Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.66 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Chủ nghĩa tư bản</b> là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã hội loài người,
xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lịng xã hội phong kiến châu Âu
và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau
cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần
chiếm ưu thế hồn tồn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến,
quý tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu
và thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa
phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên A.Smithlà người có đóng
góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do
kinh doanh bằng hình thức các cơng ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong
các điều kiện của thị trường tự do, mọi sự phân chia của cải đều thơng qua q trình mua bán
của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế.
Tiếp theo sau giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên đến giai đoạn
cao hơn đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai đoạn tự do cạnh tranh trong cùng một phương
thức sản xuất TBCN.
Đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư
bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động trong tình
hình thế giới từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX cho đến nay. Để hiểu hơn về vấn đề này,
chúng ta sẽ đi nghiên cứu đề tài:
<b>A</b>.<b>CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN LÀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CAO CỦA</b>
<b>CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH.</b>
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn là: <b>chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh</b> và
<b>chủ nghĩa tư bản độc quyền</b>. Đây là hai giai đoạn nằm trong cùng một phương thức sản
xuất, chúng có bản chất giống nhau, chỉ khác nhau về hình thức biểu hiện.
<i>Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là giai đoạn đầu tiên của hình thái kinh tế tư bản chủ</i>
<i>nghĩa ( giai đoạn thấp), nó ra đời cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản , phát triển mạnh</i>
<i>vào thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX.</i>
Trong giai đoạn chủ nghĩa cạnh tranh tự do, giữa các nhà tư bản trong một ngành và
giữa các ngành diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt, quyết liệt.
Cạnh tranh giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mac và ph Ăngghen đã dự báo rằng: cạnh
tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến
mơt mức nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới của thế
giới,V.I.Lenin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoan mới là chủ nghĩa
tư bản độc quyền với các đặc điểm kinh tế cơ bản có những nét khác biệt với chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh.
<b>1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền và nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ</b>
<b>cạnh tranh tự do sang độc quyền</b>
<b>a) CNTB độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như một sự tất</b>
<b>yếu, phù hợp với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, điều kiện hoàn cảnh thế</b>
<b>giới mới, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển</b>
<b>của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.</b>
<b>b) Nguyên nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh tự do</b>
<b>sang độc quyền</b>
<b> </b>Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm
xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình độ tích tụ
cao, đó là những xí nghiệp lớn địi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, những thành tựu của khoa học kỹ thuật mới xuất
hiện như lị luyện kim mới Bétsơme, Máctanh, Tơmát,đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với
chất lượng cao, phát hiện ra hóa chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm, máy
móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay…, phát triển những
phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thủy, xe điện, máy bay…, đặc biệt là đường sắt. Những
thành tựu khoa học - kỹ thuật này một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi xí
nghiệp phải có quy mơ lớn, mặt khác nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích
lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
Sự phát triển của cạnh tranh, một mặt buộc các nhà Tư Bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng
qui mơ tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém, hoặc bị
các đối thủ mạnh thơn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy
xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một số ngành
công nghiệp.
Khủng hoảng kinh tế năm 1873 làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản. Một số
sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thốt khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy q trình tích tụ và
tập trung sản xuất.
Hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản
xuất, nhất là việc hình thành các cơng ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức đơc
quyền.
Những xí nghiệp và cơng ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục cạnh tranh với
nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, ta có thể khẳng định: <b>" cạnh tranh tự do đẻ ra tập trung sản</b>
<b>xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn đến</b>
<b>2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản đôc quyền:</b>
Xét về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của chủ
nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của
quy luật giá trị thặng dư.
<b>a)Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền</b>
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ
chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾ tổng số máy hơi nước và điện lực,
gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm.Sự tích tụ và tập
trug sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau; măt
khác, các xí nghiệp có quy mơ lớn , kỹ thuật cao nên cạnh tranh gay gắt quyết liệt. Do đó đã
dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.
