Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số kí sinh trùng gây bệnh ở tôm chân trắng (Litopenaeus Vannamei) nuôi thương phẩm tại tỉnh Ninh Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 7 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 3/2015

THÔNG BÁO KHOA HỌC

MỢT SỚ KÍ SINH TRÙNG GÂY BỆNH Ở TÔM CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI TỈNH NINH THUẬN
PARASITIC PATHOGENS IN WHITELEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei)
FARMED IN NINH THUAN PROVINCE
Nguyễn Thị Thùy Giang1, Phạm Quốc Hùng2
Ngày nhận bài: 16/7/2015; Ngày phản biện thông qua: 06/9/2015; Ngày duyệt đăng: 15/9/2015

TĨM TẮT
Một số bệnh kí sinh trùng ở tơm chân trắng nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận đã được nghiên cứu trong hai năm
2013 - 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tôm chân trắng nuôi thương phẩm tại Ninh thuận thường bị nhiễm các các kí sinh
trùng như: trùng tiêm mao bám ở trên cơ thể tôm (mang, vỏ, các phụ bộ) và vi bào tử trùng giống vi với Enterocytozoon
hepatopenaei nội kí sinh trong gan tụy của tơm nuôi. Tỷ lệ cảm nhiễm trùng tiêm mao ở tôm nuôi tại Ninh thuận là khoảng
30-60% nhưng cường độ cảm nhiễm thấp. Tôm nuôi bị nhiễm vi bào tử trùng ở gan tụy thường có bị chậm lớn hoặc chết
rải rác. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hiện tượng đục cơ (bệnh tôm bông) ở tôm nuôi tại Ninh Thuận có có liên quan
đến kí sinh trùng vi bào tử trùng. Một kết quả đáng ngạc nhiên là khơng tìm thấy sự có mặt của kí sinh trùng hai tế bào
Gregarine ở đường ruột tôm chân trắng nuôi ao tại Ninh Thuận.
Từ khóa: bệnh kí sinh trùng, tơm chân trắng, vi bào tử trùng, trùng loa kèn

ABSTRACT
Studies on Parasitic diseases on white leg shrimp (Litopenaeus vannamei) farmed in Ninh Thuan province were
carried out during two years (2013-2014). The results showed that grow-out shrimp usually infected by parasites such as
ciliates and microsporidia. Ciliates (Zoothamnium spp, Epistylis spp.) were found on the surface of the shrimp body, the
gills and the appendages with the infection rate was about 30-60% but the intensity of infection was very low. Meanwhile,
Enterocytozoon hepatopenaei liked microsporida were observed in the hepatopancreas of shrimps. The infected shrimp
often had a slow growth rate or mortality. Microsporidia Enterocytozoon hepatopenaei was not detected on shrimp with


clinical sign of milky muscle. Surprisingly, no detection of sporozoa Gregarine in shrimp’s gut.
Keywords: parasitic disease, Litopenaeus vannamei, Enterocytozoon hepatopenaei, Ciliates

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm chân trắng (L. vannamei) là một đối tượng
nuôi trồng thủy sản chủ lực của Việt Nam. Tuy
nhiên, dịch bệnh và những tổn thất do dịch bệnh
vẫn luôn là nỗi lo hàng đầu của người nuôi tôm.
Hàng năm, các dịch bệnh xảy ra vẫn gây ra thiệt hại
hàng tỷ đồng cho ngành ni tơm Việt Nam. Bệnh kí
sinh trùng ở tơm ni cũng là một mối nguy hại cho
người nuôi tôm với khả năng gây chết và chậm lớn
ở tôm. Đề tài này được thực hiện nhằm tiến hành
những nghiên cứu về một số bệnh kí sinh trùng
thường gặp ở tơm chân trắng ni thương phẩm

