Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2012
THÔNG BÁO KHOA HỌC
HIỆN TRẠNG ƯƠNG NÂNG CẤP TƠM HÙM BƠNG
(Panulirus ornatus Fabricius, 1798) TẠI KHÁNH HÒA
PRESENT STATUS OF LOBSTER UPGRADING CULTURE
(Panulirus ornatus Fabricius, 1798) IN KHANH HOA
Trương Thị Bích Hồng1
Ngày nhận bài: 27/10/2011; Ngày phản biện thông qua: 13/12/2011; Ngày duyệt đăng: 10/06/2012
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm điều tra hiện trạng ương nâng cấp tôm hùm giống tại Khánh Hòa. Kết quả điều
tra cho thấy, mùa vụ ương nâng cấp tôm hùm giống bắt đầu từ cuối tháng 10 và kết thúc vào khoảng tháng 4 năm sau. Tồn
tỉnh có hai vùng ương nâng cấp chính: đầm Môn - Đại Lãnh và vùng đầm Nha Phu - vịnh Nha Trang. Ngư dân thường sử
dụng hai kiểu lồng (lồng chìm và lồng treo trên bè nổi) để ương ni con giống. Trong đó, hình thức ương ni treo trên bè
nổi đạt hiệu qủa cao hơn, tôm giống sinh trưởng tốt. Nguồn giống và thức ăn cung cấp cho q trình ương giống phụ thuộc
hồn tồn vào tự nhiên. Thời gian ương nâng cấp kéo dài từ 20 ngày đến 2 tháng, tùy thuộc vào kích thước con giống khi
thả ương, giá cả và nhu cầu mua con giống của người nuôi thương phẩm. Tôm giống thường hao hụt nhiều trong vịng 15
ngày đầu thả ni. Bởi vì, con giống bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác và vận chuyển. Tỷ lệ sống trung bình của con
giống sau khi ương là 86,1%.
Từ khóa: Ương nâng cấp, tơm hùm
ABSTRACT
The study was conducted to investigate the status of upgrading culture of seed Lobster in Khanh Hoa province. The
results of the survey showed that the main season for upgrading culture of seed Lobster begins in late October to the end of
April of the following year. In Khanh Hoa, two main upgraded areas were Mon lagoon - Dai Lanh and Nha Phu lagoon Nha Trang bay. To culture seed, fishermen often used two types of cage (submerged cage and hanging cage on floating raft).
In which, hanging cage on floating raft was more efficiency, the seed Lobster grew better. The source of Lobster seed and
their feed depended on nature. Period of upgraded time was sustained from 20 days to 2 months depending on size resource,
price of seed and market demand. Rate of death seed increases during the first 15 stocking days. Because, the Lobster seed
was affected by exploitation and transportation. The average survival rate of seed was 86,1%.
Keywords: Upgrading culture, Lobsters
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghề nuôi tôm hùm lồng tại các tỉnh miền
Trung bắt đầu từ 1992 và thực sự phát triển mạnh
mẽ vào năm 2000. Phong trào nuôi tôm hùm
lồng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu con giống tăng
nhanh từ 500.000 con vào năm 1999 tới xấp
xỉ 3.500.000 con vào năm 2003 [5]. Do đó, ngư
dân đưa cả tơm giống có kích thước nhỏ (ấu trùng
và hậu ấu Puerulus) vào nuôi. Số lượng tôm hùm
giống khai thác tăng từ 500.000 con vào năm 1999
lên 2.500.000 con vào năm 2003 [3]. Số lượng con
giống tôm hùm khai thác đạt mức 3.009.967 con/
1
năm vào năm 2008 [4].