''<i>Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tậptrung vào trong tay</i>
<i>phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu đượclợi</i>
Khi bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hố thì hình thức thống trị là cơng ty cổ
phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết ngang ( cùng
ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa ngành hình
thành các cơng ty lớn như: Cơnglơmêrát, Consơn thâu tóm nhiều cơng ty xí nghiệp thuộc
những ngành cơng nghiệp khác nhau.
Vị trí, vai trị của cá tổ chức độc quyền: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực
sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
<i>Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:</i>
<i>* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.</i>
<i>* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua vào,</i>
<i>qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.</i>
<i>Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.</i>
<i>Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị</i>
<i>thặng dư, vì xét trên phạm vi tồn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi</i>
<i>nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.</i>
<i>Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân</i>
<i>lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.</i>
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị, nhưng nó
khơng thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất với
nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh
<b>b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính</b>
Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngân hàng cũng
diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng. Quy luật tích tụ,
tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp.
Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của ngân hàng,
cũng như quan hệ giữa ngân hàng và tư bản công nghiệp.
Ở CNTB tự do cạnh tranh, ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng thì
nay ngân hàng đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng,
khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận
gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một thời gian dài, nên lợi ích của
chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm
nhập vào nhau, hình thành nên TB tài chính.
<i>'' tư bản tài chính là kêt quả của của sự hợp nhất của tư bản ngân hàng của một số ít ngân</i>
<i>hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp''</i>
Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi
phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó chính là bọn đầu sỏ tài
chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự" với số
phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) → chi phối công ty con → chi
phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính chi phối
được những lĩnh vực sản xuất.
Ngồi ra bọn đầu sỏ tài chính cịn sử dụng những thủ đoạn như: lập công ty mới, phát hành
trái khoán, đấu cơ ruộng đất,.... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.
<b>c) Xuất khẩu tư bản:</b>
V.I.Lenin chỉ ra rằng: xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- <i>Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá trị thặng</i>
<i>dư.</i>
<i> </i>-<i> Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngồi) nhằm</i>
<i>mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư</i>
<i>bản đó.</i>
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,xuất khẩu tư bản là tất yếu:
Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản", các nước phát triển đã tích lũy được
mơt khối lượng tư bản lớn, cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước.
trong khi đó, giá trị ngun liệu và nhân cơng ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại thiếu
vốn và kỹ thuật nên tỷ suất lợi nhuận cao, hấp dẫn đầu tư tư bản và có thị trường tiêu thụ hàng
hóa rộng lớn.
Có hai hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu
<i>- Xuất khẩu tư bản trực tiếp</i>: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp KD thu lợi nhuận,....
<i>- Xuất khẩu tư bản gián tiếp</i>: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt là đối với các
nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về chính trị.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngồi, là cơng
cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nơ dịch của tư bản tài chính trên phạm vi tồn
<b>d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế</b>
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân
chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB, phân chia thị trường thế
giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền
quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự
cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành các liên minh độc
quyền quốc tế.
Q trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy
mô và phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản
độc quyền.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ rằng thi trương trong nước ln gắn
với thị trường ngồi nước.
nếu như ở cntb cạnh tranh tự do, thị trươmg trong nước được coi trọng hơn thì đăc biệt trong
cntb độc quyền, thị trường ngồi nước cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các nước đế
quốc. V.I.Lenin nhận xét <i>" Bọn tư sản chia nhau thế giới không phải do tính độc ác đặc biệt</i>
<i>của chúng mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm</i>
<i>lời"</i>
<b>e) Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc</b>
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm thuộc địa,
vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được
độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do tác động đó, đặc biệt là do tác động của quy
luật phát triển khơng đều của CNTB đó là những ngun nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh
tranh cằng gay gắt thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa trên thế giới càng quyết liệt hơn.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói
lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về măt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
<b>3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ</b>
<b>nghĩa tư bản độc quyền.</b>
<b>a) Quan hệ giữa độc quyền và tự do cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc</b>
<b>quyền.</b>
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự
xuất hiện của độc quyền không làm thủ tiêu cạnh tranh tự do, trái lại, nó cịn làm cho cạnh
tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Quan hệ cạnh tranh trong cntb độc quyền phát triển hơn so với trong cntb cạnh tranh tự
do. ở đây không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư
bản vừa và nhỏ như trong cạnh tranh tự do mà có thêm các loại cạnh tranh:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngồi độc quyền. các tổ chức độc
quyền tìm cách chèn ép . chi phối, thơn tính các xí nghiệp ngồi độc quyền bằng nhiều biện
pháp để đánh bại đối thủ.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Có thể trong cùng một ngành, các ngành
khác nhau nhưng có liên quan với nhau về nguồn nguyên nhiên liệu... kết thúc bằng sự phá
sản của một bên, hoặc là sự thỏa hiệp.
