VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
ĐÁNH GIÁ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus) NUÔI THƯƠNG PHẨM TRONG
HỆ THỐNG TUẦN HỒN NGỒI TRỜI QUY MƠ PILOT
Nguyễn Văn Huỳnh1*, Nguyễn Nhứt1, Nguyễn Hồng Quân1,
Lê Ngọc Hạnh1, Nguyễn Văn Hảo2
TĨM TẮT
Trong những năm gần đây, cơng nghệ ni cá tra trong ao truyền thống đã và đang làm ô nhiễm
môi trường nước thủy vực. Nghề nuôi cá tra cần có một cơng nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng
và hạn chế ơ nhiễm mơi trường. Chính vì thế, hệ thống tuần hồn ngồi trời quy mơ pilot đã được
nghiên cứu với mật độ ni cao, nó có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và chất lượng cá. Mục
tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá sự tăng trưởng và chất lượng cá tra trong hệ thống tuần
hồn và so sánh với các ao ni truyền thống. Hệ thống ni cá tuần hồn ngồi trời bao gồm một
ao cá diện tích 196m2, một ao lắng 70m2, một hệ thống lọc sinh học 25 m3. Diện tích tổng cộng của
hệ thống tuần hồn thí nghiệm là 226m2. Kết quả cho thấy năng suất nuôi đạt 88,2kg/m2, tỷ lệ sống
81,1%, hệ số chuyển đổi thức ăn 1,6, cá trong quần đàn đạt thịt trắng 100%, tỷ lệ thu hồi phi lê thô
1,95 và cá thương phẩm không nhiễm thuốc kháng sinh và hóa chất. Cá tra được ni trong hệ thống
tuần hoàn này thể hiện mùi làm giảm giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là công nghệ nuôi tiên tiến
sẽ được nghiên cứu sâu hơn và phát triển ứng dụng ở quy mô lớn tại Việt Nam trong tương lai gần.
Từ khóa: cá tra, tuần hồn, tăng trưởng, FCR, phi lê.
I. MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá tra
đã và đang phát triển, kim ngạch xuất khẩu cá
tra mang lại cho Việt Nam hàng tỷ đô la. Diện
tích ni 5.400 ha và tổng sản lượng 1.200.000
tấn (Phan Thanh Lâm và ctv., 2009). Bên cạnh
những thành tựu đó, nghề ni cá tra cũng gặp
nhiều khó khăn như: thị trường khơng ổn định,
quy trình ni truyền thống khơng mang tính
bền vững với mơi trường xung quanh. Điều này
dẫn đến sản phẩm thịt cá chưa hấp dẫn người
tiêu dùng, sự ô nhiễm môi trường nước tăng
nhanh và bệnh dịch xảy ra với tần suất cao 15
bệnh/hội chứng xảy ra trong chu kỳ ni (Phan
Thanh Lam và ctv., 2009).
Tính khơng bền vững về môi trường của
công nghệ nuôi hiện nay ở ĐBSCL là việc thay
nước khá lớn tạo ra một hệ thống hở. Hầu hết
các chất thải của ao nuôi cá tra không được
xử lý trước khi thải trực tiếp ra thủy vực xung
quanh và làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
đến sự phát triển của nghề nuôi cá tra, đến sức
khỏe cộng đồng. Theo Bosma và ctv., (2008) và
Phan Thanh Lâm và ctv., (2009), lượng nước sử
dụng để sản xuất 1kg cá tra là 2.500 – 4.500L,
lượng chất thải thải ra mơi trường có hàm lượng
nitrogen và phosphorus khá cao. Bên cạnh vấn
đề gây ô nhiễm, sự thay nước hàng ngày với
khối lượng lớn là cơ hội cho lây lan mầm bệnh
theo đường truyền ngang bùng nổ dịch bệnh
toàn khu vực.
Trước bối cảnh khó khăn đó, Viện Nghiên
cứu Ni trồng Thủy sản 2 đã tìm kiếm một
giải pháp ni cá tra bền vững, an tồn sinh học
Phịng Sinh học Thực Nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.
*Email:
2
Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản 2.
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014
37
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
bằng tiếp cận cơng nghệ ni tuần hồn (RAS)
ít thay nước cho cá tra nuôi thương phẩm trên
đề tài khoa học nuôi thử nghiệm mơ hình RAS
quy mơ pilot. Tuy nhiên, việc áp dụng RAS cho
cá tra phải mang lại hai lợi ích là giảm thiểu
ô nhiễm môi trường và chất lượng cá đạt chỉ
tiêu xuất khẩu. Vì vậy, nghiên cứu này tập trung
đánh giá tăng trưởng và chất lượng cá tra nuôi
thương phẩm bằng hệ thống tuần hoàn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên vật liệu
Cá tra giai đoạn giống có kích cỡ 16,1 g
và 34-46 g được thả ni trong hệ thống RAS
và ao nuôi tương ứng. Thức ăn thương mại của
cơng ty Vĩnh Hồn có protein 28-30 % sử dụng
cho ao nuôi ở Đồng Tháp và công ty Green
Feed protein 28-30% sử dụng cho ao nuôi Vĩnh
Long. Hệ thống ni cá thương phẩm tuần hồn
thiết kế theo đề tài “Nghiên cứu xây dựng công
nghệ nuôi cá tra thâm canh bằng hệ thống tuần
hoàn đảm bảo an toàn sinh học và không gây
ô nhiễm môi trường”. Hệ thống nuôi ao đất tại
Vĩnh Long và Đồng Tháp.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Hệ thống tuần hoàn pilot ngoài trời
Cấu tạo hệ thống: hệ thống tuần hồn bao
gồm một ao ni xi măng hình vng diện tích
196 m2, một bể lắng xử lý chất thải rắn diện
tích 70 m2 và hệ thống lọc sinh học sử dụng
giá thể bám vi sinh diện tích đặc hiệu 800 m2/
m3, thể tích lồng sinh học 25 m3, vật thể bám vi
sinh chiếm 60% thể tích lồng sinh học (14 m3)
được lắp đặt giữa ao và hai góc ao (hình 1). Hệ
thống bơm cung cấp khí và bơm phân thải bằng
airlift. Thời gian lưu của hệ thống lọc sinh học
HRT=11 phút.
