Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Xu li hoi khi hoc hat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.18 KB, 36 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> LỜI NÓI ĐẦU</b>


Như chúng ta đã biết, âm nhạc là biểu hiện hoạt động trực tiếp của con
ngưởi. Hoạt động trực tiếp ấy vừa mang tính tái tạo, vừa mang tính sáng tạo rất cao.
Đào tạo GV âm nhạc trước hết là đào tạo năng lực hoạt động trực tiếp, là bồi dưỡng
năng khiếu, phát huy những tiềm năng âm nhạc của mỗi người. Quá trình đào tạo
cũng là quá trình sinh viên (SV) tiến hành lĩnh hội các phương pháp hoạt động biểu
hiện trực tiếp mang tính tái tạo và sáng tạo dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Đối
với bộ môn hát I, là những thủ pháp cơ bản về thanh nhạc, những tri thức, kỹ năng
trong hoạt động ca hát thể hiện trực tiếp ở đây có tầm quan trọng đặc biệt, được rút
ra từ những kỹ năng thực tế, là những kiến thức thực hành hết sức cơ bản về thanh
nhạc chứ không phải đơn thuần là những thuật ngữ, định nghĩa hay quy tắc về ca
hát.


Trong nội dung chương trình tập bài giảng này, có ba phần chủ yếu:
<b>Phần 1: Những vấn đề cơ bản trong ký thuật thanh nhạc. </b>


<b>Phần 2: Một số bài hát ứng dụng và bài tập luyện giọng ở kỹ thuật nâng</b>
<b>cao.</b>


<b>Phần 3: Những bài tập kỹ năng cơ bản để luyện tập giọng hát.</b>


Mỗi SV muốn nắm được những kiến thức về kỹ thuật ca hát, đòi hỏi phải có
một trình độ năng khiếu nhất định, bên cạnh đó phải học tốt các môn học như: Lý
thuyết âm nhạc cơ bản, ký xướng âm… với một ý thức học tập nhiệt tình, nghiêm
túc và với một phương pháp học tập khoa học. Tuy vậy trong chương trình này
cũng chỉ mới là những vấn đề đề cập có tính khái quát, cơ bản mà một người học
hát, đặc biệt là người giáo viên dạy hát nhạc ở các trường tiểu học và phổ thơng cơ
sở phải nắm vững mới có khả năng truyền thụ được trong giảng dạy.


<b>PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP</b>



Với tính đặc thù của bộ mơn nên việc hướng dẫn của giảng viên đóng một
vai trị hết sức quan trọng. (Như đã đặt vấn đề ở phần trên) Việc tiếp cận các kỹ
năng thanh nhạc, cụ thể là luyện tập các bài tập mẫu (nguyên âm và phụ âm),
không chỉ đơn thuần phát ra âm thanh và cao độ chuẩn là đủ, mà cần có sự kết hợp
chặt chẽ một cách khoa học về các thủ pháp lấy hơi, nén hơi, phát âm nhả chữ, bật
âm, nảy tiếng, “đưa âm thanh đi vào các xoang cộng minh” đồng thời phóng âm
thanh ra ngồi là địi hỏi cả một quá trình luyện tập bền bỉ, nghiêm túc. Mỗi sinh
viên phải có một ý thức học tập tốt ngay từ những bài học cơ bản đầu tiên.


-Tập nghe và nghe chuẩn được âm thanh để phân biệt được cao độ, âm sắc
của các loại giọng. (Tập nghe mình hát, nghe người khác hát) Nghe và ghi nhớ một
âm thanh làm chuẩn, đồng thời thường xuyên xướng lên để kiểm tra âm thanh ấy đã
được chuẩn xác chưa.


-Luyện tập các bài nguyên âm và mẫu âm đúng phương pháp, theo chỉ dẫn
của giảng viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

-Tập thường xuyên các bài tập cơ bản, chú ý tập mở rộng âm vực lên cao và
xuống thấp dần. (Không nóng vội và cũng khơng nản chí).


Hát được và hát đúng là vấn đề khơng khó, song để nắm và vận dụng được
kiến thức, thể hiện được những kỹ năng ca hát, mà đặc biệt là nắm bắt được các
phương pháp rèn luyện giọng qua những bài tập theo một tuần tự từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp, phải qua một quá trình rèn luyện lâu dài, khơng phải một
sớm một chiều mà có được. Từ những ca sỹ chuyên nghiệp đến không chuyên
muốn phát huy được những khả năng ca hát của mình đều phải có sự rèn luyện
thường xuyên. (Như ta ăn cơm uống nước hàng ngày vậy).


Đối với người giáo viên dạy môn hát nhạc nói chung thì việc nắm vững kiến


thức thiết yếu của bộ môn thanh nhạc lại là điều tối cần thiết, nhất là cần nắm rõ
những chất giọng của mỗi lứa tuổi học sinh ở từng giai đoạn để có phương pháp
luyện tập thích hợp khơng làm ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển tâm sinh lý
của học sinh.


Tập bài giảng này cơ bản chúng tôi xây dựng theo khung chương trình của
Bộ GD&ĐT. Nội dung chương trình, chủ yếu là kiến thức cơ bản trong tập Hát I,
GT Bộ GD&ĐT bên cạnh là một số tài liệu chủ yếu của môn thanh nhạc. Với thời
lượng 4 đvht nên chúng tơi chỉ đưa vào chương trình những bài tập chính, có tính
giới thiệu, khơng đi sâu vào cho mỗi loại giọng hát. Nếu học tốt chương trình này
SV sẽ có đủ những kiến thứ để ứng dụng được trong kỹ thuật thanh nhạc, hát và xử
lý tốt một số kỹ thuật thiết yếu của môn thanh nhạc và dạy tốt môn hát-nhạc ở các
trương TH-THCS. Tuy vây tập bầi giảng này cũng khơng tránh khỏi những thiếu
sót. rất mong nhận được sự góp ý của các đơng nghiệp và các bạn SV.


<b>Xin chân thành cảm ơn.</b>
<b> Tác giả</b>


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1-Hát I-Giáo trình CĐSP của Ngơ Thị Nam. Nxb Đại học Sư phạm-2004.
2-Âm nhạc và phương phát giáo dục âm nhạc


Giáo trình đào tạo giáo viên trung học Sư phạm mầm non, hệ 12+2
Nhà xuất bản : Âm nhạc- 1998.


3-Các thể loại âm nhạc : Tác giả Lan Phương - dịch
Nhà xuất bản Văn hoá- 1981.


4-Phương pháp và kỹ thuật thanh nhạc: Tác giả : Trung Kiên


Nhà xuất bản âm nhạc-1998.


5-Phương pháp hát và chỉ huy dàn dựng hát tập thể


Giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở, hệ cao đẩng Sư phạm
Nhà xuất bản : giáo dục – 1998.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH</b>
<b>PHẦN MỘT</b>


<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG KỸ THUẬT THANH NHẠC</b>
<b>CHƯƠNG I (5t)</b>


<b>BÀI 1</b>


<b>BỘ MÁY PHÁT ÂM</b>
<b>I-Phổi - thanh quản - cuống họng - mồm.</b>
<b>1-Phổi </b>


Là những tổ chức tế bào xốp có độ co giản lớn, cấu tạo thành những túi,
những túi này giãn ra chứa đầy không khí và co lại để đẩy khơng khí ra ngồi. Phần
trên túi này là những ống nhỏ cũng co giản được gọi là phế quản. Khi ta thở, các túi
phổi chứa đầy khơng khí, đóng lại và mở ra đẩy khơng khí ra ngồi. Khi ta nói hoặc
hát, luồng khơng khí từ phổi đẩy ra làm rung thanh đới phát ra âm thanh. Phổi được
ngăn cách với bụng bởi một màng ngăn co giãn được gọi là hồnh cách mơ. Màng
ngăn này giữ một vai trị khơng nhỏ trong hoạt động của hơi thở khi cac hát. Chất
lượng âm thanh một phần phụ thuộc vào luồng hơi thở.


Luyện tập hơi thở chủ yếu là luyện tập hoạt động của phổi và các cơ quan hơ
hấp sao cho được tích cực.



<b>2-Thanh quản </b>


Là bộ phận chủ yếu phát ra âm thanh. Đó là một ống nối tiếp với khí quản
nằm ở phía trước của cổ.


Thanh đới nằm ở hai bên ống thanh quản tạo nên một khe hở gọi là khe
thanh quản. Dưới tác động của luồng hơi thở từ phổi đẩy ra, làm khe này “lúc đóng
lúc mở”. Thanh đới là phần quan trọng nhất của thanh quản, là tổ chức hết sức sinh
động, có cấu tạo không thuần chất bởi những dây cơ và sụn.


Sức mạnh và khả năng làm việc bền vững của thanh đới là điều kiện tối cần
thiết cho người học hát. Một giọng hát tốt trước tiên phải là một thanh đới tốt và
khoẻ mạnh.


Phần trên thanh đới có 2 khoảng trống ở 2 bên song song với nhau gọi là
buồng thanh quản, phần trên cùng của thanh quản có một bộ phận nhỏ như cái nắp
gọi là nắp thanh thiệt. Nắp này mở ra đóng vào khi phát âm và nuốt thức ăn.


<b>3-Cuống họng </b>


Thanh đới rung tạo thành âm thanh, âm thanh đi từ khe thanh quản lên, trước
hết được phóng to ra trong cuống họng. Cuống họng còn gọi là bộ phận truyền âm,
được bao bọc bởi một tổ chức niêm mạc, rất dễ bị tổn thương, ảnh hưởng đến giọng
hát do vậy cần chú ý giữ gìn .


<b>4-Mồm </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mồm giữ vai trò quan trọng khi phát âm. Những âm thanh được phát ra từ thanh
đới đi ra ngồi thơng qua những hoạt động của mồm, tạo nên những âm thanh


chính xác có âm sắc đẹp. Từ mồm, âm thanh chứa đựng nội dung cụ thể thông qua
ngôn ngữ, hợp lại bởi những nguyên âm và phụ âm do các hoạt động của mồm tạo
ra dưới sự chỉ đạo của não. Âm thanh ở đây còn được mang những cảm xúc tinh tế,
có tính nghệ thuật. Ngồi ra cịn có sự hỗ trợ đắc lực cho phát âm đó là xương
xoang của mũi, vòm mặt và trán, gọi chung là các xoang cộng minh.