1

tại Ninh thuận: bệnh do ngoại kí sinh trùng, bệnh do
vi bào tử trùng, bệnh do trùng hai tế bào… Bên cạnh
thông tin về dấu hiệu bệnh lý, mức độ cảm nhiễm,
chúng tơi cịn nghiên cứu những biến dổi bệnh lý do
kí sinh trùng gây ra ở mơ và tế bào của tơm chân
trắng bị nhiễm kí sinh trùng.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu nghiên cứu.
Những bệnh do ký sinh trùng ký sinh ở tôm he
thường liên quan tới các dấu hiệu như đục trắng


ThS. Nguyễn Thị Thùy Giang, 2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang

14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
cơ hay các nội quan, gây chậm lớn, giảm tỷ lệ
sống (bệnh do vi bào tử Microsporidia, bệnh do
trùng hai tế bào-Gregarine hay do bào tử trùng
Haplosporidia…). Do vậy, vật liệu dùng cho nghiên
cứu này là các mẫu tôm chân trắng bị đục cơ, tơm
bị chậm lớn cịi cọc được thu ở các vùng nuôi tôm
thuộc tỉnh Ninh Thuận.
25 mẫu tôm (25-30 con/mẫu) (từ 30 ngày t̉i
đến trước thu hoạch) có dấu hiệu còi cọc chậm
lớn đã được thu. 18 mẫu tơm chân trắng có dấu
hiệu đục cơ (25-30 con/mẫu) đã được thu từ các
ao ni ở Ninh Thuận. Ngồi ra cũng có 15 mẫu
tơm khỏe chưa bộc lộ dấu hiệu bệnh cũng được
thu để làm đối chứng so sánh trong nghiên cứu
bệnh lý.

Số 3/2015
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Quan sát và mơ tả các dấu hiệu chính của bệnh
Các dấu hiệu chính bộc lộ ở bên ngồi cơ thể
và trên các nội quan như mang, ruột, gan tụy, cơ
của các mẫu tôm bị bệnh được quan sát trực tiếp
bằng mắt thường, mô tả và xác định tần suất xuất
hiện của các dạng bệnh lý trên các mẫu tôm bệnh

và tôm khỏe. Ngồi ra, các hình ảnh chụp tơm bệnh
và tơm khỏe cũng trợ giúp minh chứng cho sự mô
tả được cụ thể và rõ ràng.
2.2. Phương pháp mô bệnh học
Phương pháp mô bệnh học ứng dụng
cho nghiên cứu ở tôm he được giới thiệu bởi
Lightner (1996) đã được sử dụng cho nghiên cứu
này. Phương pháp nghiên cứu này bao gồm các
bước thực hiện được thể hiện ở hình 1.

Hình 1. Quy trình làm các tiêu bản mơ bệnh học của tôm he

2.2.1. Cố định mẫu dùng cho nghiên cứu mô bệnh học
Cố định mẫu: 2ml dung dịch Davidson (gồm:
330 ml cồn etylic 95% +220 ml formol 40%+ 115ml
acid acetic đậm đặc + 335ml nước cất) được tiêm
vào giáp đầu ngực của mỗi con tơm. Sau đó ngâm
tồn bộ cơ thể tơm trong dung dịch Davidson với tỷ
lệ về thể tích là 1/10. Thời gian cố định mẫu trong
dung dịch cố định từ 24-36h tùy theo kích thước của
tơm. Sau thời gian cố định, chuyển mẫu sang cồn
etylíc 70% để lưu giữ ở nhiệt độ phòng và thường
xuyên thay cồn mới nếu mầu của dung dịch cố định
bị thay đổi.
2.2.2. Xử lý, đúc và cắt mẫu
Các mẫu sau khi lấy ra khỏi dung dịch cồn
cố định, được làm mất nước bằng ngâm mẫu lần
lượt vào các dung dịch cồn etylíc với nồng độ tăng
dần (50%, 70%, 95% và 100%), mỗi thang cồn giữ
khoảng 30-60 phút. Sau đó mẫu được làm cho mềm