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Nhằm giành thị trường tiêu thụ, chiếm cổ
phiếu khống chế....
<b>b) quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư</b>
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản
sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó khơng vượt ra khỏi
các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng,phát triển những xu thế sâu
sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và nền sản xuất hàng hóa nói chung, nên nó cũng làm cho các
quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền,
thấp hơn khi mua và cao hơn khi bán. Tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị không còn hoạt động. về thực chất, giá cả độc
quyền vẫn khơng thốt ly và khơng phủ định cơ sở của nó là giá trị.
Nếu trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện tành quy luật giá
cả sản xuất, thì trong chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá
cả độc quyền.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện
thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
<i>''Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tình theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản</i>
<i>xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa''</i>
Thì bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền
kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận đọc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận
độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn cntb độc
quyền. quy luật này phản ánh quan hệ bóc lột và thống trị của tư bản độc quyền trong tất cả
<b>B. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐÔC QUYỀN NHÀ NƯỚC LÀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN</b>
<b>TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN.</b>
Căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt được vào thời kỳ cuối
XIX đầu XX, xu hướng tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất, những hạn chế của quan hệ
sở hữu tư nhân TBCN đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tác động của quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đối với sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa...ta có thê thấy rằng cntb độc quyền sẽ
phát triển lên một nấc thang cao hơn là CNTB độc quyền nhà nước.
<b>1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước</b>
<b>a) Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước</b>
<b> </b> <b>Một là, </b>Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng
lớn, tính chất xã hội hố của nền kinh tế ngày càng cao địi hỏi phải có sự điều tiết của xã hội
đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải
dùng các công cụ khác nhau để can thiệp. Do đó địi hỏi phải có một hình thức mới của quan
hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện cịn sự thống trị của
chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
<b> </b> <b>Hai là</b>, Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà
các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân khơng thể hoặc khơng muốn kinh doanh vì đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ
bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
<b> </b> <b>Ba là, S</b>ự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai cấp giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước phải có chính sách để giải quyết
những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phat triển phúc lợi xã
<b> </b> <b>Bốn là, </b>Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc
quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và
nhỏ….trở nên gay gắt.
<b>Năm là, </b> Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các tổ chức
liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích
giữa các đối thủ trên thị trường thế giới. Đòi hỏi có sự điều tiết các quan hệ chính trị, kinh tế
quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trị quan trọng để giải quyết các quan hệ
đó.
Ngồi ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH hiện thực và
tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, địi hỏi có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước.
<b>b) Bản chất</b>
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của CNTB độc quyền, là sự
kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành
một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu
nguy cho CNTB
Xét về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi
phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ
canh tranh tự do.
Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư
bản khổng lồ. nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao
động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng nó vẫn có những điểm khác biệt:
ngồi chức năng một nhà tư bản thơng thường, nhà nước cịn có chức năng chính trị và các
Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội,
đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật với bộ máy bạo lực to lớn.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội,
chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự điều tiết của nhà nước
về kinh tế. trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên,bên ngồi q
trình kinh tế, vai trị của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Nhưng
trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vai trị của nhà nước có sự thay đổi, không chỉ
can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà cịn có vai trị tổ chức và quản lý
các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước...