Hình 1. Thiết kế hệ thống tuần hồn cho ao nuôi cá tra thương phẩm quy mô pilot
Nguyên lý hoạt động hệ thống: nước từ ao
nuôi chứa chất thải hòa tan và chất thải rắn, hệ
thống airlift cung cấp oxy cho ao tạo dòng chảy
li tâm gom chất thải rắn giữa ao vào hố thu phân
có đường kính 1 m, sâu 1 m. Phân cá được airlift
bơm sang hệ thống ao lắng với vận tốc 16 L/s,
nơi đây diễn ra lắng chất thải và thực hiện quá
trình khử nitrate sử dụng nguồn carbon hữu cơ từ
phân cá. Nước được lắng xử lý nitrate bơm trở lại
ao nuôi. Trong nội tại ao nuôi chất thải lỏng được
hệ thống lọc sinh học hoạt động 24 giờ/ngày khử
ammonia và nitrite trong nước làm sạch nước.
38
Phương pháp nuôi: cá tra giống nuôi trong
hệ thống tuần hồn với mật độ 140 con/m2 có
khối lượng trung bình là 16,1 g/con. Thời gian
ni 210 ngày. Sử dụng thức ăn thương mại của
công ty Dehues với hàm lượng protein 28-30%.
Lượng cho ăn theo nhu cầu của cá, sử dụng
phương pháp cho ăn bằng tay 4 lần/ngày. Chế
độ và tỷ lệ thay nước phù thuộc vào chất lượng
nước ao tại thời điểm. Vị trí thực hiện tại Trung
Tâm Quốc Gia Giống Thủy Sản Nước Ngọt
Nam Bộ - Xã An Thái Trung, Huyện Cái Bè,
Tỉnh Tiền Giang.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hệ thống ao nuôi cá thương phẩm theo
phương thức truyền thống
Phương pháp nuôi: Bốn ao nuôi cá tra
thương phẩm ở hai tỉnh Vĩnh Long (Xã Thanh
Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long) và tỉnh
Đồng Tháp (Xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp). Diện tích trung bình 1 ha, mật
độ thả trung bình 47 con/m2. Trọng lượng cá tra
giống thả 46 g/con. Thức ăn thương mại có hàm
lượng protein 28-30%. Cho ăn 2 lần/ngày bằng
tay. Chế độ và tỷ lệ thay nước diễn ra hàng ngày
từ 50 – 100% thể tích ao. Trong suốt chu kỳ
ni trung bình 270 ngày.
Phương pháp lấy mẫu và phân tích
Mẫu cá tra ni thương phẩm trong hệ
thống nuôi RAS và ao truyền thống được thu
mẫu định kỳ 15 ngày cân trọng lượng tính
trung bình trọng lượng, xác định mầm bệnh
ký sinh trùng và vi khuẩn. Cá thu hoạch được
phân tích tỷ lệ thu hồi phi lê và đánh giá các chỉ
tiêu chất lượng đạt xuất khẩu. Lượng thức ăn
và số lượng cá chết ghi nhận hàng ngày trong
suốt chu kỳ ni.
Phương pháp tính hệ số chuyển đổi thức
ăn (FCR), tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ chết
Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) từng chu
kỳ = tổng thức ăn của chu kỳ/ tổng trọng lượng
cá tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu
(%wb/ngày) = [ln(wbt1) – ln(wbt2)]/t. Trong
đó, wb là trọng lượng, wbt1 là trọng lượng cá
giai đoạn đầu, wbt2 là trọng lượng cá giai đoạn
sau, t là ngày nuôi. Tỷ lệ chết từng chu kỳ (%) =
[số cá thể chết trong chu kỳ/tổng số cá thể ban
đầu] x 100.
Phương pháp đánh giá chất lượng cá
Chọn 30 con cá tra ngẫu nhiên rửa sạch,
cá được phi lê và đánh giá tỷ lệ thu hồi phi lê
thô bằng tổng khối lượng cá nguyên liệu để đạt
được một kg phi lê thô. Phi lê thô là phi lê bỏ da
nhưng khơng loại bỏ thịt đỏ, rìa mỡ,…. như phi
lê thành phẩm. Mùi thịt cá được đánh giá bằng
phương pháp cảm quan, thịt cá phi lê gói kín
trong túi nhựa dày đưa đi hấp chín sau đó kiểm
tra mùi, thịt hấp chín khơng có mùi bùn và mùi
rong tảo được xem là đạt chất lượng xuất khẩu.