và trong bằng cách ngâm trong methyl salicylate
nguyên chất với thời gian 12-24 giờ. Thấm mẫu
trong paraphin nóng chảy ở nhiệt độ 650C trong thời
gian 6-8h. Cuối cùng đúc mẫu trong paraphin tạo
thành khối hình hộp. Cắt mẫu bằng máy microtom
thành các lát có độ dày 5-6µm và đặt các lát mô này

lên trên bề mặt 1 thau nước ấm có nhiệt độ 45-500C,
trong nước có bổ sung albumin từ lòng trắng của
1-2 quả trứng gà.
2.2.3. Nhuộm các tiêu bản mô bệnh học
Dùng lam sạch để vớt các lát cắt của mẫu (dày
5-6µ) nổi trên mặt nồi nước ấm (450C). Đặt lam mẫu
này lên máy sấy ở nhiệt độ 45-600C trong 1-4h (tùy
theo nhiệt độ). Khi các lam mẫu đã khơ, q trình
nhuộm các lam mẫu được thực hiện như sau: làm
mất paraphin bằng cách nhúng các lam mẫu trong
xilen 2 lần, 5 phút cho mỗi lần. Tiếp theo mẫu được
làm no nước bằng cách nhúng trong cồn etanol
với các nồng độ giảm dần (100%, 90%, 70% và
50%), mỗi mức cồn giữ trong 2-3 phút. Sau khi đã
no nước, các lam mẫu được nhúng với nước vòi
3-6 lần rồi nhuộm với Hematoxylin trong thời gian
4-6 phút, sau đó lấy mẫu ra rửa với nước vòi trong
thời gian 4-6 phút trước khi nhuộm lần 2 với Eosine
trong 2 phút. Tiếp tục làm mất nước của mẫu bằng
cách nhúng 10 lần các lam mẫu trong dung dịch
cồn với nồng độ tăng dần (50%, 70%, 90%, 95% và
100%). Cuối cùng làm trong các lam chứa các lắt
cắt mô bằng cách nhúng trong xilen 2 lần, 2-3 phút

cho 1 lần. Để lam mẫu khơ tự nhiên trong khơng khí,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
đậy bằng lamel với keo dán Bomcanada. Các tiêu
bản mô bệnh học được quan sát dưới kính hiển vi
quang học và xác định những biến đổi trong tổ chức
dựa vào sự so sánh với mẫu làm từ tôm khỏe.
2.3. Làm các mẫu mô ép hoặc mô phết để kiểm tra
nhanh ký sinh trùng
Phương pháp dùng các mẫu ép hoặc phết mô
gan tụy, mẫu ép mang hoặc các phần phụ của tôm
để kiểm tra phát hiện nhanh các loại ký sinh trùng
ký sinh ở mang, gan tụy hay bám trên các phần phụ
của tôm. Với các tiêu bản ép gan tụy được nhuộm
với xanh malachite 0,5%, các tiêu bản phết mô gan
tụy có thể được nhuộm với giemsa.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được thống kê và xử lý bằng phần mềm
Excel 2007
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Tôm chân trắng bị nhiễm tiêm mao trùng/
trùng lông (Ciliata)
Kết qủa kiểm tra 43 mẫu tôm đã chỉ ra rằng
mang và các phần phụ của tôm chân trắng nuôi ao
ở Ninh Thuận thường bị nhiễm một số tiêm mao
trùng thuộc hai giống Zoothamnium và Epistylis. Tỷ
lệ nhiễm tiêm mao trùng trong các ao giao động từ

40-60% với cường độ cảm nhiễm rất thấp: thường
chỉ gặp một vài quần thể của 2 loại tiêm mao trùng
này ký sinh ở các phần phụ như chân bơi, chân bị,
cá biệt có gặp ở mang của tơm. Kết quả phân tích
cho thấy khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thơng kê
về mức độ cảm nhiễm của ngoại kí sinh trùng giữa
những con tơm bị bệnh và chết với những con tôm
khỏe mạnh.
Bảng 1. Tỷ lệ cảm nhiễm kí sinh trùng trên tơm
chân trắng nuôi thương phẩm
Nguồn gốc