<b>BÀI 2</b>
<b>HƠI THỞ THANH NHẠC</b>


<b>I-Vị trí hơi thở trong kỹ thuật thanh nhạc</b>


<b>1-Thở ngực: Luồng khơng khí hít vào phần trên của phổi làm lồng ngực</b>
phía trên căng ra, nâng lên cịn hồnh cách mơ thì hầu như ổn định, (Hồnh cách
mơ là một lớp màng ngăn cách giữa phổi và bụng, co giãn được. Màng ngăn này
đóng vai trị khơng nhỏ trong hoạt động của hơi thở khi hát, đặc biệt trong kiểu thở
ngực dưới với bụng và thở bụng). Kiểu thở ngực tạo điều kiện phát ra âm thanh nhẹ
nhàng với âm lượng nhỏ, đáp ứng những u cầu thể loại ca hát khơng có cao trào
lớn chẳng hạn như ca khúc trữ tình nhỏ, dân ca giai điệu dịu dàng, uyển chuyển,
với tầm cữ âm thanh tương đối hẹp.


Kiểu thở này có thể phù hợp với ca sỹ chun và khơng chun có giọng hát
nhẹ không khoẻ.


<b>2-Thở ngực kết hợp với bụng: Kiểu thở này khi hít hơi vào luồng khơng</b>
khí vào sâu hơn, làm căng phần ngực dưới, hồnh cách mơ cũng tham gia hoạt
động, kiểu thở này phát huy được toàn bộ lồng ngực, giống kiểu thở ngực dưới và
bụng.


<b>3-Thở ngực dưới với bụng: Là kiểu thở phổ biến nhất mà các ca sỹ hát nhạc</b>
kịch áp dụng. Ở nước ta các ca sĩ có giọng hát khoẻ cũng hát với kiểu thở này. Khi


hít vào phần ngực dưới căng ra, các xương sườn cụt dưới giương lên, bụng cũng
hơi phình ra một chút ở phía dưới và cả hai bên sườn. Hồnh cách mơ cùng tham
gia một cách tích cực tạo điều kiện tốt cho việc nén hơi, đó là điểm tựa cho một cột
hơi đều đặn, liên tục; cho phép các ca sĩ hát được những nốt cao của giọng. Từ
những nốt chuyển ở cuối âm khu “mở” trở lên cho đến hết âm khu cao, là những
nốt phải hát âm thanh “đóng”.


<b>4-Thở bụng: Với kiểu thở này, khi hít hơi vào lồng ngực gần như khơng</b>
động đậy, chỉ có bụng phình ra. Kiểu thở này gồm hai hoạt động trái ngược nhau.
Cơ bụng hoạt động khi đẩy hơi ra và hồnh cách mơ căng ra khi hít vào. Trong kiểu
thở bụng, thở ngực dưới với bụng đều có sự tham gia tích cực của hồnh cách mô
nhưng hơi khác ở chỗ: Kiểu thở bụng, khi đẩy hơi ra, bụng dưới hoạt động nhiều
hơn, còn kiểu thở ngực dưới và bụng thì chỉ thấy rõ phần bụng trên hoạt động mà
thôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

1-Hơi thở thanh nhạc: Là hơi thở nhưng tích cực hơn hơi thở bình thường rất
nhiều, bởi vì nó đáp ứng u cầu của âm thanh và độ dài của câu hát. Đặc biệt kiểu
thở ngực-hồnh cách mơ (là kiểu thở sâu nén hơi mạnh). Trong thực hành ca hát,
người ta đúc kết lại 4 kiểu thở thanh nhạc như đã nêu trên.


Đối với người mới học hát nếu bắt chước một cách máy móc dù là bắt chước
người hát giỏi, cũng khơng phải luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp, bởi vì nghệ
thuật cần có sự sáng tạo liên tục, trong đó có những bài tập có tính ngun tắc
chung cho các loại giọng, song những bài tập riêng biệt cho mỗi loại giọng lại là
những nhân tố quan trọng. Vấn đề hơi thở lại là vấn đề quan trọng nhất. Ý định
người hát muốn hát một âm cao, thấp, to, hay nhỏ được chuyển hoá thành những
tác động của hệ thần kinh trung ương điều khiển độ căng của thanh đới tương ứng
với âm thanh định phát ra, đồng thời, gần như cùng một lúc, điều khiển một áp lực
của hơi thở từ phổi đẩy ra tương ứng với độ căng của thanh đới. Hai lực này phải
luôn luôn phù hợp nhau mới có được âm thanh chính xác và có chất lượng. Muốn


chủ động điều khiển hoạt động này, phải tập đẩy hơi và ghìm hơi thở sao cho
những hoạt động đó trở thành thói quen chính xác. Tuy vậy đây cũng mới chỉ là kết
quả bước đầu của việc luyện tập, chưa phải là kiến thức vững vàng của một quá
trình rèn luyện theo một phương pháp khoa học.


Tập đẩy hơi thở và ghìm hơi thở bằng thanh đới rung tạo cho những hoạt
động đó trở thành thói quen chính xác. Hơi thở trong khi hát cịn giải quyết vấn đề
góp phần làm rõ ý nghĩa câu hát. Chỗ lấy hơi đồng thời cũng là chỗ ngắt câu, ấm
định sự trọn ý, trọn nghĩa của câu hát, ngồi mục đích giải quyết u cầu của âm
thanh cịn phục vụ ý nghĩa của câu hát. Khơng nên lấy hơi tuỳ tiện, cứ hát hết hơi
mới lấy hơi, làm như vậy đôi khi mất đi ý nghĩa của câu hát.


<b>2- Động tác lấy hơi:</b>


Trong khi lấy hơi cần chú ý động tác phải nhẹ nhàng như nuốt khơng khí
vào (khơng phát ra tiếng động). Hít hơi nhanh, nếu chậm sẽ ảnh hưởng đến tiết tấu
và làm sự bật âm thanh (át tác ca) gây căng thẳng một cách khơng cần thiết. Nên hít
hơi bằng mũi, một phần nhỏ qua miệng. Hít hơi bằng mũi sẽ đưa vào sâu hơn, làm
căng lồng ngực phấn trung tâm, cố gắng giữ trạng thái căng cần thiết này trong
suốt độ dài câu hát.


<i><b>Chú ý</b></i>: Khơng nên hít hơi hồn tồn qua miệng, sẽ khó đưa luồng hơi vào
sâu trong phổi và dễ tác hại cho thanh quản, dễ làm khơ cổ. Hít hơi qua miệng
trơng lộ liễu khơng đẹp mắt. Khơng hít hơi q nhiều (thừa hơi). Không dùng hết
kiệt một cột hơi, chỉ để thừa một ít trước khi lấy cột hơi khác. Không nhô vai, rướn
người lên khi lấy hơi.


<b>3-Động tác đẩy hơi (nhả hơi): </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

bài “Hà Nội niềm tin và hy vọng” của Phan Nhân có những khoảng nhảy cần đẩy


hơi bằng bụng.


*<i><b>những điều cần tránh khi đẩy hơi:</b></i>


-Không đẩy hơi quá mạnh đặc biệt là ở các nốt cao.


-Không tống hơi ồ ạt, đột ngột từng đợt, mà phải đẩy hơi đều đặn liên tục,
bám sát giai điệu bài hát gọi là hát liền hơi (legatô). Như vậy âm thanh mới đều,
trơn tru, mượt mà. Khi hát cần tiết kiệm hơi. Làm sao một cột hơi phải hát được tối
thiểu một câu nhạc càng dài càng tốt mà âm thanh vẫn vang đầy đủ.


Tóm lại khi đẩy hơi cần tránh tình trạng thơ bạo dùng sức, quá căng thẳng.
<b>BÀI 3</b>


<b> TẬP ĐẨY HƠI</b>


-Hít hơi vào sau đó ghìm hơi một vài giây, đạt đầu lưỡi giữa hai hàm răng sít
lại và xì hơi dần ra ngoài, qua kẽ hở của hai hàm răng. Cố găng kéo dài thời gian xì
hơi trong khi đó phải giữ sự căng thẳng cần thiết của bụng trên giáp ngực cho tới
khi hết hơi. Không được xẹp bụng xuống đột ngột. Có rhể dùng tay hoặc tờ giấy để
sát miệng mà kiểm tra luồng hơi xì ra đều đặn, liên tục không ?


<b>BÀI TẬP ĐẨY HƠI KẾT HỢP ÂM THANH</b>
<b>CHƯƠNG II (10t)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>ĐẶC ĐIỂM PHÂN LOẠI GIỌNG HÁT.</b>
<b>I-Ý nghĩa của việc phân loại giọng hát:</b>


Là công việc đầu tiên của người học hát, để xác định giọng hát vào loại
giọng nào. Nếu xác định phân loại giọng sai sẽ dẫn đến tác hại lớn cho người học


hát hát khơng đúng tầm cữ giọng của mình thì sẽ mất dần tính chất tự nhiên. Khi
tập các nốt cao âm thanh sẽ bị tối, mờ, xỉn. Nếu không khắc phục sửa chữ để lâu
ngày sẽ dẫn đến mất giọng. Đặc biệt khi phân bè cho các dàn đồng ca, tốp ca ở lứa
tuổi học sinh (HS) nếu xác định phân loại giọng không đúng để kéo dài sẽ ảnh
hưởng đến chất giọng vốn có của HS.


<b> II-Những căn để xác định phân loại giọng hát</b>
<b>1-Căn cứ vào âm vực giọng</b>


Thử giọng bằng cách hát từ nốt thấp nhất đến nốt cao nhất với một nguyên
âm dễ hát. đối với các giọng thơng thường thì cách phân loại này thường mang lại
hiệu quả chính xác. Ví dụ: xác định giọng nam cao, hát xuống thấp thường có hiệu
quả tới nốt đơ 1, lên cao tới nốt la2, si2 (gần 2 qng 8).