<i> Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so với</i>
<i>chủ nghĩa tư bản, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền.</i>
<i>Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự can thiệp,</i>
<i>điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh</i>
<i>của nhà nước về kinh tế.</i>
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị,
song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội
đó. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài
quá trình kinh tế, vai trị của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật.
cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền vai trò của nhà nước tư sản dần dần co
sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế và phấp luật mà còn có vai
trị tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
<i>Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư</i>
<i>bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích</i>
<i>nghi với điều kiện lịch sử mới.</i>
<b>2. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước so với chủ</b>
<b>nghĩa tư bản độc quyền cũ</b>
Xét về phương diện lịch sử, chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XX trở lại đây đã có những biến đổi
sâu sắc, có thể coi như một bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
<b>a) Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền</b>
<b> - Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền</b>:
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển
của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các consơn và
cônglômêrát ngày càng được tăng cường. Cách mạng khoa học công nghệ dường như biểu lộ
thành hai xu hướng đối lập nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và
phi tập trung hóa. Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất: việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ cho phép
tiêu chuẩn hóa và chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, dẫn tới hình thành hệ thống
gia cơng, nhất là trong những ngành sản xuất ô tô, máy bay, đồ điện, cơ khí, dệt, may mặc, đồ
trang sức, xây dựng nhà ở.
sự chi phối của các chủ hãng lớn về công nghệ, vốn, thị trường, v.v..
Thứ hai: những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt ứng phó
với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc đầu tư vào những ngành mới đòi
hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những ngành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng đổi mới trang bị kỹ thuật mà khơng cần nhiều
chi phí bổ sung.
<b>- Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của TBTC</b>
<b> </b> Thích ứng với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư
bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm nhập vào
nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay, phạm vi liên kết được mở rộng
ra nhiều ngành, do đó các tập đồn tài chính thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp đa
dạng kiểu công - nông - thương - tín - dịch vụ hay cơng nghiệp - quân sự dịch vụ quốc phòng.
Vai trò kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn, khơng chỉ trong khn khổ
quốc gia mà cịn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước khác trên thế giới. Trùm tài chính khơng
chỉ tăng cường địa vị thống trị về kinh tế mà còn tăng cường sự khống chế và lợi dụng chính
quyền nhà nước.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với q trình quốc tế hố đời sống kinh tế, các tập
đồn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, tạo điều kiện
cho các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới
(WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Hoạt động của các tập đồn tài chính quốc tế đã dẫn đến
sự ra đời các trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng hồ Liên bang Đức,
Hồng Kơng, Singapo...
<b>- Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền nhưng quy mô, chiều hướng và</b>
<b>kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới</b>
<b> </b>Có sự tăng trưởng rất nhanh của việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển.
Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng lớn, một mặt, là do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển của việc phân cơng quốc tế, việc quốc tế
hố sản xuất và việc tăng nhanh tư bản "dư thừa"ở các nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ
thống thuộc địa cũ sau chiến tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia, luồng tư bản
xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các nước kém phát triển
(khoảng 70%). Nhưng từ sau những năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư
vào các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu.
+ Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình hình chính
trị thiếu ổn định; thiếu mơi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu đội ngũ chuyên gia, cán
bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ dân trí thấp khơng đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư nước
ngoài.
những hàng rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối
liên kết như EU, NAFTA... các công ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó
để phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua cả lệnh cấm
vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ đầu tư thăm dị và khai
thác dầu khí ở Việt Nam, đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên. Sở dĩ như
vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại quý hiếm vẫn đang là "gót chân Asin" của
nền kinh tế các nước TBCN phát triển, trong khi đó các nước đang phát triển giàu tài nguyên
lại thiếu vốn và kỹ thuật để khai thác.
<b>- Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản:</b>
Xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hố ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa nền kinh
tế. Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên quốc gia tăng lên
càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa
chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành CNTB độc quyền nhà nước quốc tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hố đời sống kinh tế lại diễn ra hiện tượng khu
vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên hợp châu Âu (EU),
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình
Dương (APEC)... Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do
<i>( FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xố bỏ hàng rào thuế quan đối</i>
<i>với hàng hóa của nhau.</i>
<i>CU là liên minh trong đó các nước thành viên có mức thuế chung đối với hàng hóa</i>
<i>nhập khẩu từ các nước ngoài khối)</i>
Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có nhiều ưu thế hơn so với
tiến trình tự do hố thương mại toàn cầu.