Với số lượng con giống tôm hùm khai thác từ
2,5 đến 3 triệu con/năm. Việt Nam được xem là một
trong những nước đứng đầu về khai thác tôm hùm
giống. Nhưng tỷ lệ sống của tôm hùm con từ giai
đoạn ấu trùng Puerulus lên thương phẩm rất thấp
(khoảng 40 - 50%), do con giống còn nhỏ sức đề
kháng kém. Thêm vào đó, con giống khai thác từ tự
nhiên bằng nhiều ngư cụ khác nhau (lưới, bẫy, lặn
bắt) thường không đồng đều về kích cỡ cũng như
chất lượng, khi đưa vào ni thương phẩm trong
lồng có thể tích lớn gặp nhiều khó khăn: con lớn có
ThS. Trương Thị Bích Hồng: Khoa Ni trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ❖ 3
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2012
thể tấn cơng con nhỏ; con yếu bị bệnh có thể lây
nhiễm cho con khỏe. Để tăng tỷ lệ sống cũng như
chất lượng tôm hùm giống, nhiều ngư dân đã đưa
tôm ở giai đoạn ấu trùng Puerulus và hậu ấu trùng
vào ương trong giai hoặc lồng có kích thước nhỏ.
Việc ương nâng cấp tôm hùm giống không chỉ
làm tăng tỷ lệ sống và sức khỏe của con giống mà
còn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người ương.
Do đó, ngày càng nhiều ngư dân quan tâm và tham
gia ương nâng cấp tôm hùm giống. Họ thường
ương nuôi theo kinh nghiệm nên gặp rất nhiều khó
khăn trong việc nâng cao tỷ lệ sống cũng như tốc
độ sinh trưởng của tôm giống.
Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả ương nâng
cấp tôm hùm giống của người dân ở Khánh Hòa
chưa được đầy đủ. Lựa chọn vị trí ương ni, kiểu
lồng ương, phương pháp chăm sóc và quản lý tơm
giống như thế nào để đạt hiệu quả ương cao nhất là
câu hỏi cần được làm rõ. Vì vậy, việc điều tra hiện
trạng ương nâng cấp tơm hùm giống tại Khánh Hịa
là rất cần thiết.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp RRA và PRA
Quá trình điều tra thu thập số liệu sử dụng
phương pháp RRA (Rapid Rural Appraisal) và PRA
(Participatory Rural Appraisal), tiến hành như hình
1:
Hiện trạng ương nâng cấp tơm hùm giống tại Khánh Hịa
RRA
PRA
Các cơ quan: Sở NN & PTNT,
Phịng Nơng nghiệp,
Viện NCNTTS III
Các hộ ương nâng cấp tơm hùm giống
ở Khánh Hịa
Số liệu thứ cấp:
Các số liệu thống kê, luận văn,
báo cáo & bài báo khoa học
Số liệu sơ cấp:
Phỏng vấn trực tiếp, quan sát
và tham gia chăm sóc lồng ương
Tình hình ương nâng cấp tơm
hùm giống tại Khánh Hịa
Cỡ giống, mật độ thả
ương
Chăm sóc và quản lý
lồng ương
Kết luận và kiến nghị
Hình 1. Sơ đồ khối hoạt động điều tra ương nâng cấp tôm hùm giống
Cách chọn mẫu và thu mẫu: Căn cứ vào thực
trạng ương nâng cấp tôm hùm giống của tỉnh, tiến
hành xác định danh sách hộ tham gia ương nâng
cấp theo cách bốc thăm ngẫu nhiên. Tổng số mẫu
điều tra là 35 hộ chiếm tỷ lệ 72,9%. Tiếp đến, tiến
hành điều tra, thu thập số liệu thông qua bộ câu hỏi
đã được chuẩn bị trước.