<b>2-Thơng qua đặc tính âm sắc của các loại giọng</b>


Âm sắc trong thanh nhạc là màu sắc của chất giọng, tính chất âm thanh của mỗi
loại giọng hát đều có màu sắc riêng. Nếu là giọng nam cao thì âm sắc phải trong
sáng, bay bổng; giọng nam trung thì âm sắc phải mềm mại, ấm áp; giọng nữ cao thì
âm sắc phải mềm mại, uyển chuyển.v.v (đặc điểm âm sắc giọng chỉ là một đặc
điểm cần xét đến chứ khơng hồn tồn mang tính quyết định trong phân loại
giọng).


<b>3-Thơng qua vị trí các nốt chuyển giọng</b>


Đó là các nốt chuyển tiếp từ những âm khu khác nhau của mỗi loại giọng
hát. Từ âm khu thấp đến âm khu trung, hoặc âm khu ngực, âm khu giọng pha, âm
khu giọng óc đều có các nốt chuyển giọng. Ở nam giới có 2 âm khu: Âm khu ngực
và âm khu óc. Ở nữ giới có 3 âm khu: Âm khu ngực, âm khu hỗn hợp (pha giữa
ngực và óc) và âm khu óc. Ở nam có một chỗ chuyển giọng, ở nữ có hai chỗ


chuyễn giọng giữa các âm khu này.


+Ngồi ra người ta cịn xác định giọng bằng cách đo thanh đới hoặc thông
qua tầm cữ cao, thấp “Tesstura” của tác phẩm phù hợp theo từng loại giọng.


Sau đây là vị trí các nốt chuyển giọng (theo cách ghi thơng thường ở khố Sol).
<b>III-Các loại giọng</b>


Cho đến nay trên thế giới người ta chấp nhận 3 loại giọng cơ bản cho cả
nam và nữ và chấp nhận giới hạn về tầm cữ cho từng loại giọng


<b>A-Âm vực giọng hát nữ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b> a2-Giọng nữ trung (Mezzosoprano), là giọng trung gian giữa giọng nữ</b>
trầm và giọng nữ cao.


a3-Âm vực giọng nữ trầm (nghe như giọng nam cao)
<b>a4-Giọng nữ cực trầm (Contrato)</b>


<b>B-Âm vực giọng hát nam: Chú ý: âm vang thực của giọng nam được ghi ở khoá</b>
Fa 4.


<b>b1-Giọng nam cao (tenore) </b>


xét về tính chất, giọng nam cao có 3 loại:


-Nam cao trữ tình có âm sắc trong sáng, nhẹ nhàng bay bổng, trong sáng,
linh hoạt, thể hiện tốt những ca khúc trữ tình.


-Giọng nam kịch tính vang khoẻ tồn bộ âm vực, âm thânh tròn, đầy đặn,


nhiều chất “thép” hơn giọng nam trữ tình. Tầm cữ giọng từ nốt Đô quãng 8 nhỏ


(Q8) nhỏ đến Sol2, La2.


<b>b2-Giọng nam trung (Bariton)</b>


Là giọng chiếm tỷ lệ cao trong giọng hát nam, tính chất pha giữa giọng nam
kịch tính và giọng nam trầm. Giọng nam trung cũng có hai loại:


-Nam trung trữ tình: Âm sắc mềm mại, gần với âm sắc giọng nam cao, có thể
đầy đặn hơn, trịn, ấm hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

b3-Giọng nam trầm (Basse). Âm vực từ nốt Fa Q8 nhỏ đến nốt FaQ1.


-Ngồi ra cịn có giọng nam cực trầm (Ottavit). Ở Việt nam chưa thấy có ai
có loại giọng này, chỉ có ca sĩ người nước ngoài.


<b> BÀI 5</b>


<b>GIỌNG HÁT HS-NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý</b>


<b>TRONG QUÁ TRÌNH LUYỆN GIỌNG VÀ TẬP HÁT CHO HS</b>
<b>I-Những đặc điểm của giọng hát HS theo từng độ tuổi</b>


Giọng hát HS trải qua một số giai đoạn phát triển gắn liền với sự hình thành
giới tính, sự phất triển cơ thể và tâm sinh lý. Cho đến nay người ta tạm chia giọng
hát HS ra làm 4 giai đoạn như sau:


<b>1-Giai đoạn dưới 11-12 tuổi</b>



Giọng hát hoàn toàn là âm thanh của trẻ. Thời kỳ này, giọng hát của các em
chưa có những thay đổi đáng kể. Âm thanh nhẹ nhàng, êm ái “âm thanh cộng minh
đầu” vốn có tự nhiên của trẻ. Thời kỳ này nếu được hướng dẫn chu đáo thì giọng
hát sẽ phát triển bình thường, nếu việc học hát ở trường tổ chức tốt, đúng phương
pháp thì vào lứa tuổi 9-10 giọng hát HS sẽ bắt đầu vang đặc biệt tốt. Thời kỳ này
gọi là thời kỳ “hoàng kim” của giọng hát HS. Giọng hát các em trai rất vang, giọng
các em gái bắt đầu có âm sắc riêng.


<b>2-Giai đoạn từ 11 đến 12 (13) tuổi</b>


Là giai đoạn trước “vỡ giọng” xuất hiện những dấu hiệu cho thấy sự thay đổi
trong cơ thể như; tăng trọng, tăng trưởng, bộ máy phát âm phát triển thất thường,
khơng cịn phẳng lặng. Cơ thể hình giáng bên ngồi khơng cân xứng, giọng hát, nói
khơng cịn sáng, dường như tối, xỉn, hơi khàn. Có thể cho thấy cả sự thay đổi về
tầm cữ giọng (hạn chế tầm cữ giọng).


Những thay đổi trong giọng hát giai đoạn này: Những em trai, sự phát triển
mạnh hơn và không đều hơn, mặc dù bộ máy phát thanh vẫn cịn ngun tính chất
trẻ thơ. Thanh đới có thể thấy sưng tấy đỏ lên, làm ngứa họng. Trong suốt thời kỳ
này, tất cả những thay đổi về tâm sinh lý của HS, đặc biệt là các em gái, (trước khi
có kinh nguyêt thường chóng mặt, nhức đầu, ể oải, dễ cáu kỉnh…) tác động xấu đến
đến giọng hát. Vì vậy đây là lúc cần đựơc quan tâm và có chế độ tập luyện phù
hợp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tập hát. Đối với cácem gái, mỗi lần có kinh nguyệt phải nghỉ tập+hát 3-4 ngày đầu.
Trong suốt thời kỳ này, đặc biệt là cuối giai đoạn này giọng hát các em sẽ phát
triển, là thời kỳ bản lề để chuyển từ chất giọng trẻ sang giọng người lớn. Khoảng
16, âm sắc ở các em trai chất giọng chưa ổn định, có khi cịn song song hai chất
giọng, khi thì giọng đàn ơng khi thì giọng đàn bà.



Ở các em gái, thời kỳ này đã hình thành rõ giọng của thời kỳ trưởng thành.
Cũng có khi trong giọng hát lại “xỉn” như bắt đầu vỡ giọng. Bộ máy phát thanh bắt
đầu phát triển.


<b>4-Thời kỳ 17- 18 ( sau vỡ giọng)</b>


Thanh quản gần như định hình hồn tồn, tuy bộ máy hơ hấp vẫn còn phát
triển. Thời kỳ này kéo dài đến 20 tuổi (đôi khi muộn hơn).


<b>II-Âm vực trong giọng hát lứa tuổi học sinh (HS)</b>


Mỗi lứa tuổi có âm vực của lứa tuổi đó. Khi dạy hát cần chọn lựa bài hát
cũng như xác định tính chất của từng giọng.


<b>1-Lứa tuổi dưới 11-12 tuổi: </b>


Ở các học sinh cấp 1 âm vực khá rộng, có thể từ nốt La bát độ nhỏ đến Rê 2.
Mi 2 (Có khi hơn) nhưng “ vùng vang” ít vang hơn, trung bình từ Mi 1. Đến Xi 1.
Đôi khi đô2.


Vùng vàng là khu vực thuận tiện cho các em nghe và hát lên được. Là khu
vực có thể gọi là tầm cữ chuẩn.


<b>2-Lứa tuổi chuyển giọng:</b>


Tầm cữ trung bình lên đến Đơ1- đơ2- (rê2-Mi2), một số em không hát được
những âm cao. Vùng vang tạm thời kém vang hơn. Vùng trung lại xỉn, vùng âm cao
nhất lúc này rất không ổn định, do đó khơng nên cho để HS hát nhiều.


Đây là thời kỳ trước vỡ giọng, độ vang ở cuối thời kỳ này đầy đặn hơn, tuy


vậy khơng nên phát triển tính chất đầy đặn này mà nên duy trì độ cao của âm thanh
với âm lượng vừa phải. Không tập vượt quá tầm cữ chuẩn, nếu không dễ dẫn tới tác
hại cho giọng của các em trong thời kỳ vỡ giọng, mất đi tính chất vang, mềm mại.


<b>3-Thời kỳ vỡ giọng:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhưng không ổn định, mà thu hẹp tầm cữ giọng. Từ Xi bát độ nhỏ hoặc Đô, đến
Fa2, đôi khi Son2.


Ở những HS nam, những ranh giới,
tầm cữ âm vực thay đổi rõ ràng, tuỳ thuộc vào quá trình vỡ giọng: Khoảng từ Rê
bát độ nhỏ tới Rê1.


-Hiểu được những đặc điểm về tầm cữ giọng chuẩn theo từng lứa tuổi HS,
giúp người dạy hát phân bè chính xác. Đặc biệt ở các em lớn, cấp 2 . Cần theo dõi
chất lượng của từng loại giọng mà phân vào bè trầm (Allto) - những em hát tốt,
vang thoải mái những âm Đô2- Rê2 và xuống thấp vẫn “ngọt” trơi chảy. Cịn các
em hát tốt vang thoải mái ở các nốt Mi2- Fa2 thì phân vào bè cao (Soprano).