Đánh giá sự săn chắc cơ thịt dựa vào phương
pháp cảm quan về sự đàn hồi của thịt phi lê và
độ phân rã của thịt trong vòng 15 phút. Đánh
giá chỉ tiêu màu sắc cá thịt phi lê chia thành 4
cấp độ từ cao đến thấp bằng mắt thường như:
cấp 1 (thịt trắng), cấp 2 (thịt hồng nhạt), cấp 3
(hồng đậm) và cấp 4 (màu vàng chanh). Chỉ tiêu
đánh giá vi sinh, thịt cá phân tích thành phần
vi khuẩn Coliform sp và Ecoli sp bằng phương
pháp trải đĩa thạch agar tính khuẩn lạc, và nội ký
sinh trùng tạo kén trong thịt cá dưới kính hiển vi
phóng đại 160 lần.
Phương pháp phân tích chất lượng nước
Chất lượng nước trong hệ thống RAS và
trong ao nuôi theo phương pháp truyền thống
được phân tích hàng ngày với các chỉ tiêu như:
oxy hòa tan, pH và nhiệt độ nước theo phương
pháp đo bằng máy cầm tay đa chỉ tiêu HANNA
- Hi 9384 đo 2 lần/ngày. Các chỉ tiêu ammonia
tổng, nitrite, nitrate, kiềm tổng, H2S, độ trong,
TSS, chlorophyll-a, carbonic, COD và BOD5
được đo định kỳ 15 ngày/lần theo phương pháp
chuẩn của APHA (2005).
Phương pháp xử lý số liệu
Thu thập thông tin bằng ghi nhật ký hàng
ngày. Sử dụng phần mềm Excel sắp xếp mơ tả
biểu đồ, tính tốn giá trị trung bình số liệu về
tăng trưởng cá, tổng thức ăn, tổng khối lượng
cá và giá trị trung bình các chỉ tiêu môi trường.
III. KẾT QUẢ
3.1. Chất lượng nước trong hệ thống
tuần hoàn
Kết quả ở bảng 1, cho thấy chất lượng nước
trong ao nuôi cá tra bằng công nghệ tuần hoàn
nằm trong ngưỡng sinh trưởng và phát triển của
cá. Riêng chỉ tiêu ammonia tổng cộng có sự
biến động lớn có thời điểm lên đến 26,3 mg/L.
Tuy nhiên, pH nước tại thời điểm đó duy trì ở
mức trung tính là 7, đã hạn chế tính độc của
ammoniac gây độc cho cá.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014
39
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 1. Chất lượng nước trong hệ thống tuần hồn
Thơng số
pH nước
Nhiệt độ nước
Độ trong
Tổng chất rắn lở lững
Tổng độ kiềm
CO2
COD
BOD5
TAN
NH3
NO2-N
NO3-N
PO4-P
H2S
Chlorophyll-a
Đơn vị
0
C
cm
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
µg/L
3.2. Đánh giá năng suất và tăng trưởng
của cá nuôi trong hệ thống
Tại bảng 2, kết quả năng suất nuôi và tăng
trưởng cá tra nuôi thương phẩm trong các hệ
thống nuôi RAS và ao theo cơng nghệ truyền
thống được so sánh có sự khác biệt lớn về mật
Min-Max
6,2-8,2
28,1-33,2
18-107
9,5-99,5
43-140
0,98-76,2
10,3-45,73
6,3-33,7
0,09- 26,3
0,001-0,27
0,1 – 4,7
1,55 – 76,4
0,01 -9,6
0 – 0,18
1,2 – 52,7
TB ± SD
7,07 ± 0,43
30,1 ± 0,96
49,77 ± 22,9
58,3 ± 24,4
85,6 ± 19,6
19,13 ±17,9
25,16 ± 9,4
29,09 ± 8,7
6,44 ± 7,83
0,06 ± 0,07
1,08 ± 1,2
39,1 ± 15,6
3,2 ± 2,7
0,02 ± 0,03
11,35 ± 15,2
độ thả, năng suất thu hoạch và tỷ lệ sống của cá.
Kết quả cũng cho thấy rằng năng suất nuôi của
ao nuôi cá tra bằng công nghệ RAS cao hơn ao
nuôi truyền thống 3,3-3,8 lần tính trên đơn vị
diện tích ni do mật độ nuôi cao hơn 4 lần so
với ao nuôi thông thường.