2. Phương pháp xử lí và phân tích số liệu
Số liệu thu được sẽ mã hóa và xử lí theo từng
chun đề riêng: mùa vụ ương; kiểu lồng ni;
4 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
nguồn giống đưa vào ương; cách thức quản lý và
chăm sóc lồng ương. Việc xử lý số liệu tạo điều kiện
thuận lợi cho q trình phân tích, so sánh, đối chiếu
và rút ra nhận xét cần thiết. Các số liệu được phân
tích theo phương pháp thống kê mơ tả: tính tốn giá
trị trung bình và sai số chuẩn.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Địa điểm ương nâng cấp
Theo kết quả điều tra, nghề ương nâng cấp
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
tơm hùm giống ở Khánh Hịa tập trung ở hai khu
vực chính: đầm Môn - Đại Lãnh; đầm Nha Phu vịnh Nha Trang. Ngồi ra, tơm hùm giống cịn được
ương trong giai của một số hộ ni thương phẩm
trong tỉnh.
Số 2/2012
2. Hệ thống lồng ương
Ở Khánh Hịa, lồng ương nâng cấp tơm hùm
được thiết kế đa dạng tùy thuộc vào đặc điểm địa
hình từng vùng ương, kinh nghiệm và kỹ thuật của
người ương nâng cấp tôm giống (bảng1).
Bảng 1. Một số kiểu lồng ương nâng cấp tơm hùm giống ở Khánh Hịa
Kiểu lồng
Lồng chìm
Lồng treo
trên bè nổi
Hình dạng
và kích thước
Kết cấu lồng
Mắt lưới
Vuông, chữ nhật:
(1,5x1,5x2) m;
(1x1x1,2) m;
(2x2x2) m
Khung sắt
∅ = 6mm, ống cho
ăn ∅ =10-12mm
Lớp trong: 2a ≤ 5mm
Lớp ngoài: 2a=10-15 mm
xã Đại Lãnh
xã Lương Sơn
Vuông, chữ nhật:
(1x1x2)m;
(1x1x1)m;
(1x1x1,2)m
Khung sắt
∅ = 6mm
Lớp trong: 2a ≤ 5mm
Lớp ngồi: 2a=10-15mm
xã Vạn Thạnh
phường Vĩnh Hịa
Trịn:
∅ 1.2mx1m;
∅ 1,4mx1,2m;
∅ 1,6mx1,2m
Khung sắt
∅ = 6mm, thanh
chống
đáy
và
miệng lồng bằng
tre hoặc gỗ
Lớp trong: 2a ≤ 5mm
Lớp ngồi: 2a=10-15mm
phường Vĩnh Hịa
Lớp trong: 2a = 3mm
Lớp ngồi: 2a=15-20mm
xã Ninh Ích
Lớp ngồi: 2a=20-30mm
xã Vạn Thạnh
Giai ương:
(2x2x2)m;
(2x2x2,5)m;
(1,5x1,5x2)m
Lồng úp:
Hai lồng bàn bằng
nhựa úp miệng vào
nhau
Lồng chìm: có kết cấu bằng khung sắt hình
chữ nhật hoặc hình vng, toàn bộ khung lồng
được bọc bởi hai lớp lưới. Mặt trên cùng của lồng
có nắp, ở giữa nắp có một ống nhựa đường kính
12mm để đưa thức ăn vào lồng ương. Kiểu lồng
ương này được sử dụng phổ biến ở thôn Cát Lợi xã Lương Sơn, thôn Đông Bắc, Đông Nam - xã Đại
Lãnh.
Lồng treo trên bè nổi: Bè nổi làm bằng khung
gỗ đặt trên hệ thống phao. Bè nổi được chia thành
nhiều ô nhỏ để treo khung lưới (ru), lồng trịn, lồng
vng hoặc lồng úp. Dạng lồng này được sử dụng
phổ biến ở khu vực thôn Ninh Đảo xã Đại Lãnh, thơn
Ngọc Diêm xã Ninh Ích, phường Vĩnh Hịa thành
phố Nha Trang.