Những nốt này gọi là
nốt chuyển giọng vì chúng nằm ranh giới giữa âm khu trung và âm khu cao. Nếu
hát tốt các nốt này ổn định thoải mái thì việc chuyển từ âm khu này sang âm khu
khác sẽ trơn tru, dễ dàng làm giọng sẽ vang đều trong tồn bộ âm vực đang dần dần
mở rộng, đó là việc xoá bỏ ranh giới của các âm khu, một công việc đặc biệt quan
trọng của việc dạy và học hát.


<b>III- những điểm chính cần chú Ý trong dạy và học hát đối với HS</b>


1-Giọng hát HS-THCS hoàn toàn chưa định hình mà đang trong quá trình
dần dần phát triển. Cùng với những đặc điểm về thể chất, tâm sinh lý. Vì vậy địi


hỏi người giáo viên dạy hát nhạc cần đặc biệt quan tâm theo dõi uốn nắn, hướng
dẫn với những phương pháp nghiêm ngặt, bài bản và một tinh thần trách nhiệm
cao.


2-Việc luyện tập giọng hát ngay từ nhỏ là điều rất tốt. Ơ các trường phổ
thơng, địi hỏi người giáo viên dạy hát nhạc phải nắm vững những kỹ thuật và
phương pháp của bộ môn thanh nhạc một cách thuần thục. Bên cạnh đó cần nắm
vững kiến thức môn xướng âm, nhạc lý cơ bản ...


3-Cần đặc biệt quan tâm đến thời kỳ chuyển giọng, vỡ giọng của học sinh.
Có phương pháp và chế độ tập luyện, nghỉ ngơi thích hợp để giữ được giọng hát tốt
và phát triển ở lứa tuổi thanh niên.


4-Những bài hát dạy cho các em thuộc các chủ đề như tình yêu đất nước,
thầy cô, bạn bè, yêu quê hương, mái trường, yêu thiên nhiên... Âm nhạc phải giản
dị trong sáng, ngắn gọn, âm vực tương đối hẹp, tiết tấu không phức tạp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

càng tốt, mà cần bồi dưỡng, định hướng xu hướng cảm thụ âm nhạc, những kỹ
năng ca hát tối thiểu, những kỹ thuật cơ bản về lối phát âm, nhả chữ, độ chuẩn xác
của âm thanh, hơi thở trong ca hát...


6-Trước khi tập hát, cho học sinh luyện giọng trong vài phút, rồi phân tích
cái hay, cái đẹp trong lời ca và giai điệu của bài hát. Sau đó mới bắt đầu tập.


7-Nếu các em đã có một trình độ nhất định nào đó về ký xướng âm thì nên
cho các em đọc kỹ giai điệu cho chuẩn xác, rồi ghép lời ca vào từng câu. Có thể
cho các em tự ghép lời ca vào giai điệu, rồi sửa chỗ sai. Qua đó rèn luyện tai nghe,
khả năng tiếp thu tích cực, khơng thụ động, không bắt chước. Mà dần dần tự xướng
âm, ghép lời. Đó là cách dạy hát tích cực, tạo hứng thú, phát huy lòng tự tin của các
em, khiến khả năng tiếp thu âm nhạc của các em phát triển nhanh và tốt hơn.



<b>BÀI 6</b>


<b>CÁCH PHÁT ÂM VÀ XỬ LÝ NGƠN NGỮ TRONG CA HÁT</b>
<b>I-Xử lý khẩu hình trong ca hát</b>


<b>1-Hát rõ lời: là một trong những yếu tố góp phần vào chất lượng biểu diễn</b>
bài hát, khi dạy hát. Để có kỹ năng hát rõ lời, cầm hiểu thêm đôi điều về đặc điểm
ngôn ngữ tiếng Việt. Các nguyên âm, phụ âm và thanh điệu trong tiếng Việt có một
số đặc điểm sau:


Tiếng Việt có 12 nguyên âm, chia thành 5 nhóm : A, E, I, Ơ, U. Mỗi nhóm
có ngun âm chính và các biến dạng của ngun âm. Do tính chất và vị trí cộng
minh của các ngun âm khác nhau nên có các dạng, vị trí khẩu hình khác nhau :


<b> *Khi hát nhóm ngun âm A (ắ, â), miệng mở rộng, hơi trịn, mơi hơi nhếch</b>
lên, lộ hàm răng trên. Mặt lưỡi đặt bằng phẳng, đầu lưỡi tiếp giáp nhẹ với hàm
dưới. (Khuôn mặt trông như cười. Âm thanh sẽ tươi sáng).


*Khi hát nhóm nguyên âm E (ê) miệng không mở rộng như nguyên âm A mà
thu nhỏ lại. Phần trên của lưỡi hơi uốn cong.


* Khi hát nhóm nguyên âm I (y) , miệng thu nhỏ hơn so với A và E. Phần
thân lưỡi gần dính sát vịm ếch mềm (hàm dưới), tính chất âm thanh sáng “nhiều
chất thép”.


*Khi hát nhóm nguyên âm Ơ (o, ơ) miệng mở trịn, mơi phía trên hơi thu lại.
Phía trong miệng mở rộng. Lưỡi gà nâng lên, cằm dưới hạ xuống (Âm sắc hơi tối)


*Khi hát nhóm nguyên âm U (ư) miệng thu nhỏ lại, mơi trên và mơi dưới


thu lại. Khẩu hình phía trong vẫn mở rộng. (Âm sắc tối hơn)


Các nguyên âm ghép với các phụ âm tạo thành các vần bằng, vần trắc, đóng
-mở... chú ý là :


a- <i><b>Khẩu hình mơ:</b></i> khi hát các vần bằng, vần trắc - <i><b>mở</b></i> như âm : ang, ăng,
âng.. (mở mang, lâng lâng...) ác, ấc, ích ... (lác đác, gió bấc ...)


b-<i><b>Khẩu hình đóng:</b></i> khi hát các vần bằng, vần trắc khẩu hình đóng như âm
ơng, ung..(khơng, thuỷ chung...) áp, úc, óc ..(lấm láp, túp lều, khóc..)


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ trong ca hát, mỗi từ
tiếng Việt phân thành 3 phần : đầu, thân và đi.


Ví dụ: từ MANG có cấu tạo M-A-NG, khi hát được chia thanh: MA-ANG.
Dù ở trong trường độ nào, từ MANG cũng được ngân thành một âm liền, khơng
ngắt qng.


Tiếng Việt có 6 thanh là: Thanh bằng (khơng có dấu), thanh sắc, thanh
huyền, thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng. mỗi từ đi với 6 thanh sẽ tạo thành 6 từ
khác, hồn tồn khơng giống nhau về ngữ nghĩa. Ví dụ: ma, má, mà, mả, mã, mạ.
Giai điệu của dân ca Việt Nam gắn bó rất chặt chẽ với đặc trưng về ngữ điệu, thanh
âm trong tiếng nói. Trong các ca khúc viết cho lứa tuổi thiếu niên (các ca khúc và
các bài dân ca) đường nét giai điệu khơng phức tạp. Song để có được kỹ năng hát
rõ lời, nhả chữ chính xác, cần phải nghiên cứu đường nét của ca từ, cần đọc diễn
cảm nhiều lần phần lời ca. Cần chú ý tập hát rõ lời, đúng thanh điệu từng lời ca,
nhưng không được làm mất đi vẻ duyên dáng, tế nhị của phong cách nói, ý nghĩa
trọn vẹn của câu ca.


<b>Câu hỏi ơn tập </b>



1-Hãy trình bày những vấn đề cơ bản của bộ máy phát âm.


2-Thế nào là hơi thở thanh nhạc, trình bày vị trí hơi thở trong kỹ thuật thanh
nhạc?


3-Hãy trình bày các phương pháp luyện tập hơi thở thanh nhạc.
4-Trình bày các động tác lấy hơi, đẩy hơi.


5-Nêu ý nghĩa của việc phân loại giọng hát.
6-Trình bày và cho ví dụ tầm cữ các loại giọng.


7-Hãy trình bày những đặc điểm về giọng hát của HS theo từng lứa tuổi,
từng giai đoạn phát triển cụ thể.


8-Hãy trình bày và cho ví dụ cụ thể về âm vực (tầm cữ giọng) giọng hát của
HS theo từng lứa tuổi, từng giai đoạn cụ thể.


9/ Hãy trình bày những điểm cần lưu ý trong phương pháp luyện giọng, dạy
và tập một bài hát cho HS.


10/ Nêu những vấn đề liên quan đến việc xử lý ngôn ngữ trong ca hát.
<b>CHƯƠNG III (10t)</b>


<b>LUYỆN TẬP NHỮNG CÁCH HÁT KỸ THUẬT KHÁC NHAU</b>
<b>-Hat liền tiếng.</b>


<b>-Hát nhanh.</b>
<b>-Hát âm nẩy.</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong quá trình học tập, nhiệm vụ vô cùng quan trọng là nắm vững cách hát
và những yêu cầu khác nhau như: hát liền tiếng (Căngtilena), hát nhanh, hát âm nẩy
(Staccato), hát từ nhỏ tới to, (Crescendo) từ to tới nhỏ. (điminuedo). Biết hát tốt
những yêu cầu kỹ thuật đó để có thể chủ động áp dụng mọi yêu cầu trong ca hát.


<b>BÀI 7</b>


<b>LUYỆN TẬP CÁCH HÁT LIỀN TIẾNG-Cantilena</b>
<b>(Phần bài tập ứng dụng ở chương VI)</b>


Là kiểu hát cơ bản nhất trong kỹ thuật thanh nhạc trên thế giới. Ở nước ta từ
những ca khục nghệ thuật đến các làn điệu dân ca đều có giai điệu phong phú uyển
chuyển, êm ái, duyên dáng. Để biểu hiện đặc tính nghệ thuật đó thì cách hát liền
giọng phải được đặc biệt quan tâm.


Hát liền tiếng cũng có nghĩa của hát liền giọng, là cách hát liên tục, đều đặn
tự âm nọ sang âm kia, tạo nên những câu hát liên kết không ngắt quãng. Trong các
tác phẩm khí nhạc, khi yêu cầu một câu nhạc liên kết, người ta dùng chữ Legato
hoặc dấu nối vòng cung. Xét về phượng diện âm nhạc: Hát liền giọng và legato
cũng mang ý nghĩa như nhau. Song ở đây tính chất của cantilena ngồi u cầu liên
kết giai điệu, cịn có ý nghĩa yêu cầu về âm thanh sao cho thanh thốt, trong sáng,
mềm mại, tn trào như giịng nước chảy khơng bị vật gì ngăn cản.