Số ao

Số tôm
đã kiểm tra

Tỷ lệ cảm nhiễm
KST (%)

Phước Dinh

5

55

51

An Hải


14

162

43

Tri Hải

5

54

73

Tân Hải

15

157

67

Hội Hải

4

50

69


å

43

478

TB: 60.6%

Các mẫu tôm thu có thời gian ni khoảng 30 ÷
60 ngày. Trong đó, tỷ lệ cảm nhiễm kí sinh trùng ở
tơm chân trắng nuôi tại xã Tri Hải là cao nhất (73%).
Ngược lại, tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng ở tơm chân trắng
nuôi tại hai xã An Hải và Phước Dinh là thấp nhất
(43-51%) so với các vùng nuôi khác. Nguyên nhân

16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 3/2015
sự khác biệt trên có thể là do quy trình kĩ thuật ni,
sự chăm sóc quản lý sức khỏe tơm trong q trình
ni, xử lý mơi trường nước, sử dụng hóa chất,
thuốc kháng sinh trong quy trình ni và chất liệu
đáy của các ao nuôi ở từng vùng nuôi. Một điều
quan trọng được ghi nhận là tỷ lệ nhiễm và cường
độ nhiễm cao hơn thường bắt gặp ở những hộ nuôi
thiếu hệ thống ao xử lý lắng lọc. Điều này cho thấy
rằng sự tăng lên về số lượng của các ngoại kí sinh
trùng trong ao ni có liên quan đến chất lượng mơi
trường trong ao nuôi giàu hợp chất hữu cơ. Nhiều
nhà khoa học đã cho rằng sự xuất hiện và có mặt

của các kí sinh trùng có thể là một cảnh báo về chất
lượng môi trường không tốt (Blanar & CTV, 2009;
Marcogliese, 2005;)
Bảng 2. Thành phần và mức độ cảm nhiễm
của các loài KST trên tôm chân trắng nuôi
thương phẩm
Mức độ cảm nhiễm
Thành phần KST

Epistylis sp.
Zoothamnium sp.

Cơ quan kí sinh TLCN
(%)

Chân

35,67

Thân, chân,
64,33
mang

CĐCN

min - max
TB

1-3
2,6

5 - 17
5,8

Có sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ và cường độ
nhiễm tiêm mao trùng ở tôm chân trắng so với các
kết quả tương tự thu được ở tôm sú nuôi trong
những nghiên cứu trước kia. Đỗ Thị Hịa & CTV
(1996) đã từng thơng báo về những trường hợp
tơm sú (P. monodon) ni trong ao bị bẩn mình, đen
mang và chết rải rác vào các buổi sáng do nhiễm
trùng tiêm mao với tỷ lệ (70-100%) và cường độ
nhiễm cao (>25). Sự khác biệt này có lẽ liên quan
tới việc tôm sú thường bị nhiễm rất cao các loại
virus như MBV (50-80%) hay HPV (30-50%) (Đỗ
Thị Hòa & CTV, 1996; Lightner, 1996) gây ra hiện
tượng còi cọc, chậm lớn. Hiện tường cịi cọc chậm
lớn của tơm sú, kết hợp với thời gian ni kéo dài
(4-5 tháng) và trình độ quản lý với các sản phẩm
hỗ trợ còn hạn chế đã dẫn tơm sú thời đó bị nhiễm
trùng tiêm mao cao và có thể gây tác hại cho tơm.
Những năm gần đây, tôm P. vannamei được nuôi
trong ao đất với mật độ cao, 80-120 con/m2 nhưng
chất lượng môi trường được quản lý khá tốt, thời
gian nuôi tôm chân trắng ngắn hơn tôm sú, các
hộ nuôi dùng các loại chế phẩm sinh học để quản
lý chất lượng nước, nên đã hạn chế sự sinh sôi
phát triển của các tiêm mao trùng, do vậy dù vẫn