3. Nguồn giống và mật độ thả giống
Nguồn giống đưa vào ương nâng cấp phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Hộ ương nuôi quy
mô nhỏ thường tự khai thác con giống về ương. Trái
lại, những hộ ương nuôi với quy mô lớn phải đặt
Vùng ương
mua con giống thông qua các chủ thu gom tôm hùm
giống. Hàng năm, nhu cầu con giống của người
ương trong tỉnh luôn tăng, nhưng số lượng con
giống khai thác thường biến động và có xu hướng
giảm: năm 2005 - 2006 là 415.690 con giống, năm
2006 - 2007 chỉ bắt được 110.354 con giống, năm
2007 - 2008 khai thác được 459.077 con [4]. Do đó,
các chủ thu mua con giống đã gom cả con giống
khai thác từ các tỉnh khác (Bình Định, Phú Yên) về
bán cho người ương trong tỉnh. Con giống mua từ
tỉnh khác về thường có chất lượng kém hơn con
giống khai thác tại địa phương do chúng bị lưu nhốt
và vận chuyển trong thời gian dài.
Mật độ thả ương nâng cấp trung bình phụ thuộc
vào kích thước của con giống. Hậu ấu trùng là 76
con/m3 lồng ương. Giai đoạn tôm con là 54 con/m3
lồng ương. Mật độ thả ương trung bình của cả hậu
ấu trùng và tôm con đều cao hơn khuyến cáo của
Nguyễn Thị Thúy [2]. Điều này có thể ảnh hưởng
tới tỷ lệ sống cũng như tốc độ tăng trưởng của tơm
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ❖ 5
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2012
giống. Bởi không gian sống của tôm bị hạn chế, những con tơm lớn hơn có thể cạnh tranh thức ăn hoặc tấn
công các con tôm nhỏ vào thời điểm chúng lột xác.
Bảng 2. Mật độ thả ương nâng cấp tôm hùm giống tại Khánh Hịa
Hậu ấu trùng Puerulus
Cỡ giống
Tơm con
Mật độ thả
con/m3 lồng ương
Dao động
Trung bình
Dao động
Trung bình
Của ngư dân
30 - 136
76 + 32
22 - 100
54 + 22
Khuyến cáo của các nhà khoa học
50 - 60
55
15 - 20
18
Số liệu được trình bày giá trị trung bình + sai số chuẩn
4. Mùa vụ và thời gian ương tôm giống
Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa chưa quy định cụ thể
mùa vụ ương nâng cấp, thời gian bắt đầu thả ương
phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện giống ngồi tự
nhiên. Thơng thường, mùa vụ ương tôm giống kéo
dài 7 tháng trong năm, bắt đầu từ cuối tháng 10 và
kết thúc vào khoảng tháng 4 năm sau. Trong đó,
100% hộ tập trung ương vào các tháng chính vụ từ
tháng 12 đến tháng 3 năm sau.
Thời gian ương của mỗi đợt tùy thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau: kích thước con giống thả ương,
giá cả và nhu cầu con giống của người nuôi thương
phẩm, khả năng tài chính của hộ ương. Thơng
thường, ngư dân ương tơm từ 20 ngày đến 2 tháng.
5. Quản lý và chăm sóc tơm ương
5.1. Thức ăn và cách cho ăn
Trong ương nâng cấp việc phối hợp hai loại
thức ăn là giáp xác và thân mềm với tỷ lệ 3:1 tơm có
tốt độ sinh trưởng vượt trội, màu sắc tự nhiên, hệ
số thức ăn thấp và đạt tỷ lệ sống ổn định (khoảng
>95%) cao hơn so với các loại thức ăn khác [1].
Vì vậy, việc 80% hộ ương cho tơm giống ăn 100%
giáp xác tươi sống không phải là giải pháp tối ưu
về hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, điều này có thể gây
khó khăn cho tơm khi chuyển sang ăn thức ăn mới
là nhuyễn thể hoặc cá tạp. Do đó, ngư dân nên cho
tôm ương ăn xen kẽ nhiều loại thức ăn khác nhau,
để hạ giá thành sản xuất, giúp con giống đạt tốc độ
tăng trưởng tốt và tỷ lệ sống cao.