Đa số những người chưa học hát, không nắm vững được cách hát liền giọng
nên tiếng hát bị rời rạc, không đều đặn và khơng thanh thốt. Đây là một u cầu
kỹ thuật khó, khơng thể trong một thời gian ngắn có thể nắm vững ngay được, mà
phụ thuộc vào sự tiến bộ chung về kỹ thuật trong quá trình luyện tập lâu dài. Hát
liền giọng đòi hỏi 2 điều kiện :


1-luyện tập cho cơ quan phát âm hoạt động đúng và phù hợp. Nghĩa là giọng


hát có được những tính chất thiết yếu như vang khoẻ, tròn, đều đặn, với một hơi thở
sâu và tiết kiệm .


2-Biết hát liên kết các âm: Legato.


Muốn giải quyết được những vấn đề này, lúc đầu nên tập những bài hát có
giai điệu đơn giản, sau đó đến những bài tập phức tạp hơn, rồi đến những bài hát có
giai điệu ổn định, mềm mại. Tập hát những thanh âm, những hợp âm, những quãng
khác nhau. Cố gắng sao cho những âm thanh khơng thay đổi tính chất, nghĩa là giữ
âm thanh ở một vị trí thống nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

chú ý hát rõ lời, không nên chú ý âm thanh đơn thuần. Hơn nữa trong những bài
dân ca cũng như bài hát mới, tính giai điệu còn chứa cả trong lời hát với những ca
từi uyển chuyển, duyên dáng, đầy hình tượng. Cho nên hát liền giọng còn phải chú
ý nhả chữ cho mềm mại và rõ ràng.


<b>BÀI TẬP MẪU VÀ NGUYÊN ÂM</b>
<b>Phần 2 kết hợp với hát liền tiếng </b>


Ở bài tập trên chú ý nốt đầu phách, đặt âm thanh nhẹ nhàng, nốt sau liền với
nốt trước, bằng cách đẩy hơi liên tục, đều đặn, khơng thay đổi vị trí.


Ở bài tập dưới tập liền giọng và phát triển hơi thở. Khi hát, âm thanh phải đẹp như
một câu hát có tình cảm, nốt mở đầu phải nhẹ nhàng sau đó tiếp tục đẩy hơi đều
đặn nối từ nốt nọ sang nốt kia, ở nốt cao nhất chú ý mở rộng bên trong mồm.


<b>BÀI 8 </b>


<b>LUYỆN TẬP CÁCH HÁT NHANH</b>



Là cách hát những giai điệu một cách linh hoạt, rõ ràng, gọn gàng, tơc độ
nhanh. Những bài hát thể hiện tình cảm vui tươi, rộn ràng, thường được viết ở tốc
độ nhanh, linh hoạt. Ví dụ bài “ Cơ gái vót chơng của Hồng Hiệp, lời thơ của
Mơlơyclavi”, “ Chiếc khăn Piêu” Dân ca xá, “lí ngựa ơ” DC nam bộ.v.v.


Muốn biểu hiện những bài hát có tính chất này, phải biết cách hát nhanh, nếu
không âm thanh sẽ nặng nề, không linh hoạt, khơng rõ lời, nhịp điệu khơng dứt
khốt, khơng đúng với tốc độ quy định của bài hát.


Giọng hát nào cũng có thể hát nhanh và luyện tập phát triển kỹ thuật hát
nhanh. Tuy nhiên có những giọng thuận lợi, có những giọng khó khăn, những
giọng cao, nhẹ nhàng sẵn có điều kiện tự nhiên, thuận lợi hơn trong việc tập hát
nhanh hơn là những giọng trầm. Kỹ thuật hát nhanh đặc biệt cần thiết cho giọng nữ
cao màu sắc ( Soprano - coloratura ) để biểu hiện những yêu cầu linh hoạt, trong
sáng, tươi vui của những bài hát thích hợp với giọng hát này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

tác dụng giải quyết một số vấn đề quan trọng nữa là: thuận lợi trong việc hát những
nốt ở âm khu cao của giọng, âm thanh sẽ lướt nhẹ nhàng cùng hơi thở, hơn nữa hát
nhanh cho ta cảm giác tự tin mạnh dạn khi hát các nốt cao. Tuy vậy hát nhanh để
tập các nốt cao cũng chỉ là biện pháp hỗ trợ chứ không phải là biện pháp chủ yếu.
Khi tập hát nhanh cần chú ý mấy điều cơ bản sau đây:


+Hít hơi thở phải sâu và nhanh, vì hít hơi chậm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ của
bài hát, làm âm thanh sẽ bị nặng nề.


+Khi đẩy hơi phải nhẹ nhàng, dứt khốt.


+Ln chú ý tới sự chuẩn xác của cao độ. Không nên hát một cách hời hợt
lướt qua, hoặc bỏ nốt mà phải rõ ràng, nét tiếng, chính xác từng nốt một dù rằng ở
tốc độ nhanh. Hàm dưới buông lỏng, hàm cứng sẽ ảnh hưởng không tốt tới âm


thanh và tốc độ. Vị trí âm thanh phải nơng và cao.


<b>BÀI 9 </b>


<b>LUYỆN TẬP CÁCH HÁT ÂM NẨY - Staccato.</b>


Là một kỹ thuật yêu cầu các giọng, đặc biệt là giọng nữ cao. Trong các tác
phẩm thanh nhạc, người ta sử dụng kỹ thuật hát âm nẩy để diễn tả tình cảm tươi
vui, trong sáng, rộn ràng, tiếng cười, tiếng chim hót.v.v. Ví dụ bài “ Cánh chim báo
tin vui” của Đàm thanh v.v.


Trong kỹ thuật thanh nhạc nói chung, cách hát âm nẩy có nhiều tác dụng tốt
cho việc phát triển giọng hát. Trước hết âm nẩy làm cho thanh đới và bộ phận
truyền âm dần dần hoạt động được linh hoạt. Âm nẩy với cách bật âm Attacca nhẹ
nhàng, gọn tiếng sẽ tạo ra thói quen bật âm thânh đúng khi hát liền giọng. Tập âm
nẩy còn tạo điều kiện cho việc phát triển âm khu cao của giọng hát, còn là biện
pháp sửa những sai lệch về âm sắc như tật hát sâu, hát gằn cổ. Với yêu cầu nhẹ
nhàng, linh hoạt, trong sáng của âm nẩy, âm thanh bắt buộc phải có vị trí nơng và
cao, do đó có thể dần dần khắc phục nhược điểm hát sâu, hát gằn cổ của giọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>BÀI 10</b>


<b> LUYỆN TẬP CÁCH HÁT SẮC THÁI TO -NHỎ</b>


Trong một bài hát, tình cảm một phần được thể hiện bàng những sắc thái,
trong đó sự thay đổi to, nhỏ, mạnh, yếu .v.v được ghi bằng những ký hiệu chữ cái
viết tắt.


Ví dụ: To (forte). Yếu - nhỏ (piano). Từ to tơi nhỏ dần (Điminueđo). Từ nhỏ
tới to đàn (Crescendo). Cách hát thể hiện sắc thái này cũng là yêu cầu cần thiết, hát


nhỏ dần đi hoặc to dần ra trên một nốt nhạc một cách đều đặn, liên tục không bị
gãy âm thanh, khơng ngắt qng, khơng thay đổi vị trí cộng minh.


Những người chưa nắm vững kỹ thuật thanh nhạc, khi hát từ nhỏ tới to chỉ
chú ý tới việc phát triển âm lượng, nên nhiều khi âm thanh bị khơ, gằn tiếng, khơng
được mượt mà thanh thốt, cịn khi hát từ to tơí nhỏ thì thường bị gãy tiếng ở giữa
sau đó âm thanh nghe mờ và tối, yếu đi không nghe rõ lời.


Luyện tập hát to dần, nhỏ dần là một vấn đề khó. Hát từ to tới nhỏ không chỉ
tăng cường âm lượng, mà điều quan trọng là khi thay đổi âm lượng, tính chất tiêu
chuẩn của âm thanh vẫn được ổn định trong suột độ dài của nốt nhạc, câu nhạc.
Muốn đạt được yêu cầu đó phải thực hiện mấy điểm sau:


-Hơi thở phải sâu, đẩy hơi đều đặn, liên tục, (không tống hơi ồ ạt, đột ngột)
kết hợp với hơi thở đó phải mở rộng mồm phía trong băng cách nâng hàm ếch và
bng lỏng hàm dưới.


Âm thanh phát triển to dần, không rộ ra đột ngột, tránh tình trạng căng thẳng
quá mức.


<b>Hát to dần</b>


P ---f P ---f
<b>Hát nhỏ dần</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

f --- p f --- p


Hát vuốt nhỏ dần là cách hát tương đối khó hơn hát to dần, đặc biệt khi hát ở
những nốt cao. Do vậy phải thận trọng và kiên trì. Cũng như cách hát to dần, hát
nhỏ dần cũng yêu cầu giữ cho âm thanh không thay đổi âm lượng. Khi chuyển từ to


sang nhỏ dần, âm thanh phải chuyển đều đặn, không được gãy tiếng hoặc âm thanh
đột nhiên bị nhỏ hẳn đi. Chú ý nén hơi tốt. Nếu buông lỏng hơi thở âm thanh sẽ bị
gãy khúc ngay. Khi hát nhỏ dần mồm không nên khép lại, mà vẫn phải giữ độ mở
cần thiết ở trong để âm thanh khi vuốt nhỏ dần không bị ngẹt, không bị gãy. Kéo
dài liên tục, nhỏ dần và âm thanh chuyển vào hốc mũi.


Yêu cầu kỹ thuật: nốt đầu đặt âm thanh nhẹ nhàng, sau đó mở rộng khẩu
hình đồng thời tăng cường hơi thở rồi vuốt nhỏ dần đi.