Bảng 2. Ước tính tăng trưởng cá tra trong hệ thống tuần hồn ngồi trời và ao ni thơng thường
Thơng số tăng trưởng cá
Đơn vị
Hệ thống
RAS
Ao Vĩnh
Long
Ao Đồng Tháp
Diện tích ao nuôi
Số cá thả ban đầu
Số cá thu hoạch
Trọng lượng ban đầu
m2
con
con
g/con
266
26.000
21.060
16,1
10.135
470.000
333.700
46,47
10.076
552.565
279.518
31
Trọng lượng thu hoạch
Chu kỳ nuôi
Tổng sinh khối cá
Năng suất
Năng suất quy đổi
Tỷ lệ sống
g/con
ngày
kg/ao
kg/m2/vụ
tấn/ha/vụ
%
819
260
17.336,4
88,2
882
81,1
801
257
267.293,7
26,73
267
71,3
830
279
232.000
23,2
232
50,6
Tốc độ tăng trưởng
g/con/ngày
3,1
2,83
2,77
SGR (tăng trưởng đặc biệt)
%bw/ngày
1,5
1,33
1,18
FCR
-
1,6
1,5
1,68
40
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Tốc độ tăng trưởng của cá
Hình 2. Tăng trưởng của cá Tra ni trong hệ thống RAS và ao nuôi tại Vĩnh Long và Đồng Tháp
Trong thời gian nuôi 261 ngày, trọng lượng
trung bình của cá ni đạt 819 g/con và được
đánh giá tăng trưởng nhanh thể hiện qua tốc độ
tăng trưởng 3,1 g/con/ngày và tăng trưởng đặc
hiệu SGR = 1,5; các chỉ tiêu này cao hơn so với
ao nuôi thông thường tại Vĩnh Long và ao nuôi
tại Đồng Tháp (Bảng 2) dù mật độ ni cao hơn
và cá giống thả có trọng lượng nhỏ khoảng 4050% so với ao nuôi theo dõi của 2 cơng ty ni
thương mại.
Tỷ lệ sống
Hình 3. Tỷ lệ sống của cá tra nuôi trong hệ thống nuôi RAS và ao
Suốt chu kỳ nuôi số lượng cá chết được ghi
nhận hàng ngày và tính tốn tỷ lệ sống thể hiện
kết quả ở hình 3. Kết quả cho thấy 30 ngày nuôi
đầu tỷ lệ chết của cá nuôi cao chiếm 20% cho
hệ thống nuôi RAS và ao. Sau thời gian nuôi 30
ngày tỷ lệ sống của cá trong hệ thống RAS ổn
định chiếm 81,1%. Trong khi đó, hệ thống ni
ao theo cơng nghệ truyền thống có tỷ lệ sống
tiếp tục giảm đến thời điểm thu hoạch đạt 50 –
71%. Tỷ lệ sống của cá thể hiện ở ao nuôi thấp
hơn 10 – 30,5% so với công nghệ nuôi RAS.
Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)
Sự biến động hệ số FCR trong suốt q
trình ni được đánh giá thể hiện qua hình 4.
Kết quả cho thấy xu thế của FCR của hệ thống
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
41
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ni RAS và ao tăng dần theo chu kỳ nuôi. Khi
so sánh cùng tại thời điểm thu hoạch, FCR ở ao
nuôi tại Vĩnh Long cho kết quả thấp hơn ở ao
nuôi tại Đồng Tháp và RAS.
3.3. Đánh giá chất lượng cá tra nuôi
thương phẩm
Kết quả thể hiện ở bảng 3 cho thấy so sánh
chất lượng cá thu hoạch của hệ thống RAS và
nuôi ao có sự khác nhau về tỷ lệ thịt trắng, tỷ lệ
thu hồi phi lê và mùi thịt. Kết quả cho thấy cá
tra nuôi bằng hệ thống RAS cho 100% tỷ lệ thịt
trắng đạt cấp độ 1 của chỉ tiêu xuất khẩu. Trong
khi đó, tỷ lệ ni trong ao đạt tỷ lệ thịt phi lê
trắng chiếm 84,3%. Khi phân tích thành phần vi
sinh và thành phần sinh hóa của thịt cá cho kết
quả tương đồng giữa nuôi bằng công nghệ tuần
hồn và ao theo phương pháp truyền thống.
Hình 4. Hệ số chuyển đổi thức ăn theo chu kỳ nuôi
Bảng 3. Chất lượng thịt cá tra thu hoạch
Các chỉ tiêu chất lượng cá
Chỉ tiêu cảm quan
Màu thịt phi lê trắng loại I
Độ săn chắc thịt
Vị của cơ thịt
Tỷ lệ thu hồi phi lê thơ
Mùi bùn/rong
Nhiễm kháng sinh/hóa chất cấm
Nhiễm vi sinh :
Coliform sp
E.Coli sp
Kí sinh trùng trong cơ thịt
Thành phần sinh hóa:
Tổng nitrogen
Tổng chất béo
Tổng phosphorus
Đơn vị
%
%
%
g cá/g thịt
%
%
đạt/khơng
đạt/khơng
%
%
%
%
IV. THẢO LUẬN
4.1. Chất lượng nước
Chất lượng nước trong hệ thống tuần hoàn
được quan tâm quản lý chặt chẽ nhằm đáp ứng
cho cá tăng trưởng và thích ứng với hệ vi sinh
vật trong hệ thống lọc sinh học (Timmon, 2005).
Quá trình diễn biến các yếu tố mơi trường như
oxy hịa tan, pH, độ trong, chlorophyll-a trong
42
RAS
100
100
100
1,95
10
0
đạt
đạt
0
2,5
1,6
0,56
Ao
84,3
100
100
2,04
0
0
đạt
đạt
0
2,4
1,5
0,6
hệ thống nuôi RAS theo xu thế giảm dần đến
cuối vụ nuôi. Điều này là do ảnh hưởng của q
trình tích lũy hữu cơ từ nguồn thức ăn, từ chất
thải của cá tăng dần. Ammonia, nitrite và nitrate
là những chỉ tiêu quan trọng được quan tâm
trong hệ thống ni thủy sản nói chung và hệ
thống tuần hồn nói riêng (Nguyễn Nhứt và ctv.,
2014), các yếu tố này cần được giảm thiểu và
hạn chế sự gây độc đối với cá ni. Tuy nhiên,
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
nghiên cứu cho thấy trong 120 ngày nuôi, tất cả
các chỉ số môi trường được duy trì thích hợp cho
cá phát triển. Sau 120 đến 260 ngày các thông số
COD, CO2 và TSS tích lũy trong hệ thống ni
tăng dần gây cản trở sự hoạt động của nhóm
vi khuẩn tự dưỡng trong hệ thống tuần hoàn.