Ngư dân thường quyết định thời điểm bắt đầu
cho ăn và số lần cho ăn trong ngày dựa vào kinh
nghiệm hoặc học hỏi những người đi trước. Do đó,
thời điểm bắt đầu cho ăn cũng như số lần cho tôm
ăn có sự khác nhau giữa các hộ ương. Những hộ
ương con giống nhỏ (hậu ấu trùng Puerulus) khai
thác bằng lưới mành thường cho tôm ăn sau khi thả
từ 5 - 7 ngày. Trái lại, các hộ ương tôm con khai thác
6 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
bằng bẫy hoặc lặn bắt đều cho tôm ăn ngay sau khi
thả. Thông thường các hộ ương cho tơm ăn 2 lần/
ngày, chỉ có 5,7% hộ ương cho tôm ăn 3 lần/ngày.
Lượng thức ăn ngư dân đưa vào lồng ương
thường vượt quá nhu cầu của con giống. Trong
tháng đầu thả ương, ngư dân cho tôm ăn từ
70 - 400g thức ăn/100 con/ngày, cao hơn rất nhiều
so với khuyến cáo của Nguyễn Thị Bích Thúy [2],
trong 30 ngày đầu thả ương cho tôm ăn khoảng 15 20% khối lượng cơ thể (ước 5 - 7g/100 con/ngày đối
với tôm mới thả). Điều này, không chỉ gây lãng phí
thức ăn, tăng chi phí sản xuất mà cịn gây ô nhiễm
môi trường vùng ương. Do thức ăn dư thừa là tác
nhân chính gây ơ nhiễm mơi trường vùng ương.
Thức ăn thừa là một trong 3 yếu tố gây bùng phát
dịch bệnh trong q trình ương ni tơm hùm lồng
[1].
5.2. Quản lý lồng ương
Việc quản lý lồng ương của ngư dân có sự khác
biệt rõ rệt giữa hai hình thức ương (ương lồng bè
nổi và ương lồng chìm): Đối với lồng bè nổi, người
ương tiến hành vệ sinh lồng, vớt thức ăn thừa, kiểm
tra tình trạng sức khỏe của tôm giống hàng ngày để
điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Sau 1 tháng
ương, kiểm tra mức độ phát triển của tôm giống,
tiến hành san thưa giảm khoảng 20-50% số lượng
tơm thả ban đầu; Ương giống bằng lồng chìm, ngư
dân thường vệ sinh lồng theo chu kỳ, sau khi thả
giống 15 ngày mới tiến hành vệ sinh lồng lần đầu
tiên, tiếp đến cứ 7 ngày tiến hành vệ sinh lồng ương
một lần. Sau khoảng 1 tháng ương cũng tiến hành
kéo lồng lên kiểm tra tốc độ sinh trưởng của tôm
giống và tiến hành san thưa tôm ương.
Mỗi phương pháp chăm sóc đều có ưu điểm
riêng biệt: Việc vệ sinh lồng ương hàng ngày
(hình 2B), thu gom loại bỏ thức ăn thừa đảm bảo
lồng ương ln thơng thống, giữ gìn môi trường
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2012
ương sạch sẽ, hạn chế xuất hiện các tác nhân gây bệnh cho con giống. Trong khi đó, định kỳ vệ sinh lồng ương
đảm bảo con giống được yên tĩnh, tránh những tác động cơ học, gây sốc đối với tôm ương, giúp tơm có sức
khỏe và sức đề kháng tốt.
Hình 2. Chuẩn bị thức ăn (A); Vệ sinh lồng ương (B)
6. Tỷ lệ sống của tôm giống
Tỷ lệ sống của tôm giống phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau: chất lượng, kích thước, nguồn
giống khi thả ương; mơi trường nước; mùa vụ ương.
Tỷ lệ sống trung bình của tơm ương là 86,1%, trong
đó con giống của các hộ tự khai thác kết hợp mua
trực tiếp của người khai thác về ương có tỷ lệ sống
cao nhất 88,6%, con giống mua ở địa phương khác
về ương có tỷ lệ sống thấp nhất 83,1% (bảng 3).