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

gặp sự hiện diện của ký sinh trùng này ở tôm chân
trắng tại Ninh Thuận, nhưng cường độ nhiễm thấp,
hầu như khơng ảnh hưởng tới sức khỏe của tơm
(hình 2).
Mặc dù ít gây tác hại ở giai đoạn lớn, nhưng
trùng loa kèn có khả năng gây chết hàng loạt ở giai
đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm khi cảm nhiễm
với cường độ cao (Lightner, 1996). Với số lượng

Số 3/2015
lớn các trại sản xuất tôm giống phân bố trong tỉnh
Ninh Thuận, việc trùng loa kèn phân bố và tồn tại
ở khu vực này cũng là một mối nguy hiểm tiềm
tàng cần được quan tâm trong các chương trình
phịng ngừa và kiểm soát bệnh của địa phương.
Con giống sạch bệnh là một biện pháp hữu hiệu để
phòng ngừa dịch bệnh và sản xuất thương phẩm
thành cơng.

Hình 2. Trùng tiêm mao cảm nhiễm ở tơm chân trắng ni tại Ninh Thuận

1. Hình ảnh mô bệnh học của trùng tiêm mao (Zoothamnium sp) nhiễm ở trên cơ thể tôm (100x)
2. Tiêm mao trùng bao phủ trên bề mặt và các phần phụ của tôm
3. Hình dưới: Zoothamnium sp. kí sinh ở mang tơm

2. Bệnh đục cơ ở tôm chân trắng không liên quan tới vi bào tử (Microsporida)

Hình 3. Tơm chân trắng bị bệnh đục cơ và đặc điểm bệnh lý ở các vùng cơ vân bị đục mờ

Hình trái: Tơm chân trắng bị đục cơ thu ở Ninh Thuận (ở trên là tôm khỏe, ở dưới là tơm bị đục cơ)

Hình phải: Bệnh lý thể hiện ở vùng cơ vân bị đục mờ, nhưng khơng bị dập nát, khơng có mặt của vi bào tử, cũng khơng có các thể vùi của IMNV (mũi tên
trắng chỉ vùng cơ bình thường, mũi tên đen chỉ vùng cơ bị đục mờ)

Từ 18 mẫu tôm P. vannamei bị đục cơ thu tại
Ninh Thuận, vùng cơ vân dọc phần bụng bị đục mờ
đã được kiểm tra nhanh trên các tiêu bản ép tươi
và tiêu bản mô bệnh học để phát hiện sự tồn tại của

các vi bào tử. Tuy nhiên, tất cả các mẫu tôm bị đục
cơ này đều khơng phát hiện sự có mặt của vi bào tử
(hình 3). Bệnh lý thể hiện ở vùng cơ vân bị đục mờ
cho thấy không bị dập nát, không có mặt của vi bào

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
tử, cũng khơng có các thể vùi của IMNV (hình 3, mũi
tên trắng chỉ vùng cơ bình thường, mũi tên đen chỉ
vùng cơ bị đục mờ). Kết quả mô bệnh học này có sự
khác biệt với kết quả về được công bố bởi Prasertsri
& CTV (2009) và Limsuwan & CTV (2008) về bệnh
tôm đục cơ ở tôm chân trắng nuôi tại Thái lan. Hai
nhóm tác giả này đều tìm thấy sự có mặt của vi
bào tử trùng cũng như sự biến dạng của vùng cơ
bị đục. Với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cho
rằng hiện tượng tôm chân trắng bị đục cơ xảy ra ở
một số ao nuôi tôm chân trắng tại Ninh Thuận không
liên quan tới vi bào tử, cụ thể hơn rằng đây không
phải bệnh tôm sữa như đã được giới thiệu bởi

Lightner (1996), Limsuwan & CTV (2008) và
Prasertsri & CTV (2009).