Việc này đồng nghĩa với sự khử ammonia giảm
gây ra q trình tích lũy ammonia, nitrite trong
nước cao. Để quản lý chất lượng nước tối ưu
cho trường hợp hệ thống sinh học bị ức chế, sự
thay nước và khống chế pH nước duy trì bằng
7 đồng thời kết hợp với giải pháp cho ăn hợp lý
nhiều lần trong ngày được thực hiện đã mang
lại sự cải thiện chất lượng nước tốt cho hệ thống
ni tuần hồn, cá phát triển tốt. Hệ thống nuôi
ao theo công nghệ truyền thống với chế độ thay
nước liên tục từ 50 -100% thể tích nước mang
lại cải thiện chất lượng nước đáng kể và ít ơ
nhiễm trong ao ni hơn so với ni cơng nghệ
ni tuần hồn. Tuy nhiên, tần suất thay nước
cao đồng nghĩa với việc thải ra môi trường xung
quanh một lượng thải gây ô nhiễm thủy vực và
điều kiện nuôi hở thích hợp cho sự lây lan mầm
bệnh cao hơn so với hệ thống RAS. Điều này
đã chứng minh rằng ao nuôi truyền thống đã
xuất hiện 15 lần nhiễm bệnh trong suốt vụ nuôi
(Phan Thanh Lam và ctv., 2009) trong khi đó hệ
thống ao ni tuần hồn tần số xuất hiện bệnh
rất thấp (1 lần trong suốt vụ nuôi).
4.2. Sản lượng và tăng trưởng cá
Kết quả năng suất cá nuôi bằng hệ thống
tuần hồn ngồi trời trong thí nghiệm này đạt
được 88,2kg/m2 cao hơn ni thực tế của mơ
hình sản xuất truyền thống ở hai công ty thương
mại tại Vĩnh Long và Đồng Tháp (năng suất
29,7 kg/m2) và gấp 3,3 lần theo số liệu thống kê
của Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nơng Thơn
(2012). Nếu tính theo năng suất cá sản xuất trên
đơn vị thể tích thì kết quả của mơ hình ni RAS
cao hơn gấp 9 lần ao ni thương phẩm bằng
phương pháp truyền thống. Sự khác biệt lớn này
là do hệ thống nuôi RAS sử dụng mực nước 1,8
m với năng suất 49kg/m3, trong khi đó ao ni
truyền thống sử dụng mực nước thông thường
5 m tương đương với năng suất (5,3 kg/m3).
Qua thực nghiệm thấy rằng phương thức ni
cá bằng hệ thống tuần hồn khơng cần phải sử
dụng mực nước sâu như ao truyền thống nhưng
vẫn đáp ứng được năng suất nuôi tối đa. Cụ thể
trong hệ thống nuôi RAS thực nghiệm trong nhà
cho cá tra thương phẩm (Nguyễn Nhứt và ctv.,
2014) sử dụng mực nước nuôi thấp 0,8m cho
năng suất 199 kg/m3. Quan niệm người nuôi cá
tra với mực nước sâu để tăng năng suất tối ưu
chỉ đúng trong trường hợp với ao nuôi truyền
thống, trong khi đó cá tra thương phẩm chủ yếu
phân tầng sống từ độ sâu 2 m nước trở lên tính
từ đáy ao chiếm hơn 80% được nghiên cứu bởi
Lefevre và ctv., (2011). Có nghĩa 2-3 m nước
gần đáy ao cá khơng sử dụng không gian để
sống và sinh trưởng nhưng xây dựng ao ni
chi phí cao hơn và ảnh hưởng đến nguồn nước
ngầm khi dinh dưỡng trong nước ao nuôi thẩm
thấu sâu xuống các tầng nước ngầm.
Mặc dù mật độ nuôi trong hệ thống RAS
(140 con/m2) cao hơn khá nhiều so với hệ thống
nuôi cá tra thương phẩm trong ao (27-33 con/
m2). Nhưng tốc độ tăng trưởng đặc trưng của
cá tra trong hệ thống RAS cao hơn so với ao
nuôi từ 0,17-0,32%/con/ngày. Sự khác biệt này
chủ yếu có thể là do tần suất xuất hiện bệnh của
cá trong ao nuôi cao hơn đồng nghĩa với thời
gian chữa trị, giảm thức ăn kéo dài làm tốc độ
tăng trưởng giảm. Hơn thế nữa, việc sử dụng
hóa chất và kháng sinh trong q trình nuôi tác
động đến sự sinh trưởng của cá tra trong ao nuôi
truyền thống.
