Nuôi cá biển trong ao đất
Mơ hình đưa cá bống mú lồng bè ngồi biển vào ni trong ao đất dưới tán rừng
phịng hộ ở ấp Ba Núi, xã Bình An (Kiên Lương, Kiên Giang) mang lại hiệu quả
kinh tế cao.
Lãi 2 tỷ đồng/năm
Trước hết phải kể đến nơng dân sáng tạo đưa mơ hình độc đáo từ biển khơi vào
trong đất liền, đó chính là ơng Nguyễn Hữu Trí ở ấp Ba Núi. Hơm chúng tơi đến,
ơng Trí đang hì hục đặt máy bơm nước trong vuông ao để chuẩn bị thả nuôi cá
bống mú đợt mới.
Ơng Trí nói: Gia đình có 2 ha đất bị nhiễm phèn, trồng lúa cho năng suất thấp và
bấp bênh, trồng cây ăn trái thì khơng hiệu quả. Thấy đồng đất khó khăn như vậy,
bao lần tơi định bỏ hoang, tìm việc khác để mưu sinh. Năm 1998, thấy một số nơi
bà con thả nuôi tôm sú đạt hiệu quả, tôi cũng bắt chước làm theo nhưng đều thất
bại, trở nên trắng tay. Có lúc phải đi làm thuê làm mướn cho người ta để kiếm tiền
mua gạo ăn qua ngày.
Câu chuyện nuôi cá biển trong ao của ông Trí mới bắt đầu từ năm 2007, ông được
người bạn thân ở xóm rủ đi biển đánh bắt cá bống mú. Trong suốt 1 tuần ở ngoài
biển lượng cá đánh bắt được khá nhiều nhưng tàu hết nước để uống. Ơng và người
bạn tìm cách rẽ vào hịn đảo để xin nước ngọt và đổi cá với chủ nhà. Tình cờ ơng
thấy phía sau nhà người cho nước uống có ni khoảng 10 con cá bống mú dưới ao
đất mà vẫn sinh sống khỏe mạnh.
Từ ý tưởng đã hình thành trong đầu, giống như ngọn đuốc bừng sáng. Trở về nhà
ông bàn với gia đình, sáng hơm sau sang nhà bà con vay mượn 20 triệu đồng để cải
tạo ao và mua cá giống về thả ni. Ban đầu ơng cịn “nhát tay”, vì chưa có kinh
nghiệm nhiều nên chỉ ni tập trung vào 2 cái ao với diện tích khoảng 5 công thả
thử xem sao.
Sau khi xử lý nước xong nuôi thấy cá khỏe mạnh, ông bắt đầu đi đặt hàng các ngư
dân trên địa bàn, nếu bắt được cá bống mú con thì bao nhiêu ơng cũng mua. Do cá
con không đồng đều nên ông chia ra nhiều ao để tiện việc chăm sóc, theo dõi tình
hình sinh trưởng của chúng. Từ khi ơng thực hiện mơ hình táo bạo này người dân
hàng xóm cười ơng nói: “Cá bống mú xưa nay sinh sống ngoài biển, đưa vào ao đất
như vậy cho phí tiền”.
Ơng Trí cho biết: Mặc cho những lời nói ra vào, ơng cứ thực hiện theo ý tưởng của
ơng. Tính từ ngày đầu thả ni đến khi thu hoạch là 10 tháng. Mặc dù loại cá này
thuộc dạng dễ ni nhưng q trình chăm sóc cũng rất cơng phu. Ngồi thức ăn
cho bống mú là cá phân (cá nhỏ), cứ 15 ngày phải thay nước ao ni 1 lần theo quy
cách: Bơm ra ngồi khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ
bên ngồi vào với thể tích tương đương như vậy.
Mơ hình ni cá bống mú trong ao đất của ông Trí
Sau 10 tháng thả nuôi, cá đạt trọng tượng từ 1 - 1,5 kg/con. Ơng Trí đã thu hoạch
mấy ao cá bống mú trước sự ngỡ ngàng của bà con. Với tổng số 5 công thả nuôi,
thu được 3 tấn, sau khi trừ chi phí, lãi gần 400 triệu đồng. Từ thành cơng ban đầu
ơng Trí trả hết nợ nần cho hàng xóm, số tiền cịn lại ơng bắt đầu cải tạo ao và mở
rộng diện tích ni ra 2 ha nằm trong rừng phòng hộ cặp cửa biển Ba Hịn, cũng là
địa điểm thích hợp cho việc lấy nước ra vào ni cá bống mú.