<b>- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh</b>
<b>tranh và thống trị mới</b>
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy yếu,
nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh giành nhau
phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "Chiến lược biên giới mềm", ra sức bành trướng
"biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ
sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng lại được thay
thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc đụng độ đó là các cường quốc đế quốc.
Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh vào Afganixtan, Irắc... chứng tỏ chủ nghĩa đế
quốc vẫn là một đặc điểm trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản.
<b> Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, CNTB đôc quyền nhà nước trong giai đoạn</b>
<b>hiện nay vẫn là CNTB độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm</b>
<b>đặc điểm cơ bản của CNTB độc quyền mà thôi.</b>
<b>3. Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền</b>
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có những biểu hiện mới sau
đây:
những cơng trình cơ sở hạ tầng xã hội mới xây dựng do nhà nước TBCN đầu tư.
- Kinh tế thuộc nhà nước và tư nhân kết hợp tăng lên mạnh mẽ: Năm 1979, trong 40
công ty công nghiệp lớn nhất của Tây Âu có 7 cơng ty hỗn hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân,
trong đó vốn nhà nước chiếm khoảng một nửa. Trong công ty dầu lửa của Mỹ, cổ phần do
Chính phủ nắm là 46%. ở Cộng hồ Liên bang Đức đã có 1.000 xí nghiệp thuộc Nhà nước và
tư nhân kết hợp.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước TB phát triển dùng để điều tiết quá trình tái sản xuất xã
hội tăng lên nhiều : Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoản chi này chiếm khoảng 10% tỷ
trọng tổng giá trị sản phẩm quốc dân, thì đến đầu những năm 1980, khoản chi này đã chiếm
hơn 30%, cá biệt có nước vượt quá 50%.
-Phương thức điều tiết của nhà nước cũng thay đổi một cách linh hoạt, mềm dẻo hơn, kết hợp
điều tiết tình thế với điều tiết dài hạn. Các công cụ và phạm vi điều tiết của nhà nước cũng đa
dạng và mở rộng hơn.
<b>4. Sự biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay và hành</b>
<b>động của chúng ta</b>
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản ln tìm cách thích nghi trước sự biến đổi
nhanh chóng, phức tạp của các mối quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế, nhưng bản chất của
chúng vẫn không thay đổi. Bởi vậy, trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta
phải đề cao cảnh giác, chủ động chống lại âm mưu "diễn biến hịa bình", ra sức phát huy nội
lực và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản ra đời cách đây hơn 500 năm và có bốn lần thay đổi lớn. Vào giữa
thế kỷ thứ XVIII, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra, chủ nghĩa tư bản
nông nghiệp và thương nghiệp chuyển thành chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tự do cạnh
tranh. Cuối thế kỷ thứ XIX, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền. Từ sau cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30 của thế kỷ XX và rõ nhất là sau chiến tranh thế giới
thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Bắt
đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
-cơng nghệ đã dẫn đến tồn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chuyển
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Cùng với sự phát triển của các công ty độc quyền xun quốc gia và tồn cầu hóa nền
kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản tổ chức ra Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới và các
thỏa thuận về thuế quan. Do nhu cầu điều chỉnh quan hệ thương mại nên ngay từ năm 1948,
các nước tư bản đã tổ chức ra Hiệp định chung về thuế quan (GATT). Sau đó, do tiến trình
khu vực hóa được xúc tiến mạnh mẽ nên đã dẫn đến sự ra đời của các Cộng đồng kinh tế châu
Âu , Khu vực tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương . Tiếp đó,
nền kinh tế tồn cầu ngày càng phát triển nhanh và sự ra đời của kinh tế tri thức đã làm nảy
sinh nhiều mối quan hệ kinh tế thế giới, buộc chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia phải
mở rộng.