Qua số liệu ghi nhận cho thấy tỷ lệ cá chết
20% trong hệ thống RAS ở thời gian 1 tháng
đầu kể từ ngày thả giống cá có dấu hiệu nhiễm
bệnh xuất huyết, tỷ lệ chết 25 ngày đầu từ 0,20,5%/ngày không đáng kể nên việc can thiệp
giải pháp chữa trị khơng được thực hiện vì đa số
cá bị xây xát trong quá trình vận chuyển do kéo
lưới tạo nên. Kết quả này cũng tương đồng với
kết quả tỷ lệ chết của các ao nuôi truyền thống
ở Vĩnh Long và Đồng Tháp. Ao ni bằng hệ
thống RAS có tỷ lệ chết kéo dài và bùng phát
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014
43
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
mạnh ở ngày 30-37 của chu kỳ ni khoảng
5-8% bệnh có dấu hiệu lây lan mạnh trong hệ
thống, giải pháp can thiệp chữa trị cho cá bằng
sử dụng kháng sinh oxyteramycine liều lượng
trộn vào thức ăn 10g/kg suốt 7 ngày tỷ lệ chết
giảm rõ rệt bằng 0%. Nguyên nhân này được
khẳng định giống như hiện tượng cá chết trong
3 tháng nuôi đầu tiên sau khi thả giống ở các
ao nuôi thương phẩm theo phương pháp truyền
thống được báo cáo bởi Phan Thanh Lam và
ctv., (2009) cho tỷ lệ chết đến 30%. Phải chăng
sự nhiễm bệnh của đàn cá giống tại cơ sở sản
xuất giống cùng với tác nhân vận chuyển đường
dài và phương pháp đánh bắt cá giống thật sự
không bảo đảm dẫn đến xuất hiện bệnh. Trong
khi đó cá thí nghiệm trong mơ hình này đã chủ
động loại mầm bệnh ký sinh trùng ngoại và nội,
không quan tâm đến mầm bệnh do vi khuẩn là
chưa hoàn toàn hợp lý dẫn đến bệnh vẫn còn
xảy ra. Trong hệ thống RAS, sau chu kỳ nuôi 40
ngày hầu như cá chết không đáng kể và kéo dài
đến kết thúc vụ nuôi. Tuy nhiên, ở các ao ni
truyền thống tại Vĩnh Long và Đồng Tháp thì tỷ
lệ chết vẫn cịn tiếp tục tăng mạnh vì trong thời
gian ni có xuất hiện bệnh thêm 2-3 đợt. Điều
này cho thấy việc xử lý sạch mầm bệnh cho cá
giống trước khi đưa vào ni trong hệ thống
tuần hồn là một khâu rất quan trọng giúp tăng
tỷ lệ sống của đàn cá ni. Hơn nữa, hệ thống
tuần hồn có ưu điểm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh
cho đàn cá nuôi so với ao ni truyền thống
trong q trình ni.
Sự biến động của FCR suốt chu kỳ nuôi
của hệ thống RAS và ao ni thơng thường của
Vĩnh Long và Đồng Tháp. Nhìn chung, FCR
của cá nuôi tăng dần theo chu kỳ nuôi. Hệ thống
RAS, trong chu kỳ ni đến kích cỡ cá đạt trọng
lượng 830g/con FCR được xác định là 1,4 trước
44
khi thực hiện giải pháp cho ăn ít và bỏ đói để
khử mùi hơi bùn và rong của thịt cá. Thí nghiệm
được thử nghiệm kéo dài trong trình trạng thức
ăn hạn chế và bỏ đói cá, cá khơng thể phát triển
nếu thiếu năng lượng cho cá hoạt động vì thế cá
giảm trọng lượng trong thời gian xử lý và làm
tăng FCR ở thời gian cuối chu kỳ nuôi đạt 1,6.
Nếu như trong q trình thực nghiệm đã có các
giải pháp chủ động khử mùi hơi bùn của cá có
lẽ hệ số FCR của cá đạt khoảng 1,4 và rất có ý
nghĩa trong sản xuất, sẽ tiết kiệm 12,5% thức
ăn đối với hệ thống ni bằng cơng nghệ tuần
hồn. Nếu tính tốn với FCR = 1,6 thì mức hệ số
chuyển đổi thức ăn này cũng chấp nhận được so
với công nghệ nuôi truyền thống của Vĩnh Long
và Đồng Tháp. Nếu so sánh với kết quả nghiên
cứu của Phan Thanh Lâm và ctv., (2009) thì kết
quả này tương đồng.
4.3. Chất lượng thịt cá
Màu sắc thịt cá phi lê là một trong những chỉ
tiêu quan trọng nhất để xuất khẩu. Trong nghiên
cứu này cho thấy tỷ lệ đàn cá đạt thịt trắng và tỷ
lệ thịt trắng cao hơn so với ao nuôi bằng công
nghệ thông thường ở Vĩnh Long và Đồng Tháp.
Kết quả nghiên cứu này cho tỷ lệ thịt trắng cao
hơn kết quả nghiên cứu (70% quần đàn đạt thịt
trắng) của Bạch Thị Quỳnh Mai và ctv., (2003)
sử dụng kỹ thuật thay nước và dùng oxy đáy cải
thiện. Nguyên nhân gây màu thịt cá chưa được
nghiên cứu rõ. Việc sử dụng nguồn thức ăn có
chứa caroten và hàm lượng oxy ảnh hưởng đến
màu sắc cơ thịt cá (Bạch Thị Quỳnh Mai và ctv.,
2003). Một số ý kiến khác của người nuôi cho
rằng tảo và mùn bã hữu cơ trong hệ thống nuôi
cũng ảnh hưởng đến màu sắc thịt cá tra chưa
được kiểm chứng. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu này cho thấy trong ao RAS có hàm lượng
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TSS cao nhưng không ảnh hưởng đến màu sắc
của thịt cá tra thương phẩm.
Về phần mùi vị cá, được đánh giá cảm
quan và cịn mang tính chất chủ quan của từng
kỹ thuật. Theo các chuyên gia đánh giá chất
lượng thì mùi thịt cá trong thí nghiệm nằm ở
cấp độ 3. Thơng thường, cá ni trong hệ thống
tuần hồn thường có mùi “hơi bùn” làm giảm
chất lượng cá được báo cáo trên đối tượng
cá rô phi và cá trê .Nguyên nhân tạo mùi hôi
bùn trong thịt cá tra trong hệ thống tuần hoàn
chưa được xác định. Nhưng đây là một trong
những khó khăn của hệ thống ni tuần hồn ít
thay nước, lượng bùn, tảo bám, vi khuẩn hình
sợi, hữu cơ phân hủy và vi sinh vật tích lũy
trong thời gian dài có lẽ ảnh hưởng lên chất
lượng thịt cá về mùi (Tucker, 1999). Theo kinh
nghiệm một số trang trại nuôi cá rô phi bằng
công nghệ tuần hồn cũng có hiện tượng tương
đồng nhưng được xử lý mùi bằng giải pháp
thay nước ở cuối chu kỳ nuôi đã cải thiện đáng
kể mùi của thịt cá (Marc Verdegem thơng tin
cá nhân, 2013). Đối với thí nghiệm này đã áp
dụng giải pháp kỹ thuật tương tự như các kinh
nghiệm của các trang trại ở Châu Âu nhưng kết
quả khơng được cải thiện hồn tồn. Có thể là
trong q trình 8 tháng ni khơng thay nước
đã tích lũy về tác nhân gây mùi khá lớn mà thời
gian xử lý lại ngắn. Trong thực tế, ao nuôi cá
tra truyền thống thay nước khá lớn hàng ngày
diễn ra từ đầu đến kết thúc vụ nuôi và cải thiện
chế độ ăn trong thời gian dài đã mang lại một
số kết quả trong việc khử mùi mặc dù chưa có
báo cáo khoa học.
Đánh giá mức độ săn chắc cơ thịt cá là một
trong chỉ tiêu này thể hiện mức độ săn chắc
cơ thịt của cá, thịt càng săn chắc thì tỷ lệ nước
trong thịt càng ít vì thế giảm được tỷ lệ hao hụt
sau khi chế biến. Thịt cá tra nuôi trong hệ thống
tuần hồn có độ dai cao là do cá ni mật độ cao
trong ao lại có dịng nước chảy nên có thể cá
hoạt động nhiều, thịt cá dai đạt chỉ tiêu ưa thích
thu mua của các nhà máy chế biến.
Cá tra ni trong hệ thống tuần hồn cá
khơng bị nhiễm bất cứ bệnh nào khác kể cả
bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ký sinh trùng nên
giai đoạn nuôi 30-260 ngày khơng sử dụng đến
thuốc hoặc hóa chất. Bằng cảm quan đánh giá
hình dạng thịt phi lê của cá khơng bị biến dạng
xù xì gây mất mỹ quan, thớ thịt đều và nhẵn
khi cắt. Đồng thời thông qua xét nghiệm thịt cá
khơng thấy có tồn dư kháng sinh hay hóa chất
trong thịt hay xương cá và thịt cá cũng không bị
nhiễm khuẩn Ecoli cũng như mật độ các loại vi
khuẩn đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu (theo TCVN
8338:2010).
Tỷ lệ thu hồi thịt cá cũng là 1 yếu tố quan
trọng quyết định giá trị đàn cá. Việc nuôi cá bảo
đảm tỷ lệ thu hồi phi lê cao là một trong những
yếu tố khá quan trọng trong kỹ thuật ni.
Trung bình tỷ lệ thu hồi phi lê thô của cá tra
thương phẩm nuôi theo truyền thống được đánh
giá từ 1,95 -2,1. Trong nghiên cứu này cho tỷ lệ
thu hồi phi lê (1,95) tương đối cao hơn 4 ao nuôi
truyền thống đối chứng (2,04). Với tỷ lệ thu hồi
phi lê trong nghiên cứu này được đánh giá là
tương đồng với ao nuôi truyền thống. Tỷ lệ phi
lê của cá được xác định ảnh hưởng bởi các yếu
tố môi trường (dinh dưỡng, kỹ thuật chăm sóc,
mơi trường ao,…) hơn là tính di truyền của đàn
cá vì hệ số di truyền tính trạng này thấp (Nguyen
Van Sang và ctv., 2009).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
45
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5.1. Kết luận
Tài liệu tiếng Việt
Các chỉ tiêu môi trường nước cho thấy
hệ thống nuôi RAS kết hợp với hệ thống khử
nitrate tạo cho môi trường nước ổn định trong
suốt vụ ni và thích hợp cho cá tra phát triển.