Số tiền cịn lại ông mua con giống thả hết diện tích. Do rút tỉa được kinh nghiệm
ni của vụ đầu nên ơng Trí rất yên tâm nuôi vụ thứ hai trong ao đất và thu được 7
tấn cá, bán với giá 250.000 đồng/kg lãi gần 2 tỷ đồng. Và nhiều vụ thả nuôi tiếp
theo ơng đều thành cơng giúp gia đình trở nên khá giả nhất trong ấp.
Kỹ thuật ni cá bống mú
Cá bống mú là lồi thủy sản ni trồng có giá trị kinh tế cao, loại cá này thuộc
dạng dễ nuôi, tỷ lệ sống trên 90%, nhưng q trình chăm sóc cũng rất cơng phu.
Ngồi thức ăn cho cá bống mú là cá phân như cá cơm, cá trích, cá liệt…, lúc cá
con mới đem về cho ăn bằng thức ăn xay nhuyễn cộng với tấm cám nấu. Khi cá lớn
bằng cùm tay bắt đầu cho cá ăn loại cá phân sống, ban đầu cho ăn 1 ngày hai cữ và
khi cá lớn giảm xuống cho ăn 1 cữ/ngày.
Theo ơng Trí khâu quan trọng nhất là quản lý nước trong ao, cứ 15 ngày là phải
thay nước ao ni theo quy cách bơm ra ngồi khoảng phân nửa nước hiện có
trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngồi vào ao với thể tích tương đương như vậy
mới thích nghi được cho cá.
Ao ni cải tạo sên vét bùn đáy, nếu có điều kiện trải bạt càng tốt để hạn chế cá
đào hang quanh bờ. Về giống có thể thả cá giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 - 7
cm hoặc 10 - 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo. Con giống địi hỏi khơng xây
xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn. Về mật độ thả, đây là lồi
cá dữ có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 - 3 con/m2.
Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong
giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường. Độ mặn từ 10 - 23 ‰ ;
pH từ 7.5 - 8.5 là thích hợp thả ni cá bống mú.
Ơng Trí cho biết thêm, để cá sống trong ao phải bố trí chà và các ống nhựa có
đường kính 10 - 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm
bệnh. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ
cũng như tốc độ tăng trưởng của cá. Trung bình đầu tư nuôi cá mú trong ao đất đến
thu hoạch khoảng 50.000 - 60.000 đồng/con/kg, cịn đầu tư ni cá bằng lồng bè ở
ngồi biển giá thành có thể tăng gấp 2 - 3 lần và quy mô bị giới hạn so với nuôi
trong ao đất mà thường xuyên bị rủi ro cao.
Từ sự thành công của bản thân ông Trí ni lồi cá này, ơng cịn thành lập HTX
ni cá bống mú trong ao đất được 15 ha với 20 xã viên được ông hướng dẫn kỹ
thuật nuôi rất nhiệt tình. Các xã viên trước đây là người dân nghèo có hồn cảnh
khó khăn nay nhờ vào HTX ni cá mú đã có của ăn của để. Bên cạnh đó HTX có
nguồn cá bán quanh năm cho thương lái, nên giá luôn ổn định ở mức cao. Hiện tại
trong xã Bình An có nhiều người học ni theo và số lượng lên khoảng 100 hộ
ni với diện tích trên 50 ha.
Ơng Vương Minh Mẫn, Trưởng phịng Kinh tế huyện Kiên Lương, cho biết: Do
tập tính của cá bống mú sống trong mơi trường có nguồn nước lưu thơng thường
xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình
thức ni lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế
cao cho người ni.
Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của mơi
trường nước bên ngồi có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lũ, áp thấp nhiệt đới,
bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu làm tăng rủi ro cao.
Nghề nuôi cá bống mú trong ao đất là triển vọng mới. Chi phí đầu tư vừa phải, hệ
số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh, rất phù hợp ở vùng đất ven biển Kiên Lương. Huyện
đang khuyến khích mở rộng diện tích ni, và tăng sản lượng mỗi năm, nhắm đến
xuất khẩu cá bống mú trong tương lai.