Số 3/2015
3. Tôm chậm lớn với vi bào tử cảm nhiễm ở gan tụy
Nghiên cứu của chúng tôi trên 43 mẫu tôm chân
trắng nuôi thương phẩm tại Ninh thuận cũng đã phát
hiện được một loại vi bào tử tồn tại trong nguyên
sinh chất các tế bào biểu mơ hình ống của gan tụy
ở một số mẫu tơm chân trắng nuôi ở Ninh Thuận bị
chậm lớn hay bị hoại tử gan tụy. Tỷ lệ nhiễm khoảng
15-20%. Trên các tiêu bản ép mơ gan tụy tươi có
nhuộm xanh Malachite 0,5%, khi các tế bào biểu
mơ gan tụy hình ống của vật chủ vỡ ra, phóng thích
các vi bào tử ra ngồi tế bào được phát hiện rõ ràng
dưới kính hiển vi quang học ở độ phóng đại >400X.
Tuy nhiên, hiện tượng nhiễm vi bào tử loại này cũng
mới chỉ gặp ở một số ít mẫu tơm bị chậm lớn hay bị
hoại tử gan đưa vào xét nghiệm và trên một vài tiêu
bản mô bệnh học được làm từ tôm chân trắng ni
ở Ninh Thuận (hình 4).

Hình 4. Vi bào tử tương tự như loài
Enterocytozoon hepatopenaei nội ký sinh ở gan
tụy của tơm chân trắng tại Ninh Thuận
Hai hình trên: Vi bào tử ký sinh nội bào ở tiêu bản ép mơ gan
tụy tươi, nhuộm malachite green, độ phóng đại 400x (mũi tên)
Hình dưới: Tiêu bản mơ bệnh học của gan tụy tôm chân trắng
đã bị teo nhỏ, chuyển màu trắng thể hiện các tế bào biểu mô
gan tụy đã hoại tử, với nhiều hạt giống vi bào tử được phóng

thích ra bên ngồi (H & E, 200x)

Để đánh giá chính xác mức độ cảm nhiễm của
loại vi bào tử ở gan tụy của tôm chân trắng nuôi ở
Ninh Thuận , cần phải thu mẫu và phân tích thêm
bằng PCR. Theo Tangprasittipap & CTV (2013) khi
nghiên cứu ở tôm P.vannamei nuôi ở Thái Lan đã
cho rằng, phương pháp mô bệnh học có thể khơng
đánh giá được chính xác về tỷ lệ và cường độ
nhiễm của vi bào tử này ở tơm. Các tác giả này
đề nghị nên chẩn đốn bằng kỹ thuật PCR hoặc kỹ
thuật lai tại chỗ (ISH), tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay
vẫn chưa phát triển thành cơng cặp mồi đặc hiệu
hay đầu dị DNA đặc hiệu cho ký sinh trùng này để
có thể chẩn đốn bằng PCR hay ISH.

18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Ở Việt Nam, trong năm 2009-2010, đã có 2
nhóm nhà khoa học thuộc Viện NCNTTS I đã phát
hiện được một loài vi bào tử cảm nhiễm khá cao ở
gan tụy của tôm sú P. monodon ni ở Hải Phịng,
Nghệ An, Huế, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau
bằng phương pháp làm các tiêu bản ép hay phết
mô gan tụy tụy tươi, kết hợp với kính hiển vi điện
tử truyền qua (TEM). Đặc biệt, các nhà khoa học
này đã cho rằng, vi bào tử này có liên quan tới hội
chứng phân trắng (white feces syndrome-WFS)
ở tôm sú nuôi ở Việt Nam (Hà N.T.T & CTV, 2010).
Năm 2009, Tourtip & CTV đã xác định được loài

vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
kí sinh trong gan tụy của tôm nuôi tại Thái Lan nhưng
chưa đưa ra đánh giá về tác hại của kí sinh trùng
này với vật chủ. Năm 2013, Tangprasittipap & CTV
đã nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh rằng,
vi bào tử Enterocytozoon hepatopenaei khơng có
liên quan tới hội chứng phân trắng (WFS) của tôm
P.vannameinuôi tại Thái lan. Mặc dù vậy, sự cảm
nhiễm của loài vi bào tử này ở gan tụy của tơm với
cường độ cao có thể đã ảnh hưởng không tốt tới
sinh trưởng và sản lượng của tôm nuôi.
Với kết quả nghiên cứu trên, chúng tơi có thể
khẳng định là có một loại vi bào tử nội ký sinh trong
nguyên sinh chất của các tế bào biểu mô gan tụy ở
tôm chân trắng nuôi thương phẩm ở Ninh Thuận.
Tuy nhiên, mức đợ cảm nhiễm cũng như xác định
chính xác đây có phải là lồi Enterocytozoon
hepatopenaei hay khơng và tác hại của kí sinh
trùng này lên tơm ni như thế nào còn cần tiếp tục
nghiên cứu.
4. Bệnh ký sinh trùng 2 tế bào Gregarine
Đã kiểm tra 43 mẫu (10-15 con/mẫu) tôm chân
trắng nuôi ở Ninh Thuận nhưng không phát hiện
được trùng hai tế bào cảm nhiễm ở đường ruột
của các mẫu tôm này. Đây là một kết quả gây
ngạc nhiên. Theo Đ.T. Hịa & CTV (1996) tơm sú
đặc biệt tơm đất (Metapennaeus ensis) nuôi ao

thường bị cảm nhiễm ký sinh trùng hai tế bào với
tỷ lệ và cường độ rất cao. Đặc biệt, tại Ninh Thuận
cũng đã tìm thấy nhiều trùng hai tế bào ký sinh ở
ruột của tôm sú nuôi thương phẩm (Nguyễn Khắc
Lâm, 2010). Các nghiên cứu khác tiến hành trên
tôm chân trắng đã được công bố cũng cho thấy
sự xuất hiện của trùng hai tế bào trong đường ruột
của tơm ni. Ví dụ như tơm chân trắng nuôi tại
Nam và Trung Mỹ thường xuyên bị phát hiện sự có

Số 3/2015
mặt của trùng 2 tế bào như các giống Nematopsis
spp và Cephalolobus spp ký sinh ở ruột trước và
ruột giữa. Theo Jones et al., 1994, tôm chân trắng
nuôi ở vùng Texas (Mỹ) thường bị cảm nhiễm loài
Paraphioidina scolecoides ở ruột giữa của tôm. Ký
sinh trùng này không gặp ở giai đoạn nauplius, nhưng
đã được phát hiện ký sinh ở giai đoạn zoae, mysis và
postlarvae với tỷ lệ nhiễm cao từ 50-80% và từ
10- < 50 KST/ ấu trùng tơm (Jones et al., 1994).
Trong khi đó, tơm chân trắng ni ở Ecuador lại
được tìm thấy lồi trùng hai tế bào là Nematopsis
marinus, nhiễm ở giai đoạn juvenile và trưởng
thành nuôi trong ao đất, với tỷ lệ nhiễm 50-80% và
5-< 5000 trùng/tôm (Jimenez et al., 2002).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trùng tiêm mao (Zoothamnium sp và Epistilis
sp) đã phát hiện nhiễm ở tôm chân trắng nuôi
thương phẩm tại Ninh Thuận với cường độ nhiễm
rất thấp, nên có thể khơng gây tác hại gì đáng kể

cho sức khỏe của tơm ni tại địa phương. Đã phát
hiện một loại vi bào tử ký sinh nội bào trong nguyên
sinh chất của các tế bào biểu mơ hình ống ở gan
tụy của tơm chân trắng. Tuy nhiên, chưa thể đánh
giá được mức độ cảm nhiễm và tác hại của ký sinh
trùng này lên tôm nuôi. Vi bào tử trùng không phải
là tác nhân gây ra hiện tượng đục cơ ở tôm chân
trắng nuôi thương phẩm tại tỉnh Ninh Thuận. Một kết
quả đáng ngạc nhiên là khơng tìm thấy ký sinh trùng
hai tế bào (Gregarine) ký sinh ở đường ruột của tôm
chân trắng nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận.
Cần nghiên cứu tiếp tục về mức độ cảm nhiễm
và tác hại của hai hai loại ký sinh trùng: vi bào tử
ký sinh nội bào ở gan tụy và Gregarine ký sinh ở
đường ruột ở tôm chân trắng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tiếng Việt

1.

Đỗ Thị Hòa (1996). Nghiên cứu một số bệnh thường gặp ở tôm sú Penaeus monodon nuôi ở miền Trung Việt Nam. Luận án
Tiến sĩ.

2.

Nguyễn Khắc lâm (2010). Nghiên cứu bệnh teo gan trên tôm sú Penaeus monodon nuôi thương phẩm ở Ninh Thuận và đề
xuất các giải pháp phòng bệnh tổng hợp. Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp.


3.

Nguyễn Thị Hà, Đồng Thanh Hà, Nguyễn Thanh Thủy, Vũ Thị Kim Liên (2010). Enterocytozoon hepatopenaei ký sinh và
gây ra bệnh phân trắng ở tôm sú Penaeus monodon ni tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, 12: 45–50.



Tiếng Anh

4.

Blanar, C. A., Munkittrick, K. R., Houlahan, J., MacLatchy, D. L., & Marcogliese, D. J. (2009). Pollution and parasitism in
aquatic animals: A meta-analysis of effect size. Aquatic Toxicology, 93(1), 18-28.

5.

JiménezR., De BarniolL.,MachucaM. (2002).Nematopsis marinus n. sp., a new septate gregarinefromculturedpenaeidshrimp
Litopenaeus vannamei (Boone), in Ecuador. Journal Aquaculture Research , Vol. 33 (4): 231–240.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 3/2015

6.


Jones T. C., Overstreet R.M., Lotzl J. M., P. F. Frelier (1994). Paraophioidina scolecoides n. sp., a new aseptate gregarine
from cultured Pacific white shrimp Penaeus vannamei. Dis. aquat. Org, vol.19: 67-75.

7.

Limsuwan C., Chuchird. N.. Prasertsri S., Wongmaneeprateep S., Prompamorn P., Laisutisan K., P. Wiriyapatthanasub
(2008). Microsporidiosis in cultured Pacific white shrimp (Litopenaeus vannamei). In: Proceedings of the 45th Kasetsart
University Annual Conference, Kasetsart, 29 January - 1 February, 2008. Subject: Fisheries pp. 430-440.

8.

Lightner, D.V. 1996. A Handbook of Pathology and Diagnostic Procedures for Diseases of Penaeid Shrimp. World
Aquaculture Society. 304 p.

9.

Marcogliese, D. J. (2005). Parasites of the superorganism: Are they indicators of ecosystem health? International journal for
parasitology, 35(7), 705-716.

10. Prasertsri S., Limsuwan C. and Chuchird N. (2009). The Effects of Microsporidian (Thelohania) Infection on the Growth
and Histopathological Changes in Pond-reared Pacific White Shrimp (Litopenaeus vannamei). Kasetsart J. (Nat. Sci.) 43 :
680 – 688.
11. Tangprasittipap A., Srisala J., Chouwdee S., Somboon M., Chuchird N., Limsuwan C., Srisuvan T., Flegel T. W. and K.
Sritunyalucksana (2013). The microsporidian Enterocytozoon hepatopenaei is not the cause of white feces syndrome in
whiteleg shrimp Penaeus vannamei. Veterinary Research ,9:139, p.10.
12. Tourtip S, Wongtripop S, Stentiford GD, Bateman KS, Sriurairatana S, Chavadej J, Sritunyalucksana K., B.
Withyachumnarnkul (2009) Enterocytozoon hepatopenaei sp. nov. (Microsporida: Enterocytozoonidae), a parasite of the
black tiger shrimp Penaeus monodon (Decapoda: Penaeidae): Fine structure and phylogenetic relationships. J Invertebr
Pathol, 102(1):21–29.


20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×