Hát liền giọng, hát nhanh, hát sắc thái to nhỏ là những kỹ thuật quan trọng
của nghệ thuật ca hát, đó là phuêong tiện kỹ thuật thiết yếu để biểu hiện những hình
thức và nội dung của tác phẩm. Luyện tập những yêu cầu klỹ thuật này, đồng thời
cũng là việc luyện tập phát triển giọng hát, để có khả năng phong phú, giải quyết
mọi yêu cầu của nghệ thuật mmột cách chủ động, vững vàng.


<b>CHƯƠNG IV (10)</b>


<b>BÀI 11</b>


<b>LỰA CHỌN VÀ TẬP BÀI HÁT - CÁC CHẾ ĐỘ LUYỆN TẬP </b>
<b>1-Những yêu cầu trong việc lựa chọn bài hát</b>


Học tập thanh nhạc bao gồm 3 công việc chủ yếu như sau:


a-Một là luyện thanh bằng các mẫu âm. Đó là những bài tập có giai điệu đơn
giản, với tiết tấu ít thay đổi. Hát cao dần hoặc thấp dần nửa cung
(chuyển-Coromatique). Những bài tập này giúp phát triển giọng theo những yêu cầu khác
nhau.


b-Hai là luyện tập các bài luyện thanh ở kỹ thuật cao (Vocalise). Đó là những


bài tập có giai điệu phát triển và tiết tấu rõ ràng, có thay đổi tiết tấu, sắc thái.v.v.
(có thể xem như những bài hát khơng lời).


c-Sau cùng là tập những bài hát đúng tầm cũ giọng, đúng và phù hợp với
chất giọng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Trong giai đoạn đầu mới học, nhiệm vụ chủ yếu là luyện tập những thói quen
cơ bản như hơi thở, hoạt động của thanh đới, làm quen dần với những khái niệm,
những cảm giác đúng của âm thanh. Thời kỳ này, việc luyện thanh các mẫu âm đơn
giản là công việc chủ yếu. Trong một tiết học thực hành kỹ thuật thanh nhạc, việc
luyện thanh chiếm một nửa thời gian, sau đó tập các bài luyện thanh mới. Mục đích
ứng dụng bước đầu của việc luyện thanh vào bài tập có giai điệu và tiết tấu phát
triển, đó là động tác bắc cầu chuyển việc hát những âm thanh đơn thuần sang
những bài hát. Ban đầu âm thanh chưa ổn định, do vậy việc tập các bài hát chưa
phải là nhiệm vụ chủ yếu. Chỉ nên tập một số ca khúc nhỏ, hoặc những bài dân ca
có giai điệu tiết tấu đơn giản, để dần dần kết hợp âm thanh với giai điệu và lời ca.
Khi giọng hát đã tương đối phát triển, nên dành thời gian luyện tập các bài mẫu âm
và tập hát. Tóm lại, hai công việc luyện thanh và luyện tập mẫu âm là công việc
thường xuyên của người học hát.


<b> 2-Lựa chon bài hát</b>


Trong từng giai đoạn học tập thanh nhạc, việc tập bài hát có những yêu cầu ở
những mức độ khác nhau.Giai đoạn đầu mới học tập, giọng hát còn chưa phát triển,
chưa nắm được kỹ thuật cơ bản. Yêu cầu tập bài hát chưa phải là công việc chủ
yếu. Do vậy phải chọn bài hát tương đối dễ, giai điệu tiết tấu đơn giản tốc độ không
nhanh, không chậm quá tầm cữ không cao. Thời kỳ sau khi giọng đã phát triển rồi
mới chọn bài hát khó hơn. Khi chọn bài hát để tập cũng như dể biểu diễn, cần chú ý
mấy điều sau đây:



Trước hết cần chú ý tìm hiểu nội dung bài hát. Nội dung của bài hát thể hiện
nội dung của âm nhạc và lời ca. Bước đầu có thể tìm hiểu nội dung của lời ca mốt
bài hát. Nội dung tốt phải phục vụ những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, vì độc lập
tự do, bảo vệ tổ quốc và xây dựng CNXH. Nội dung bài hát phải có tính giáo dục
tư tưởng và thẩm mỹ, làm giàu thêm thế giới tâm hồn của con người. Nội dung bài
hát có thể đề cập một vấn đề mang tính chất chung, một đề tài rộng, chẳng hạn ca
ngợi Tổ quốc, con người.v.v. Có bài hát nói đến một vấn đề cụ thể nào đó trong
cuộc sống, ca ngợi một con người anh hùng… Có bài hát viết cho nhiều người cùng
hát, có bài chỉ viết cho đơn ca nhưng không dành riêng cho một chất giọng nào.<i>Ví</i>
<i>dụ như bài “hành khúc ngày và đêm’’ của Phan Huỳnh Điểu v.v tất cả giọng nam</i>
nữ cao trầm đều có thể hát được, nhưng có những bài hát chỉ viết riêng cho một
chất giọng nam hoặc nữ. Sự phân biệt có tính chất giới tính ở đây một phần do tính
chất của bài hát, nhưng chủ yêú thể hiện trong nội dung của lời ca, chẳng hạn: Bài
ca miêu tả tình cảm của một nhân vật nam hay nữ nào đó như bài: “người ơi người
ở đừng về” DC quan họ Bắc Ninh v.v Những bài hát viết cho từng loại giọng là
những bài hát mà nội dung và hình thức phù hợp với đặc tính, những khả năng
biểu hiện của các giọng đó. Ngồi ra đơi khi có những bài hát mà lúc mới sáng tác
người nhạc sỹ viết cho một ca sỹ nào đó, để ngay từ bước đầu đã đạt hiệu quả theo
ý muốn của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

người lớn lại chọn nhầm cho trẻ em. Chọn nhầm bài hát hoặc bài khơng phù hợp
sẽ gặp nhiều khó khăn trong khi xử lý các yêu cầu về âm nhạc, đặc biệt trong việc
thể hiện tình cảm của tác phẩm. Khi chọn bài hát cần chú ý đến khả năng biểu hiện
đặc biệt của mình.(Ca khúc trữ tình hay ca khúc cách mạng v.v.) không nên chọn
bài hat chỉ theo ý thích cá nhân của mình hoặc theo thị hiếu của một người nào đó.
Phải lấy việc phục vụ Giáo dục làm hàng đầu để chọn những bài hát thích hợp,
những đề tài sát với thực tế cuộc sống làm phương hướng chọn bài hát.


Đặc biệt là việc chọn bài hát cho các em học sinh. Cần chú ý chọn bài hát
thích hợp theo lứa tuổi. Có vậy mới phát huy được khả năng âm nhạc của các em


cũng như cơng tác giảng dạy, và qua đó có điều kiện rèn luyện năng khiếu cũng
như kỹ thuật thanh nhạc.


Không nên chọn những bài hát đề cập đến nội dung vượt quá những nhu cầu
suy nghĩ, nhu cầu lứa tuổi, của người hát và kể cả người nghe hát. Cũng không nên
chọn những bài hát thể hiện quá rõ giới tính nam, hoặc nữ ( tuy thơng thường cũng
có thể sửa lời đơi chút).


Chọn bài hát phải căn cứ vào tầm cữ giọng, không nên quá cao, không nên
quá thấp hoặc không quá treo ở âm khu cao hoặc thấp so với giọng của mình. Tất
nhiên có thể xử lý bằng dịch giọng lên cao hoặc xuống thấp, nhưng

<i>không phải bài hát nào cũng xử lý theo cách đó được, có khi bớt được</i>


<i>âm cao nhưng lại thêm những âm thấp không hợp giọng, hoặc ngược lại.</i>



<b>3-Tập bài hát </b>


Tập bài hát là một trong ba công việc được tiến hành trong thời gian học tập
thanh nhạc, mỗi công việc ở từng giai đoạn học tập giữ vai trị quan trọng khác
nhau nhưng nói chung việc luyện mẫu âm và bài luyện thanh cũng chỉ với mục đích
cho giọng hát phát triến tốt hơn, dần dần có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu về kỹ
thuật , về biểu hiện tình cảm trong các bài hát. Nói cách khác tất cả đều phục vụ
cho mục đích chung quan trọng nhất là giảng dạy. Khi đã chọn được bài hát, bắt
đầu tập, cơng việc có thể chia làm hai giai đoạn:


-Giai đoạn thứ nhất là vỡ hoang bài hát.
-Giai đoạn thứ hai là gọt dũa và sáng tạo.


Khi bắt đầu tập, không nên ghép lời vào nhạc ngay. Trước tiên nên đọc lời
ca một vài lần cho quen, sau đó đọc lại vài lần có mức độ diễn cảm. Đọc lời ca
trước như vậy rất có lợi, đến khi ghèp lời vào nhạc bài hát sẽ rất thuận tiện, hơn


nữa qua việc đọc lời ca còn phần nào biết được nội dung của bài hát để bước đầu có
những hưng phấn, những cảm xúc khi tập hát sẽ dễ thuộc, dễ tìm hình tượng của
bài hát để diễn cảm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

tốc độ chậm, đến khi hát chính xác cao độ và tiết tấu, mới tập đúng tốc độ quy định
của bài hát.


Khi tập gặp những câu khó, cần chú ý tập kỹ, sau đó đánh dấu những chỗ lấy
hơi. Trường hợp câu nhạc và lời ca không thống nhất được cùng một chỗ ngắt câu,
thì nên ưu tiên ngắt câu theo ý của lời ca để khỏi làm sai ý nghĩa của câu hát.
Chừng nào chưa hát thật chính xác, khơng nên bỏ bản nhạc. Nhưng cũng khơng
nên tập hát mà nhìn vào bản nhạc mãi, mà nên cố gắng thuộc nhanh để tập trung
vào việc biểu hiện sắc thái tình cảm của tác phẩm.


Khi đã thuộc rồi bước sang một giai đoạn gọt dũa sáng tạo, cịn được gọi vui
là đánh bóng mạ kền.Ở đây trước hết là hát rõ lời. Như chúng ta đã biết: Phát âm
nhả chữ là hai yêu cầu thống nhất của nghệ thuật ca hát, Hai yêu cầu này gắn bó
với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên một tiếng hát hoàn chỉnh. Âm thanh đúng tạo
điều kiện cho việc nhả chữ rõ ràng, đẹp, âm thanh thêm phong phú về màu sắc và
tình cảm. Ở giai đoạn 2 của viẹc tập hát, phải hết sức chú ý hát cho rõ lời, nhả chữ
cho chính xác. Trong bài hát có những chữ khó phát âm thì phải tập kỹ. Đặc biệt
những chữ có phụ âm kép ở cuối như chữ “các’’ hát sai thành chữ “cáng” “ bác’’
thành “báng”, “Đất nước’’ thành “đất nướng” “phất phới” thành “phấn phới”, “ta
đi trong ánh vàng sao” thành “ta -i trong…”. Khi hát phải đảm bảo âm vang cần
thiết của âm thanh, nhưng rất cần phải chú ý hát rõ lời. Đặc biệt đói với những
người phát âm chưa tốt, những em học sinh thường phát âm tiếng địa phương, tật
nói ngọng thì phải điều chỉnh cách phát âm, điều chỉnh âm thanh để đảm bảo cho
bài hát được rõ lời, nếu khơng bài hát sẽ khó hiểu, hiệu quả sẽ hạn chế


Hát rõ lời là yêu cầu tối cần thiết, nhưng khơng hải vì vậy mà phát âm mơt


cách máy móc, khơ khan làm bài hát trở nên rời rạc. Hoặc ngược lại cầu kỳ quá khi
nhả chữ, thêm bớt nhiều âm luyến láy lại làm cho bài hát mất sự xúc động trung
thực, mất trong sáng.


<b>4-Tư thế khi ca hát</b>


Tư thế của cơ thể khi hát là một vấn đề cần được chú ý ngay từ ban đầu khi
học hát. Tư thế cơ thể khi hát cần giẩi quyết hai yêu cầu thuận lợi cho việc phát âm,
biểu hiện tình cảm và hài hồ đẹp mắt.


Người diễn viên bước ra sân khấu, cúi chào khán giả, từ những hoạt động
đầu tiên đó, cho đến khi tiết mục biểu diễn kết thúc, mọi hành động được người
xem theo dõi và có những ấn tượng khác nhau. Người xem khơng những nghe tiếng
hát, mà cịn thưởng thức những diễn xuất của người hát, thể hiện bằng bàn tay, nét
mặt, dáng người. v.v. Một người có giọng hát hay nhưng khi đứng trên sân khấu lại
có tư thế xấu, cũng khơng thể chiếm được cảm tình của người xem. Bởi vậy tư thế
khi hát cũng chú ý luyện tập để có được một sự hồn chỉnh, hài hồ khi biểu hiện
những cảm xúc nội tâm, cũng như những diễn xuất ngoại hình.


Nghệ thuật ca hát có những diễn xuất khác nhau. Những hình thức này yêu
cầu những tư thế phù hợp khi biểu diễn.


-Tư thế đứng thẳng khi hát đồng ca đồng ca.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

-Những tư thế đứng ngồi đi lại, nằm ngả v.v. khi hát trong cá ca kịch v.v.
Những tư thế đó phụ thuộc vào những yêu cầu tiết mục của vỡ diễn. Tuy trong thực
tế, tư thế đứng hát vẫn là tư thế được áp dụng hơn cả.


Trước hết tư thế phải thuận tiện cho việc lấy hơi, nén hơi và phát âm. Khi
đứng cơ thể dồn vào một chân (thường là chân phải), cịn chân kia đưa lên phía


trước độ nửa bàn chân. Không nên để trọng lượng cơ thể dồn cả hai chân như khi
đứng nghiêm, hoặc dạng hai chân làm cơ thể căng cứng không đẹp mắt. Trọng
lượng phần trên của cơ thể như dựa vào phía sau chỗ thắt lưng. Khơng chúi về phía
trước, khơng ngả về phía sau. Hai vai như kéo về phía sau để cho ngực được thoải
mái. Hai tay buông lỏng bàn tay để tự nhiên không nắm chặt, không duỗi thẳng
cứng nhắc. Mắt nhìn thẳng, khơng ngửa cổ, khơng cúi gập xuống để ảnh hưởng đến
âm thanh. Việc biểu hiện tình cảm bằng bàn tay, nét mặt phải hài hoà, phù hợp.


Khi tập hát nên đứng trước gương dể theo dõi nét mặt, kịp thời sửa chữa
những cử động xấu. Khi hát cần chú ý không nên quá hạn chế cử động của tay, vì
nếu hát từ đầu đến cuối bài hát mà tay chỉ buông thỏng hoặc nắm chặt vào
nhau...cơ thể sẽ bị gị bó khơng sinh động, nhiều khi còn gây cảm giác thiếu chủ
động. Những động tác tay đúng lúc, đúng chỗ sẽ có tác dụng truyền cảm tốt. Ngược
lại nhiều động tác không phù hợp với nội dung, khơng phục vụ gì trong việc biểu
hiện tình cảm, cũng chẳng ăn khớp với khn mặt...những động tác như vậy khơng
những khơng có tác dụng tốt mà gây ấn tượng về thiếu sự khiêm tốn của người biểu
diễn đối với người xem.


Tóm lại tư thế tốt khi hát là tư thế vững vàng khoẻ mạnh nhưng vẫn mềm
mại tự nhiên, thoải mái, tạo nên một dáng dấp đẹp mắt. Mọi chuyển động của
người hát đều hài hồ, gắn bó với nội dung tiết mục. Tất cả những vấn đề đó sẽ tạo
điều kiện cho tiếng hát bay bổng, cho sự truyền cảm được tinh tế và sâu sắc.


<b>BÀI 12</b>


<b>CHẾ ĐỘ LUYỆN TẬP VÀ SINH HOẠT</b>


Khi nói đến chế độ luyện tập, ta chia ra những chế độ chung và những
phương thức cụ thể, bao gồm việc luyện tập hàng ngày, việc bảo vệ phát triển
giọng hát thông qua ăn uống, bảo vệ giấc ngủ, bảo vệ cổ họng ...



-Luyện tập phù hợp với khả năng, sức khoẻ, không quá đam mê mà bắt giọng
hát phaỉ làm việc quá sức. Nhưng dù tập ít hay nhiều, điều quan trọng là duy trì
thường xuyên, ngày nào cũng tập, trước hết là những bài tập luyện hơi thở, luyện
hát liền tiếng, hát nhanh, hát nẩy tiếng. Luôn chú ý đến sự điều độ phát triển dần
dần, không gượng ép. Bài tập luyện hơi thở cũng phải từng bước kéo dài dần.
Luyện âm thanh cũng mở rộng tầm cữ lên cao, xuống thấp dần.v.v


-Với lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên..phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu
bảo vệ giọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>1-Giấc ngủ: Là thời gian nghỉ ngơi quan trọng của cơ thể, thời gian phục hồi</b>
năng lực tế bào thần kinh não, để tiếp tục những khả năng hưng phấn hàng ngày.
Giấc ngủ đầy đủ để phục hồi năng lực phải kéo dài từ 7-8 giờ trong một đêm cho
người lớn và 9 giờ cho trẻ em. Thời gian này tuỳ thuộc vào hệ thần kinh của từng
người.


Nên ngủ vào một số giờ tương đối cố định, thành thói quen sẽ dễ ngủ hơn.
Hệ thần kinh tác động lớn đến giọng hát. Thanh đới mệt, tiếng hát sẽ không trong
sáng thoải mái và khoẻ khoắn, diễn xuất không hào hứng


Nên nhắc học sinh , ngủ tốt trước buổi biểu diễn, không nên ham chơi, học
quá khuya trước ngày biểu diễn. Buổi trưa nên ngủ độ 45 phút, sẽ rất có lợi cho
giọng hát


<b>2-Ăn uống: Khơng nên ăn quá nhiều trước buổi biểu diễn làm cho dạ dày</b>
làm việc quá nhiều, gây mệt mỏi cho cơ thể, nặng bụng khó nén hơi, khó ghìm hơi
lúc hát.


-Khơng nên ăn quá chua, quá cay, quá nóng, quá lạnh. Trước khi biểu diễn


càng không nên uống lạnh, ăn cay vì dễ ảnh hưởng đến niêm mạc.


<b>3-Bảo vệ cổ họng giọng hát</b>


Phải giữ gìn, tránh tình trạng viêm nhiễm đường hơ hấp ( viêm mũi viêm
họng) vì khi bị viêm những bộ phận này, giọng hát sẽ mất đi những cảm giác quen
thuộc đã có, khi hát ảnh hưởng trực tiếp đến giọng hát.


Phải tập thở bằng mũi nhất là về mùa đơng để tránh luồng khơng khí lạnh.
Mùa đông cần giữ ấm chân và nhất là cổ họng, chú ý súc miệng bằng nước
ấm-nước muối trước khi ngủ, ngửa cổ cho ấm-nước muối xuống sâu trong họng và súc
mạnh, lậu.


Một điều quan trọng là luôn duy trì luyện thanh hàng ngày, trước khi biểu
diễn. Đừng bào giờ trước khi biểu diễn mà không luyện thanh, nhất là đối với
những người hát không chuyên, các em HS trước khi biểu diễn. Nếu là hát tập thể,
đồng ca, hợp xướng, cần cho luyện thanh tập thể bằng vài bài tập nhẹ như kiểu
“khởi động” của vận động viên thể thao trước khi luyện tập hoặc thi đấu, như người
diễn viên múa làm động tác cơ bản trước khi tập hay biểu diễn, như nhạc cơng
luyện ngón trước khi tập hoặc biểu diễn vậy.


<b> PHẦN HAI</b>
<b>CHƯƠNG V (15t)</b>


<b>THỰC HÀNH-MỘT SỐ BÀI HÁT ỨNG DỤNG</b>
<b>BÀI HÁT ÁP DỤNG KỸ THUẬT HÁT </b>


<b>BÀI 13</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b> Phân tích tác phẩm </b>


<b>1-Xác định giọng </b>


Bài xe chỉ luồn kim được cấu trúc ở giọng Rê, tuy không thiên hẳn về giọng
D-Dur hoặc thứ nhưng ở kết bài có nghiên về giọng D-Dur.