CNTB độc quyền tìm cách thích nghi để vừa thao túng thị trường thế giới, vừa thực hiện
âm mưu gây ảnh hưởng về chính trị đối với các nước. Nếu trước đây, hình thức xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, do tương
quan lực lượng thay đổi và mất thế chủ động lịch sử, nên hình thức xâm lược của nó là chủ
nghĩa thực dân kiểu mới, thực hiện xâm lược, thôn tính thơng qua bàn tay người bản xứ, dưới
chiêu bài "độc lập", "quốc gia" giả hiệu.
Trước đây, hình thức xâm lược của chủ nghĩa đế quốc là chiến tranh. Sau này, do phong
trào chống chiến tranh phát triển mạnh mẽ, hơn nữa, nếu tiến hành chiến tranh thì sẽ tốn kém,
Nhìn lại thế giới trong mấy thập kỷ qua, chúng ta thấy nổi lên các sự kiện chứng minh
bản chất xâm lược, thơn tính của chủ nghĩa đế quốc hiện đại. Nói cách khác, trong thời đại
ngày nay, bản chất của chủ nghĩa đế quốc không hề thay đổi mà chỉ có sự thích nghi của
chúng trước những biến đổi của tình hình.
Việc gia nhập nền kinh tế của thế giới đang đưa lại cho nước ta nhiều cơ hội lớn:
- Có điều kiện thuận lợi để tiếp cận thị trường thế giới, thu hút đầu tư, tiếp thu kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của các nước tư bản phát triển, nhằm phát
triển lực lượng sản xuất cũng như nền sản xuất xã hội.
- Đối diện với các cuộc cạnh tranh quyết liệt và điều đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp ở
nước ta đổi mới, năng động hơn để tồn tại, phát triển và thúc đẩy người lao động phấn đấu
nâng cao kỹ năng lao động để đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động.
- Cho phép nước ta cải thiện vị trí của mình khi tham gia vào việc xác định các quy chế
thương mại tồn cầu và có điều kiện để đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại, tránh mọi sự phân biệt đối xử.
- Chúng ta phải cải cách hệ thống ngoại thương để bảo đảm tính thống nhất, minh bạch
Tuy nhiên, cần nhận thức sâu sắc rằng, những cơ hội trên đây chỉ là những điều kiện,
khả năng, chứ khơng tự động trở thành hiện thực. Việc có tận dụng và biến chúng thành hiện
thực hay khơng, hồn toàn phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của Nhà
nước và sự phấn đấu của toàn dân ta.
<b>Gia nhập kinh tế thế giới, chúng ta khơng chỉ có những cơ hội mà cịn có cả những</b>
<b>thách thức, đó là:</b>
- WTO là một "sân chơi" tồn cầu, đang kiểm sốt 85% thương mại hàng hóa, 90%
thương mại dịch vụ tồn cầu và kiểm sốt hầu như tồn bộ các hoạt động kinh tế thương mại
và đầu tư của thế giới. Các thành viên của WTO chủ yếu là các nước tư bản phát triển, nhưng
cũng có một số nước đang phát triển, và mới đây lại có cả những nước có con đường phát
triển không giống các nước thành viên khác, như Trung Quốc, Việt Nam. Vì vậy, tuy WTO có
ngun tắc "bình đẳng và tự do thương mại" nhưng trên thực tế, các nước tư bản phát triển
ln ln tính tốn đến lợi ích của họ, đồng thời tìm cách chi phối các nước nhỏ yếu và các
nước có con đường phát triển khác
- Gia nhập thị trường thế giới, một mặt, chúng ta phải đối diện với hàng hóa nhập khẩu
được trợ giá của các nước đang phát triển; mặt khác, phần trợ cấp, trợ giá cho hàng hóa của
chúng ta thì phải thu hẹp hoặc cắt hẳn.