Bảng 3. Tỷ lệ sống của tôm ương từ nguồn giống khác nhau
Nguồn giống
Tỷ lệ sống (%)
Khai thác kết hợp với thu mua trực tiếp từ người khai thác
88,6 + 2,6
Mua con giống khai thác ở địa phương thông qua chủ thu mua
85,6 + 4,3
Mua con giống từ địa phương khác thông qua chủ thu mua
83,1 + 2,8
Trung bình
86,1 + 3,9
Số liệu được trình bày là giá trị trung bình + sai số chuẩn
7. Đề xuất giải pháp ương nâng cấp đạt hiệu quả
cao
Ngư dân nên chọn vùng ni thích hợp, nước
lưu thơng tốt, khơng bị ảnh hưởng bởi nước thải
công, nông nghiệp hoặc khu dân cư. Chọn con giống
khỏe mạnh có màu sắc sáng bóng. Tốt nhất là mua
con giống khai thác bằng bẫy hoặc lặn bắt tại địa
phương. Cho tơm giống ăn thức ăn cịn tươi, phối
hợp giữa giáp xác và nhuyễn thể với tỷ lệ 3:1.
Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi hàng ngày.
Đối với các hộ ương bằng lồng treo nên kiểm tra
nhiệt độ môi trường nước thường xuyên, điều chỉnh
độ sâu của lồng nuôi cho phù hợp tránh để tôm bị
sốc nhiệt độ. Uơng trong giai cần sử dụng lưới hoặc
bạt để che mát cho tôm con.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tồn tỉnh Khánh Hịa có hai khu vực ương
nâng cấp tơm hùm chính: đầm Mơn - Đại Lãnh;
đầm Nha Phu - vịnh Nha Trang. Ngư dân trong tỉnh
áp dụng hai kiểu lồng ương chính: lồng chìm; lồng
treo trên bè nổi. Trong đó, ương giống trong lồng
treo trên bè nổi đạt hiệu quả cao, con giống sinh
trưởng tốt hơn.
Nguồn tôm hùm giống đưa và ương nâng cấp
và thức ăn cung cấp cho tơm con phụ thuộc hồn
tồn vào tự nhiên.
Tỷ lệ sống trung bình của tơm giống sau khi
ương là 86,1%. Tơm giống chết nhiều trong vịng 15
ngày đầu thả ương, nhưng kích thước tơm nhỏ nên
ngư dân khơng xác định được bệnh.
2. Kiến nghị
Xây dựng mơ hình trình diễn ương nâng cấp
tôm hùm giống đạt tỷ lệ sống cao và tốc độ sinh
trưởng tốt, từ đó khuyến khích ngư dân tham gia
ương nâng cấp tôm hùm giống, nhằm sử dụng có
hiệu quả nguồn lợi tơm hùm giống.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ❖ 7
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 2/2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Võ Văn Nha, 2006. Kỹ Thuật nuôi tôm hùm lồng và các biện pháp phòng trị bệnh. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
2.
Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường và Lục Minh Diệp, 2006. Kỹ thuật nuôi giáp xác, NXB Nông nghiệp.
3.
Hung Lai Van and Tuan Le Anh, 2008. Lobster seacage culture in Vietnam In: Spiny lobster aquaculture in the Asia-Pacific
region (Ed: Kevin C. Williams), pp10-17.
4.
Long Nguyen Van and Hoc Dao Tan, 2008. Census of lobster seed captured from the central coastal waters of Vietnam for
aquaculture grow-out, 2005 - 2008 In: Spiny lobster aquaculture in the Asia-Pacific region (Ed: Kevin C. Williams), pp
52-58.
5.
Tuan Le Anh and Mao Nguyen Dinh, 2004. Present Status of Lobster Cage Culture in Vietnam. In: Spiny lobster ecology and
exploitation in the South China Sea region (ed. By Kevin C.Williams), pp 21-25.
8 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG