in feed and no S. iniae i.p injection. The
treatment 4 (NT 4): L. fermentum supplement to the barramundi diet at 109 CFU/g in feed for 14 days before
i.p injection to the barramundi with the dose of 1.9x105 CFU S. iniae /mL/fish. Blood samples were colleted on
day 1, 14, 21 and 28 for hamatological analysis and the ability of fish serum collected to identify the against of
S. iniae. The results showed that the number of red blood cells and total white blood cells of fish in NT 3 and
NT 4 on day 14, 21 and 28 were significantly higher than those from NT 1 and NT 2 (p<0.05). Total white blood
cells of fish and the antagonistic ability of barramundi serum to S. iniae from NT 4 was significantly higher
than those from NT 2 (p<0.05) on day 21. The lysozyme activity of fish in NT 4 was not significantly higher than
those in NT 2 treatment (p>0.05) on day 21. On day 28, the survival rate of fish in NT 2 and NT 4 treatments
were 23.7% and 52.3%, respectively.
Keywords: Barramundi, immune response, Lactobacillus fermentum.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, thành công của
những mô hình ni cá chẽm đã khẳng định
đây là đối tượng ni có hiệu quả kinh tế cao.
Nghề ni cá chẽm thương phẩm phát triển
mạnh ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
(Lý Văn Khánh và cộng sự, 2016). Riêng tại
tỉnh Thừa Thiên Huế, cá chẽm được nuôi khá
phổ biến và mang lại hiệu quả kinh tế cao (Trần
Thị Cẩm Tú và cộng sự, 2017).
Theo Wendover (2010), cá chẽm nuôi tại
Châu Á thường gặp một số bệnh do vi khuẩn,

trong đó bệnh do vi khuẩn Streptococcus iniae
khá phổ biến. Năm 1999, S. iniae gây bệnh trên
cá chẽm nuôi tại Australia (Bromage và cộng
sự, 1999). Năm 2009, vi khuẩn S. iniae được
phân lập từ cá chẽm bị bệnh ni tại Khánh
Hịa (Tran Vi Hich và cộng sự, 2013) và năm
2016 được phân lập trên cá chẽm nuôi tại Thừa
Thiên Huế (Trương Thị Hoa và cộng sự, 2018).
Bệnh do S. iniae có thể gây ra tỷ lệ chết lên đến
70% ở giai đoạn cá chẽm giống (Creeper và
Buller, 2006).
Một trong các biện pháp phòng trị bệnh trên
động vật thủy sản đang được chú trọng hiện
nay là dùng chế phẩm sinh học. Chế phẩm sinh
học có thể tăng cường khả năng miễn dịch của
cá chống lại vi khuẩn gây bệnh (Gatesoup,
2008). Trong các nhóm vi sinh vật sử dụng
làm chế phẩm sinh học, vi khuẩn Lactobacillus
đang được nghiên cứu và sử dụng khá phổ
biến. Vi khuẩn Lactobacillus có thể làm tăng
cường phản ứng miễn dịch của vật chủ chống
lại tác nhân gây bệnh, có khả năng bám vào tế
bào biểu mơ ruột, tồn tại và tăng mật độ trong
ruột, ngăn chặn hoặc giảm sự bám vào tế bào
của các tác nhân gây bệnh, cạnh tranh dinh
dưỡng với vi khuẩn gây bệnh, tạo ra acid lactic,
hydrogen peroxide và bacteriocin để ức chế sự
phát triển của các tác nhân gây bệnh (Lauzon
và Ringo, 2011).
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có các

nghiên cứu về ảnh hưởng của việc bổ sung vi
khuẩn L. fermentum vào thức ăn đến các chỉ
huyết học và khả năng kháng vi khuẩn S. iniae
trên cá chẽm. Vì vậy, nghiên cứu này được
thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của việc

18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 1/2020
bổ sung L. fermentum vào thức ăn đến sự biến
động số lượng tế bào máu cá chẽm, khả năng
ức chế S. iniae của huyết thanh và hoạt tính
lysozyme trong huyết thanh cá chẽm từ đó có
thể nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học với
thành phần chính là L. fermentum để phịng
bệnh xuất huyết do S. iniae gây ra, góp phần
phát triển bền vững nghề nuôi cá chẽm.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
Đối tượng: Một số chỉ tiêu miễn dịch của
cá chẽm
Vật liệu: Cá chẽm giai đoạn cá giống, được
cung cấp từ trại sản xuất giống Vân Nam, xã
Phú Thuận, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên
Huế; Chủng vi khuẩn S. iniae HTA1 và chủng
vi khuẩn L. fermentum C21 được cung cấp từ
phịng thí nghiệm Bệnh thủy sản, khoa Thủy
sản, trường Đại học Nông Lâm Huế.
2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Cá chẽm thí nghiệm
Cá chẽm giống được cung cấp từ Trại giống
Thủy sản Vân Nam, tỉnh Thừa Thiên Huế. Số
lượng cá bố trí thí nghiệm là 240 con, cá có
chiều dài trung bình 8,3 cm/con và khối lượng
trung bình 11,4 g/con. Sau khi chuyển về Khoa
Thủy sản, trường Đại học Nông Lâm Huế, cá
chẽm được thả vào 12 bể nhựa có thể tích 80 L,
mỗi bể thả 20 con. Cá được ni trong hệ thống
bể thí nghiệm 14 ngày trước khi tiến hành thí
nghiệm. Trong quá trình ni, một số yếu tố
mơi trường được duy trì ở mức thích hợp cho
cá phát triển. Cá được cho ăn bằng thức ăn
Nanolis C (Ocialis, Việt Nam), cho ăn 2 lần/
ngày vào lúc 8 giờ và 17 giờ, mỗi lần cho ăn
8% khối lượng thân (theo hướng dẫn của nhà
sản xuất).
Thành phần dinh dưỡng của thức ăn Nanolis C: protein thơ: 58%; protein tiêu hóa 55%;
xơ thơ 1%; canxi 2,5 - 3,5%; phốt pho tổng số
1,5 – 2,5%; lysin tổng số 3,2%; methionin và
cystine tổng số 2%. (Ocialis, Việt Nam)
2.2. Chuẩn bị vi khuẩn thí nghiệm
Chủng vi khuẩn S. iniae HTA1 được ni
sinh khối trong mơi trường TSB có bổ sung
1,5% NaCl ở nhiệt độ 28ºC, sau 24 giờ, tiến


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
hành ly tâm, đo mật độ quang bằng máy đo
quang phổ ở bước sóng 600 nm. Sau đó pha

lỗng vi khuẩn đến mật độ 1,9x105 CFU/mL
để cảm nhiễm trên cá (đây là liều gây chết 50%
(LD50 – Lethal dose 50) trên cá chẽm giống của
chủng vi khuẩn S. iniae HTA1), (Trương Thị
Hoa và cộng sự, 2018)
Chủng vi khuẩn L. fermentum C21 được
nuôi sinh khối trong ống falcon 50mL có chứa
30mL mơi trường MRS ở nhiệt độ 28ºC trong
24 giờ, tiến hành ly tâm, đo mật độ quang bằng
máy đo quang phổ ở bước sóng 600 nm, sau đó
pha lỗng vi khuẩn đến mật độ 1010 CFU/mL
để trộn vào thức ăn cho cá.
Chuẩn bị thức ăn cho cá: vi khuẩn L.
fermentum mật độ 1010 CFU/mL sẽ được hòa
đều vào 10 mL nước muối sinh lý trên máy
Vortex (IKA, Đức) và xịt đều vào 100g thức ăn
bằng bình xịt vơ trùng. Thức ăn sau khi chuẩn
bị được cho ăn ngay.
2.3. Bố trí thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm theo phương pháp của
Allameh et al. (2013). Thí nghiệm được bố trí
với 04 nghiệm thức và 03 lần lặp lại. Nghiệm
thức đối chứng âm (nghiệm thức 1 (NT 1)):
Không bổ sung vi khuẩn L. fermentum vào
thức ăn và không cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae
vào xoang bụng cá; Nghiệm thức đối chứng
dương (nghiệm thức 2 (NT 2)): Không bổ sung
vi khuẩn L. fermentum vào thức ăn và cảm
nhiễm vi khuẩn S. iniae vào xoang bụng cá sau
14 ngày thí nghiệm với liều tiêm là 1,9x105

CFU/mL/cá; Nghiệm thức 3 (NT 3): Bổ sung
vi khuẩn L. fermentum vào thức ăn, mật độ 109
CFU/g thức ăn và không cảm nhiễm vi khuẩn
S. iniae; Nghiệm thức 4 (NT 4): Bổ sung vi
khuẩn L. fermentum vào thức ăn, mật độ 109
CFU/g thức ăn và cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae
vào xoang bụng cá sau 14 ngày cho ăn với liều
tiêm là 1,9x105 CFU/mL/cá.
Theo dõi thí nghiệm trong 28 ngày, tiến
hành lấy máu ở động mạch đi vào ngày thí
nghiệm 1; 14; 21 và 28 ở các nghiệm thức (mỗi
lần thu mẫu lấy 03 con/bể và không thả lại) để
xác định số lượng tế bào máu, khả năng ức chế
S. iniae của huyết thanh và hoạt tính lysozyme
trong huyết thanh.

Số 1/2020
2.4. Phương pháp xác định các chỉ tiêu huyết
học
2.4.1. Định lượng hồng cầu
Số lượng hồng cầu trong máu của cá được
xác định theo phương pháp của Natt và Herrick
(1952). Mật độ hồng cầu được xác định bằng
buồng đếm Neubauer và được tính theo công
thức: HC (tế bào/mm³) = C x 10 x 5 x 200
(C là tổng số hồng cầu trong 5 vùng đếm)
2.4.2. Định lượng tổng bạch cầu
Sau khi lấy máu, nhỏ một giọt máu lên lame
kính, cho lamel chạm vào giọt máu, đẩy lamel
ngược về phía trước. Mẫu máu sau khi khô được

cố định bằng cách ngâm trong methanol 2 phút.
Để mẫu khô tự nhiên và nhuộm bằng Wright và
Giemsa. Số lượng tổng bạch cầu trong máu cá
được xác định theo phương pháp của Chinabut
và cộng sự. (1991) theo công thức:

(TBC: mật độ tổng bạch cầu (tb/mm³); R: mật
độ hồng cầu trên buồng đếm hồng cầu (tb/
mm³))
2.5. Xác định khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae
của huyết thanh
Khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae của huyết
thanh cá chẽm được xác định theo phương
pháp của Phuong và cộng sự (2007). Chủng vi
khuẩn S. iniae được nuôi sinh khối trong môi
trường TSB có bổ sung 1,5% NaCl, sau 24 giờ,
tiến hành ly tâm 6500 vòng/phút trong 5 phút,
loại bỏ phần dịch nổi sau ly tâm, bổ sung thêm
nước muối sinh lý và tiếp tục ly tâm lần 2, lần
3. Sau đó bổ sung nước muối sinh lý để tạo
dung dịch huyền phù, đo mật độ quang bằng
máy đo quang phổ ở bước sóng 600 nm, xác
định mật độ vi khuẩn cần sử dụng là 106 CFU/
mL. Mẫu máu cá sau khi lấy được cho vào ống
eppendorf 1,5mL, tiến hành ly tâm 6500 vịng/
phút trong 5 phút, lấy phần huyết thanh. Lấy
75µL dịch huyền phù vi khuẩn S. iniae mật
độ là 106 CFU/mL và 25µL huyết thanh cho
vào đĩa 96 giếng đáy phẳng. Giếng đối chứng
dương (control): cho vào 75µL dịch huyền

phù vi khuẩn S. iniae mật độ là 106 CFU/mL
và 25µL nước cất vô trùng. Giếng đối chứng
âm (blank): cho vào 75àL mụi trng TSB

TRNG I HC NHA TRANG ã 19


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
và 25µL nước cất vô trùng. Ủ mẫu qua đêm ở
28ºC. Sau đó thêm 100 µL TBTB (Thiazolyl
Blue Tetrazolium Bromide); (TBTB được pha
trong nước cất vô trùng với liều lượng 5mg/
mL) vào các giếng và lắc trong 15 giây, đo mật
độ quang của các giếng bằng máy đo quang
phổ ở bước sóng 600 nm. Số vi khuẩn S. iniae
bị ức chế (Suc (%)) bởi huyết thanh của cá chẽm
được tính theo cơng thức:
(Suc (%): Tỷ lệ (%) vi khuẩn bị ức chế bởi huyết
thanh; OD: Mật độ quang; OD control: Mật độ
quang ở giếng đối chứng dương; OD blank:
Mật độ quang ở giếng đối chứng âm)
2.6. Xác định hoạt tính lysozyme trong huyết
thanh
Hoạt tính lysozyme trong huyết thanh cá
chẽm được xác định theo phương pháp của
Kumar và cộng sự (2007). Dựng đường chuẩn
lysozyme với các nồng độ 0, 2, 4, 8 và 16 μg/
mL. Cho 10 μL dung dịch từ các nồng độ trên
cho vào đĩa 96 giếng, tiếp theo cho 200 μL/
giếng dịch huyền phù Micrococcus luteus

(Himedia, Ấn Độ), xác định đường giá trị chuẩn
về khả năng phân giải Micrococcus luteus của
lysozyme. Đối với mẫu huyết thanh của cá,
huyết thanh được pha loãng với dung dịch đệm
phosphate đến nồng độ cuối cùng là 0,33 mg/
mL. Lấy 3 mL dung dịch Micrococcus luteus
cho vào 50 mL mẫu huyết thanh đã pha loãng
trong đệm phosphate, trộn đều mẫu trong 15

Số 1/2020
giây. Đọc kết quả ở máy đo quang phổ, bước
sóng 450 nm sau khi trộn 60 giây. Sự hấp thụ
được so sánh với lysozyme tiêu chuẩn của hoạt
tính dựa vào đường chuẩn lysozyme về khả
năng phân giải Micrococcus luteus. Hoạt tính
lysozyme được xác định bằng đơn vị/phút/mg
protein của huyết thanh. Một đơn vị lysozyme
(U) được xác định là lượng lysozyme sẽ làm
giảm độ hấp thụ ở bước sóng 450 nm với 0,001
đơn vị hấp phụ/phút/mg (U/phút/mg).
2.7 Xác định tỷ lệ sống của cá
Theo dõi thí nghiệm, ghi nhận dấu hiệu
bệnh lý của cá bị bệnh và tiến hành phân lập
lại vi khuẩn từ gan, thận, lách và não các mẫu
cá bệnh. Xác định tổng số cá sống sau 14 ngày
cảm nhiễm S. iniae. Tỷ lệ sống của cá được xác
định theo công thức (Kumar và cộng sự, 2007):
3. Xử lý số liệu
Số liệu thơ thí nghiệm được nhập và xử lý
sơ bộ trên phần mềm Microsoft Excel 2016,

sau đó phân tích phương sai (ANOVA) hai
nhân tố theo mơ hình tuyến tính tổng qt
(General Linear Model) trên phần mềm SPSS
version 20.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Kết quả xác định các chỉ tiêu huyết học
của cá chẽm
1.1. Số lượng hồng cầu trong máu cá chẽm

Ghi chú: Gạch đứng trên đầu các cột trong hình là độ lệch chuẩn;
Các cột trong cùng ngày có các chữ cái a, b, c, d khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Hình 1. Biến động số lượng hồng cầu trong máu cá chẽm.

20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Theo dõi biến động số lượng hồng cầu trong
máu cá chẽm thí nghiệm vào các ngày 1; 14; 21
và ngày thứ 28 của thí nghiệm cho thấy, ở ngày
đầu thí nghiệm số lượng hồng cầu dao động
từ 2,34x106– 2,47x106 tb/mm³ và không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các nghiệm
thức thí nghiệm (p>0,05). Ở ngày thứ 14, số
lượng hồng cầu ở NT 1 và NT 2 lần lượt là
2,57x106 tb/mm³ và 2,85x106 tb/mm³ thấp
hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT 3
(3,67x106 tb/mm³) và NT 4 (3,8x106 tb/mm³).

Ở thời điểm 21 ngày, số lượng hồng cầu ở NT
3 cao nhất (4,05x106 tb/mm³), cao có ý nghĩa
thống kê so với các nghiệm thức khác (p<0,05).
Đến ngày thứ 28, số lượng hồng cầu ở NT 3 là
4,76x106 tb/mm³ và cao hơn so với các nghiệm
thức còn lại (p<0,05); trong khi đó NT 2 và NT
4, số lượng hồng cầu lần lượt là 2,67x106 tb/
mm³ và 3,24x106 tb/mm³, thấp hơn có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) so với NT 1 và NT 3. Như
vậy có thể thấy rằng ở NT 3 (bổ sung vi khuẩn
L. fermentum vào thức ăn và không cảm nhiễm
S. iniae), số lượng hồng cầu vào ngày thứ 21
và 28 cao hơn so với các nghiệm thức khác.
Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy ở ngày
thứ 14 (trước khi gây cảm nhiễm vi khuẩn S.
iniae), số lượng hồng cầu ở NT 3 và NT 4 (có
bổ sung L. fermentum vào thức ăn) cao hơn
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT 1 và
NT 2 (không bổ sung L. fermentum vào thức
ăn). Sau khi cảm nhiễm vi khuẩn S. iniae, số
lượng hồng cầu ở NT 2 và NT 4 giảm, trong
đó ở NT 2 (cảm nhiễm S. iniae và không bổ
sung vi khuẩn L. fermentum vào thức ăn) số
lượng hồng cầu thấp hơn có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với NT 4 (cảm nhiễm S. iniae và bổ
sung L. fermentum vào thức ăn). (Hình 1)
Như vậy có thể thấy rằng việc bổ sung vi
khuẩn L. fermentum vào thức ăn đã làm tăng
số lượng hồng cầu trong máu cá, giúp bảo vệ
cơ thể hạn chế tác hại của mầm bệnh. Tương

tự với nghiên cứu của Irianto và Austin (2002)
cho rằng việc bổ sung vi khuẩn lactic vào thức
ăn với liều 107 CFU/g thức ăn có thể làm gia
tăng đáng kể số lượng hồng cầu của cá hồi
(Oncorhynchus mykiss) trong 14 ngày cho ăn.
Theo Sampath và cộng sự (1998), các thơng số

Số 1/2020
huyết học của cá nói chung và số lượng hồng
cầu nói riêng được sử dụng làm tiêu chí đánh
giá tình trạng sức khỏe của cá. Số lượng hồng
cầu trong máu cá biến động do nhiều nguyên
nhân, trong đó khi cơ thể cá nhiễm mầm bệnh
vi khuẩn, số lượng hồng cầu giảm do bị vi
khuẩn phá hủy (Martins và cộng sự, 2008).
Theo Anderson và cộng sự (1996), số lượng
hồng cầu trên cá chẽm dao động từ 3,25x106 –
5,2x106 tb/mm³. Trên cá trôi Ấn Độ, số lượng
hồng cầu dao động từ 1,77x106 – 2,35x106
tb/mm³, sau khi cảm nhiễm Aeromonas
hydrophila, số lượng hồng cầu của cá giảm
(1,61x106 – 1,8x106 tb/mm³) trong 20 ngày thí
nghiệm (Kumar và cộng sự, 2007).
1.2. Số lượng tổng bạch cầu trong máu cá
chẽm
Kết quả xác định số lượng tổng bạch cầu
trong máu cá chẽm cho thấy ngày đầu của thí
nghiệm, số lượng tổng bạch cầu ở các nghiệm
thức dao động từ 2,27x105 – 2,38x105 tb/mm³
và không có sự khác biệt thống kê giữa các

nghiệm thức thí nghiệm (p>0,05). Đến ngày
thứ 14 (trước khi gây cảm nhiễm vi khuẩn S.
iniae), số lượng tổng bạch cầu ở NT 1 và NT
2 lần lượt là 2,47x105 tb/mm³ và 2,52x105 tb/
mm³, thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
so với tổng bạch cầu ở NT 3 (3,43x105 tb/
mm³) và NT 4 (3,45x105 tb/mm³). Kết quả này
cho thấy ở ngày thứ 14, số lượng tổng bạch
cầu ở 2 nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn L.
fermentum vào thức ăn (NT3 và NT4) đã khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức
cịn lại (NT1 và NT2 khơng bổ sung vi khuẩn
L. fermentum vào thức ăn). Đến ngày thứ 21,
số lượng tổng bạch cầu ở NT 1 là 2,69x105 tb/
mm³, thấp hơn nhưng khơng khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p>0,05) so với NT 2; số lượng
tổng bạch cầu ở NT 3 và NT 4 cao hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT 1
và NT 2. Đến ngày thứ 28, số lượng tổng bạch
cầu ở NT 1 là 2,94x105 tb/mm³, thấp hơn có
ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm
thức khác. Điều này cho thấy đến ngày thứ 28,
số lượng tổng bạch cầu ở NT 2 mới tăng lên và
khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
so với NT 3 và NT 4 Như vậy có thể thấy rằng

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản


Số 1/2020

Ghi chú: Gạch đứng trên đầu các cột trong hình là độ lệch chuẩn;
Các cột trong cùng ngày có các chữ cái a, b, c, d khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Hình 2. Biến động số lượng tổng bạch cầu trong máu cá chẽm.

việc bổ sung vi khuẩn L. fermentum vào thức
ăn đã kích hoạt số lượng bạch cầu tăng lên
từ rất sớm (ngày thứ 14), giúp bảo vệ cơ thể
chống lại sự xâm nhiễm của vi khuẩn S. iniae.
(Hình 2)
Theo Anderson và cộng sự (1996), số lượng
tổng bạch cầu trong máu cá chẽm dao động
từ 0,65x105 – 5,6x105 tb/mm³ và trung bình
là 4,48x105 tb/mm³. Bạch cầu là những tế bào
máu có nhân, kích thước khác nhau tùy thuộc
vào từng loại bạch cầu và là thành phần cơ bản
của hệ thống miễn dịch, với chức năng bảo vệ
cơ thể, bạch cầu có vai trị thực bào và đáp ứng
miễn dịch chống lại mầm bệnh xâm nhập và các
nhân tố bất lợi khác (Zinkl và cộng sự, 1991).
Do đó kết quả thí nghiệm này cho thấy ở NT 2
và NT 4, sau khi cảm nhiễm S. iniae, số lượng
tổng bạch cầu tăng. Như vậy, bên cạnh sự suy
giảm số lượng hồng cầu ở NT 2 và NT 4 sau
khi cảm nhiễm S. iniae, số lượng tổng bạch cầu
tăng ở 2 nghiệm thức này. Tương tự với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thu Dung (2016), số

lượng tổng bạch cầu trong máu cá kèo bị bệnh
xuất huyết do Streptococcus dysgalactiae cao
hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với cá
không bị bệnh. Theo Kumar và cộng sự (2007),
số lượng tổng bạch cầu trong máu cá trôi Ấn Độ
dao động từ 1,17x105 - 1,61x105 tb/mm³, tổng
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

bạch cầu tăng cao nhất ở thí nghiệm bổ sung
gelatin vào thức ăn và cảm nhiễm vi khuẩn A.
hydrophila.
2. Khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae của
huyết thanh cá chẽm
Kết quả nghiên cứu khả năng ức chế vi
khuẩn S. iniae của huyết thanh cho thấy tỷ lệ
(%) vi khuẩn S. iniae bị ức chế bởi huyết thanh
cá chẽm ở các nghiệm thức tăng trong 28 ngày
thí nghiệm. Khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae
của huyết thanh cá chẽm khơng có sự sai khác
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) ở các nghiệm
thức vào ngày 1 và ngày thứ 14 của thí nghiệm.
Đến ngày thứ 21, khả năng ức chế vi khuẩn S.
iniae của huyết thanh ở NT 4 (có bổ sung L.
fermentum và cảm nhiễm S. iniae) cao hơn có
ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm
thức khác. Ở NT 3 (bổ sung L. fermentum và
không cảm nhiễm S. iniae) khả năng ức chế S.
iniae của huyết thanh cao có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với các NT 1 và NT 2. Đến ngày
thứ 28, khả năng ức chế S. iniae của huyết

thanh ở NT 4 cao hơn so với NT 2 (p<0,05).
(Bảng 1)
Kết quả này cho thấy khi bổ sung L.
fermentum vào thức ăn cho cá chẽm và cảm
nhiễm S. iniae, khả năng ức chế S. iniae của
huyết thanh cao hơn so với các nghiệm thức


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 1/2020

Bảng 1: Khả năng ức chế vi khuẩn S. iniae của huyết thanh cá chẽm

Nghiệm thức
thí nghiệm
NT 1
NT 2
NT 3
NT 4

Ức chế vi khuẩn S. iniae của huyết thanh (%); (TB±SD)
1 ngày
14 ngày
21 ngày
28 ngày
a
a
a
26,7±1,5

31,0±4,6
35,0±5,0a
21,3±3,2
a
a
b
24,7±5,0
30,0±5,6
43,0±3,0
46,3±3,5b
26,0±4,0a
32,3±8,0a
55,0±5,0c
60,7±1,2c
a
a
d
24,7±2,9
34,3±4,7
74,0±2,6
64,3±2,1c