Nguyễn Nhứt, 2014. Nghiên cứu công nghệ nuôi cá
tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh bằng
hệ thống tuần hồn đảm bảo an tồn sinh học và
khơng gây ơ nhiễm môi trường” Báo cáo tổng kết
khoa học .Pp 15.
Cá tra ni trong hệ thống tuần hồn giảm
thiểu được rủi ro về bệnh, cá sinh trưởng phát
triển tốt. Mật độ nuôi, năng suất, tỷ lệ sống, tốc
độ tăng trưởng và tỷ lệ quần đàn cá tra thương
phẩm có thịt trắng cao hơn các ao nuôi theo
phương pháp nuôi truyền thống. Hệ số chuyển
đổi thức ăn và chất lượng cá tra ni trong hệ
thống tuần hồn tương đồng với ao ni bằng
công nghệ truyền thống. Tuy nhiên, tỷ lệ mùi
hôi bùn của thịt cá thu hoạch tồn tại trong hệ
thống RAS.
Bạch Thị Quỳnh Mai, 2003. Xây dựng quy trình ni
cá tra thịt trắng phục vụ xuất khẩu. Tuyển tập nghề
cá sông Cửu Long. Pp 203-222.
5.2. Đề xuất
Để cải thiện tỷ lệ sống và hệ số thức ăn trong
hệ thống tuần hoàn nuôi cá tra thương phẩm cần
phải được nghiên cứu phương pháp xử lý nguồn
giống sạch bệnh và loại thức ăn chun biệt cho
hệ thống ni cá tra tuần hồn với mật độ cao.
Để nâng cao chất lượng cá thương phẩm cần
nghiên cứu thêm phương pháp khử mùi hôi bùn
trong thịt cá thương phẩm trong hệ thống tuần
hồn. Nhìn chung việc ni cá tra thương phẩm
bằng hệ thống tuần hồn có ý nghĩa nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm nên ứng dụng
và phát triển mơ hình ở quy mơ sản xuất đại trà
trong tương lai gần.
LỜI CẢM ƠN
Tài liệu tiếng Anh
Bosma, R.H., Hanh, C.T.T., Potting, J., 2009.
Environmental Impact Assessment of the
Pangasius Sector in the Mekong Delta.
Wageningen University. 50 pp
Phan Thanh Lam, T. M. B., Thuy T.T. Nguyen, Geoff J.
Gooley , Brett A. Ingramd, Hao V. Nguyen, Phuong
T. Nguyen, Sena S. De Silva, 2009, Current status of
farming practices of striped catfish, Pangasianodon
hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam,
Aquaculture 296, 227–236.
Nguyen Van Sang, Magny Thomassen, Gunnar
Klemetsdal, Hans Magnus Gjøen, 2009. Prediction of fillet weight, fillet yield, and fillet fat for live
river catfish (Pangasianodon hypophthalmus) 288
: 3–4, 166–171.
Tucker, C.S., and Martine, V.D.P., 1999, Managing
off-flavor problems in pond-raised catfish. SRAC
publication . No 192. 8pp.
Timmon, M.B., Ebling J.M., Wheaton, F.W.,
Summerfelt, S.T., and Vinci, B.J., 2005.
Recirculating Aquaculture Systems 2nd Edition.
Northern Regional Aquaculture Center Publication
No. 01 I002. Cayuga Aqua Ventures Ithaca, New
York. 1176pp.
Xin chân thành cảm ơn Bộ Nông Nghiệp
và Phát triển Nông Thôn đã tài trợ kinh phí cho
nghiên cứu này. Xin cảm ơn các chuyên gia
đánh giá chất lượng cá tra thương phẩm thuộc
công ty Cổ Phần Vĩnh Hồn.
46
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
AN EVALUATING GROWTH AND QUALITY OF STRIPED CATFISH
(Pangasianodon hypophthalmus) IN AN OUTDOOR PILOT
RECIRCULATING AQUACULTURE SYSTEM
Nguyen Van Huynh1* , Nguyen Nhut1, Nguyen Hong Quan1,
Le Ngoc Hanh1, Nguyen Van Hao2
ABSTRACT
Recently, traditional technology for striped catfish culture in pond has been developed due to a
water body pollution. Striped catfish industry need an innovation technology to increase production
and reduces an environmental pollution. Therefore, an outdoor recirculating aquaculture system
(RAS) has studied with high stocking density that can be effected on growth rate and quality of fish.
The aim of this study is an evaluating growth and quality of fish in an outdoor pilot RAS to compare
with traditional ponds. The outdoor RAS comprised a fish pond 196m2, a sedimentation pond 70m2
and a biofilter 25m3. Its total area was 226m2. The result showed fish production 88.2kg/m2, survival rate 81.1%, feed conversion rate 1.6, all whiten- meat of fish population, crude fillet rate 1.95
and without antibiotic/chemical contamination in fish plesh. Fish in the outdoor RAS indicated offflavor to reduce a value product for export. However, this innovation technology will be researched
further and upscale in Vietnam in near future.
Keywords: Striped catfish, recirculating aquaculture system, growth, FCR, fillet.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Ngày nhận bài: 10/8/2014
Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014
Ngày duyệt đăng: 05/9/2014
Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No 2.
*Email:
2
Research Institute for Aquaculture No 2.
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014
47