<b>Để việc hội nhập kinh tế quốc tế mang lại hiệu quả cho công cuộc xây dựng và bảo</b>
<b>vệ Tổ quốc, chúng ta cần nhận thức sâu sắc và giải quyết tốt một số vấn đề sau:</b>
<b>Một là,</b> khi xem xét thời cơ và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta khơng
chỉ xem xét ở khía cạnh kinh tế mà cịn xem xét ở cả các khía cạnh chính trị, văn hóa, xã hội,
<b>Hai là,</b> mục tiêu của cách mạng nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, còn
việc thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế thế giới, gia nhập nền kinh tế thế
giới chỉ là một trong các phương tiện để đi đến mục tiêu đó. Cái thiếu nhất của nền kinh tế
nước ta là thiếu một lực lượng sản xuất phát triển. Đảng ta đã đề ra chủ trương phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO để phát triển lực
lượng sản xuất và trên cơ sở đó, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
<b>Ba là,</b> trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải ra sức phát huy nội lực, vì
chỉ trên cơ sở nội lực được phát huy, mới thu hút mạnh đầu tư nước ngồi và mới có điều kiện
để kết hợp nội lực với ngoại lực trong công cuộc xây dựng đất nước.
<b>Bốn là, </b>trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải nỗ lực vượt bậc để tranh
thủ tối đa ngoại lực, nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời giữ vững định hướng
XHCN trong công cuộc xây dựng đất nước.
<b>Năm là,</b> chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác, liên minh với các nước,
nhưng hội nhập mà khơng hịa nhập, hợp tác chân thành nhưng khơng từ bỏ đấu tranh chống
lại các âm mưu đen tối của các thế lực thù địch, vì chỉ có đấu tranh thì mới thực hiện được
mục tiêu của hợp tác.
Trong mấy chục năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã phải đối phó với các âm
mưu "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch. Cái cốt lõi của "diễn biến hịa bình" là tạo
ra lực lượng tại chỗ để tiến hành cuộc thay đổi chế độ. Để làm được điều đó, chúng tìm cách
thay đổi ý thức xã hội của quần chúng nhân dân, trước hết là ý thức chính trị.
Các phương tiện thơng tin đại chúng như sách báo, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng
Internet được chúng sử dụng một cách tối đa vào cuộc tiến cơng xun tạc đó. Đồng thời,
chúng sử dụng các vấn đề "tự do", "dân chủ", "nhân quyền" và tơn giáo, dân tộc để kích động
ly khai chế độ mà chúng ta xây dựng. Chúng vu cáo "Cộng sản cấm đạo" và tìm cách phát
triển tơn giáo ở các vùng dân tộc ít người, làm hậu thuẫn cho những phần tử xấu trong tôn
giáo tập hợp lực lượng để chống lại Đảng và Nhà nước ta.
văn hóa của dân tộc. Chúng ca ngợi các giá trị "tự do, "dân chủ" tư sản, đề cao chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan chạy theo đồng tiền bằng mọi giá, lối sống sa đọa, ăn chơi
hưởng lạc, hoàn toàn xa lạ với đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, các thế lực thù địch còn sử dụng sức mạnh kinh tế như tiền vốn, công nghệ tiên tiến,
kinh nghiệm quản lý và thị trường để phục vụ cho mưu đồ "diễn biến hịa bình". Trong số các
nhà tư bản nước ngồi đầu tư vào sản xuất, kinh doanh ở nước ta, hầu hết là vì lợi nhuận,
nhưng cũng có kẻ ngồi lợi nhuận cịn có mưu đồ xóa bỏ con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa của chúng ta.
Hiện nay, trước xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển, chủ nghĩa đế quốc cũng "hưởng
ứng" hịa bình, ký kết "hợp tác", nhưng mục đích cuối cùng của chúng là để tiếp tục tồn tại,
phát triển và thống trị thế giới. Mối quan tâm sống còn của chúng nằm trong lợi ích của chủ
nghĩa tư bản độc quyền. Chúng chỉ muốn tiếp tục sống với tư cách là giai cấp thống trị và bóc
lột. Chỉ có điều, do tình thế ngày nay đã khác trước nên chúng chọn hình thức, biện pháp thơn
tính, nơ dịch cho phù hợp hơn.