Các giá trị trong cùng cột có các chữ cái (a, b, c, d) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

khác. Do đó, tỷ lệ sống của cá chẽm ở NT 4
cao hơn so với NT 2. Tương tự với nghiên cứu
của Allameh và cộng sự (2013), vi khuẩn L.
fermentum phân lập từ dạ dày cá lóc có khả
năng tăng sức đề kháng của cá khi bổ sung
vào thức ăn, vi khuẩn L. fermentum điều chỉnh

hệ vi sinh vật đường ruột, làm tăng cường
các thông số miễn dịch và huyết học kháng
lại vi khuẩn gây bệnh trên cá. Trên cá chẽm
(Dicentrarchus labrax), sử dụng Lactobacillus
delbrueckii làm giàu rotifer để làm thức ăn
cho cá chẽm có tác dụng gia tăng hoạt động hệ
miễn dịch của cá (Carnevali và cộng sự, 2006).
Theo Irianto và Austin (2002), khi bổ sung vi
khuẩn Carnobacterium sp. vào thức ăn cho cá
hồi (Oncorhynchus mykiss) với liều lượng 106
- 108 CFU/g thức ăn, làm tăng tỷ lệ sống, tăng
tốc độ tăng trưởng và tăng hoạt động hệ miễn
dịch của cá.
3. Hoạt tính lysozyme trong huyết thanh
Kết quả xác định hoạt tính lysozyme trong
huyết thanh cá chẽm vào ngày đầu tiên của thí
nghiệm ở các nghiệm thức dao động từ 725,3
– 768,2 U/phút/mg và khơng có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức thí
nghiệm (p>0,05). Đến ngày thứ 14, hoạt tính
lysozyme ở NT 4 là 1021,4 U/phút/mg, cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với NT 1 (785,9
U/phút/mg); hoạt tính lysozyme trong huyết
thanh cá chẽm ở NT 3 và NT 4 (có bổ sung
L. fermentum vào thức ăn) cao hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT
1 và NT 2 (không bổ sung L. fermentum vào
thức ăn). Đến ngày thứ 21, hoạt tính lysozyme
ở NT 1 là 840,2 U/phút/mg, thấp hơn có ý
nghĩa thống kê so với các nghiệm thức khác

(p<0,05); ở NT 4 (có bổ sung L. fermentum
vào thức ăn và cảm nhiễm S. iniae) hoạt tính
lysozyme của huyết thanh cao hơn nhưng

khơng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với
NT 2 (không bổ sung L. fermentum vào thức
ăn và cảm nhiễm S. iniae), (p>0.05). Đến
ngày thứ 28, hoạt tính lysozyme ở NT 2 và NT
4 lần lượt là 1133,9 U/phút/mg và 1010,5 U/
phút/mg; hoạt tính lysozyme của huyết thanh
cá chẽm ở NT 4 (có bổ sung L. fermentum vào
thức ăn và cảm nhiễm S. iniae) thấp hơn nhưng
khơng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
so với NT 2 (không bổ sung L. fermentum vào
thức ăn và cảm nhiễm S. iniae) và NT 3 (chỉ
bổ sung L. fermentum vào thức ăn). (Hình 3)
Tương tự với nghiên cứu của Kumar và
cộng sự (2007), hoạt tính lysozyme trong
huyết thanh cá trơi Ấn Độ (Labeo rohita) dao
động từ 675,41 – 903,60 U/phút/mg. Sau khi
cảm nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila
vào xoang bụng với liều tiêm là 1,8x108 CFU/
mL, hoạt tính lysozyme trong huyết thanh của
cá tăng và dao động trong khoảng 826,71 1123,34 U/phút/mg. Theo Trinh Dinh Khuyen
và cộng sự (2017), khi bổ sung lactoferrin vào
thức ăn với các khẩu phần ăn khác nhau và
cảm nhiễm vi khuẩn Aeromonas salmonicida,
hoạt tính lysozyme trong huyết thanh cá
hồi (Oncorhynchus mykiss) dao động trong
khoảng 1100 – 1700 U/phút/mg và khơng có

sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở các nghiệm
thức thí nghiệm nhưng tỷ lệ sống của cá ở
các nghiệm thức thí nghiệm cao hơn so với
nghiệm thức đối chứng. Tương tự với nghiên
cứu này và kết quả các nghiên cứu của Kumar
và cộng sự (2007) và Trinh Dinh Khuyen và
cộng sự (2017) cho thấy lysozyme đóng một
vai trị quan trọng trong đáp ứng miễn dịch
khơng đặc hiệu của cá và có khả năng kích
thích hệ miễn dịch của cá chống lại các tác
nhân vi khuẩn gây bệnh.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23


×