<b>2-Cấu trúc</b>


Gồm 3 đoạn đơn tái hiện ABAB’:


- Đoạn 1 từ nhịp 1 đến nhịp 7, lặp lại hai lần “rồi ngồi rồi…” Giọng Am-
Dm.


- Đoạn 2 từ nhịp 8 đến nhịp 24 “ chồng cho chồng” Giọng D-dur, a-moll,
d-moll, A +B- A+B’


-Đoạn 3 từ ô đấu đến nhịp 7 trở lại đến nhịp đầu đến nhịp 4 (bỏ qua nhịp 5)
đến nhịp 8, đến nhịp16 (bỏ qua nhịp 17) đến nhịp 25 (B’) đến hết. Giọng Dur,
D-moll-D-Dur ( có sự đan xen giữa D-Dur -và D-moll)


<b>3-Chất liệu âm nhạc</b>


Thuộc âm hưởng dân ca Bắc Bộ


-Âm vực khá rộng (Q, 11) từ D1đến G2. Kết bài có luyến xuống nốt A bát độ
nhỏ.


- Nét đặc thù của giai điệu là Quãng 4 (A-D) dược lặp lại nhiều lần, (như
diễn tả động tác khâu...)


<b>4-Lời ca </b>



Tâm tình, sâu lắng diễn tả tư tưởng tình cảm của người phụ nữ... đêm đêm
chong đền may áo...chung thủy chờ chồng nơi xa... với nỗi niềm thương nhớ... pha
lẫn chút u buồn, than vãn trách móc.


-Lời thơ chỉ nằm trong câu “xe chỉ luồn kim, may quần bằng vng nhiễu
tím gửi ra cho chồng... là khơng thấy tình”


Khơng thấy rõ cấu trúc của khổ thơ lục bát như thường gặp trong dân ca Việt
Nam mà là thể thơ tự do, đặc biệt được sử dụng rất nhiều từ đệm “ô mấy, i , a, u,
xê, xang, cống v.v) các tên nốt nhạc trong hệ thống thang âm dân tộc, đã làm phong
phú thêm rất nhiều cho tính chất và tư tưởng của lời thơ (là nỗi tâm tư của người
con gái…)


<b>5-Phần thể hiện sắc thái</b>


Là bài dân ca, có chất liệu âm nhạc như lời thơ đã được trình bày, vì vậy việc
thể hiện bài hát phải hết sức mềm mại.


- Động tác lấy hơi phải nhẹ nhàng, cột hơi phải sâu.
- Nhả hơi phải nhẹ và đều. Nhả chữ rõ ràng.


- Áp dụng kỹ thuật hát liền tiếng-liền giọng (cantilena). Rõ ràng, tránh mất
nốt trong khi luyến.


<b>BÀI 14</b>


<b>“Lời ru trên nương”</b>


Nhạc:Phan Huỳnh Điểu - lời thơ: Nguyễn Khoa Điềm.


<b>Phân tích tác phẩm</b>


1-Xác định giọng: Được viết ở giọng G-Dur.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

-Đoạn 1: A từ đấu đến nhịp 12 “lún sân…” A’ từ nhịp 13 đến nhịp 26 “
a-ơi…” được viết ở giọng G-D-G. Từ ô nhịp 26 đến nhịp 28 là phần cầu nối (gian
tấu) giữa hai đoạn.


-Đoạn 2: B từ nhịp 28 đến nhịp 36 “ trên lưng” được viết ở giọng G-Dur, về
tốc độ cũng như âm hình tiết tấu có thay đổi. Nhanh hơn, (diễn tả nhịp lao động của
người mẹ), có sử dụng đảo phách, (diễn tả lưng núi , chênh vênh…) <b>B’ từ nhịp 37</b>
đến hết. Âm hình tiết tấu được lặp lại đảo phách và mơ phỏng phát triển. Tiết tấu có
phần nhanh hơn đôi chút so với phần B.


-Về phần kết


Giai điệu có tái hiện chất liệu của đoạn A’ (Chủ đề kết của đoạn A) Luyến 4
nốt D-A-G-F-G (lời hát-như nhịp nhàng đong đưa theo lời ru đưa bé vào gíâc ngủ).


<b>3-Nội dung tư tưởng lời ca</b>


Là ca khúc của nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm.
Được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Nội dung tư tưởng không chỉ
đơn thuần là lời ru, lời nhắn gửi, niềm tin yêu hy vọng của người mẹ đối với con
mà còn là tấm lòng người dân Tây nguyên hướng về Đảng, hướng về Bác Hồ, về
Cách Mạng, về Bộ Đội, với một niềm tin tưởng đến một ngày mai tương lai tươi
sáng, với lòng quyết tâm đấu tranh giành độc lập tự do hạnh phúc.



<b>BÀI 15</b>
<b>“Bài ca hy vọng”</b>


Nhạc và lời: Văn Ký (GT. trang 125=126+127)
<b>Phân tích tác phẩm </b>


<b>1-Xác định giọng: Được viết ở giọng F.</b>


<b>2-Cấu trúc tác phẩm: Được viết ở thể một đoạn phức gồm 5 câu.</b>
-Câu 1 từ đầu đến nhịp 4 “mùa xuân” được viết ở giọng F-Dur.
-Câu 2 từ nhịp 4 đến nhịp 8 “Mong nhớ ” được viết ở giọng a-moll.
-Câu 3 từ nhịp 8 đến nhịp 14 “đẹp bằng” dược viết ở giọng c-moll.
-Câu 4 từ nhịp 14 đến nhịp 20 “Mộng đời” được viết ở giọng C-moll.
-Câu 5 từ nhịp 20 đến hết. Được viết ở giọng F-dur.


<b>Bài ca hy vọng là một ca khúc nghệ thuật. Với tính chất âm nhạc sâu lắng,</b>
đặc biệt ở phần đầu và phần kết bài. Khi hát cần lưu ý những kỹ thuật xử lý sắc thái
một cách nhuần nhuyễn. Ở các nút cao trào cần lấy hơi nhanh và sâu, động tác đẩy
hơi cần phải nhẹ nhàng, tiết kiệm hơi để đưa về cao trào“..Bừng chiếu..”


-Chú ý xử lý các sắc thái như: mf - mạnh vừa, hơi mạnh. f - mạnh. ff - rất
mạnh. < - to dần. < > - to dần rồi nhỏ dần.


<b>BAI 16</b>


<b>“Cơ gái vót chơng”</b>
Nhạc: Hoàng Hiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Để thể hiện được bài hát này địi hỏi người hát phải có một khả năng áp dụng
kỹ thuật thanh nhạc về hát nhanh, hát âm nẩy nhuần nhuyễn và với một chất giọng


Nữ cao.


Bài hát này chỉ nhằm mục đích giới thiệu. Việc tập hát cho học sinh sinh
viên khơng địi hỏi phải áp dụng tốt kỹ thuật hát âm nẩy, mà chỉ áp dụng kỹ thuật
hát nhanh (nên bài giảng này khơng đi sâu vào phân tích tác phẩm).


<b>BÀI 17</b>


<b>BÀI LUYỆN TẬP KỸ THUẬT số 1</b>
Cantilena+Staccato


<b>Moderato</b>


<b>Yêu cầu kỹ thuật:</b>


Đối với bài tập kỹ thuật tổng hợp, đòi hỏi người học phải vận dụng tốt các
phương pháp: Lấy hơi đẩy hơi, phát âm nhả chữ và bật âm thanh. Xử lý sắc thái
thay đổi theo từng tiết nhạc, cấu nhạc.


- Phần hát nhanh tuy hát nhanh nhưng phải rõ lời, chuẩn cao độ.. , Lấy hơi
nhanh, cột hơi phải sâu.


-Phần kỹ thuật Catilena Giai điệu phải mềm. Động tác lấy hơi phải nhanh,
cột hơi phải sâu, âm thanh như phát ra từ vòm mặt (âm thanh cộng minh đầu).


Sắc mặt phải tươi. Hàm ếch trong mở rộng. Ở các nốt cao cần mở rộng khẩu
hình.


<b>BÀI 18 </b>



<b> BÀI LUYỆN TẬP KỸ THUẬT số 2</b>
Cantilena+Staccato


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


<i><b>Chú ý</b></i><b>: Ở bài dưới đây, phần đầu với Tốc độ Andantino (Chậm). Kỹ thuật</b>
cantilena, đòi hỏi giai điệu trong biểu cảm phải mềm mại, cột hơi ở phần này phải
thật sâu, ghìm hơi và đẩy hơi phải hết sức nhẹ nhàng, như suối chảy. Phần
Staccato, (từ nhịp 7 đến hết) tốc độ phải tăng nhanh hơn, vì chuyển từ tốc độ chậm
của kỹ thuật Cantilena sang Staccato, nếu hát chậm âm thanh sẽ nặng nề, khơng
thanh thốt. Có kết hợp 2 nhóm nốt Kỹ thuật cantilena, (tốc độ chậm). Cột hơi phải
nông, âm lượng vừa phải nhưng yêu cầu phải rõ cao độ, tránh nhoè nốt.


<b>BÀI 19</b>


<b>BÀI LUYỆN TẬP KỸ THUẬT số 3 </b>
<i> Cantilena+Staccato</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>Yêu cầu kỹ thuật: </b>


Ở bài này tốc độ nhanh linh hoạt. Cột hơi phải nông, động tác lấy hơi phải
nhanh. Bật âm nẩy tiếng dứt khoát, rõ ràng tránh nhoè tiếng. Phát âm phải rõ lời,
chuẩn xác về cao độ. Sắc mặt luôn tươi, (như cười).


<i><b>Chú ý</b></i>: Không bật hơi theo từng nốt một. Cố gắng giữ bụng ở trạng thái
tương đối ổn định và mềm mại, song vẫn cần sự căng thẳng cần thiết (Nếu thấy đau
phần hông - thắt lưng bụng là đẩy hơi sai).


<b>BÀI 20 </b>



<b>LUYỆN TẬP KỸ THUẬT số 5</b>
Cantilena


<b>Moderato</b>


<b>BÀI 21</b>


<b>LUYỆN TẬP KỸ THUẬT số 4 </b>
<i> Cantilena+Staccato</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>Yêu câu kỹ thuật</b>
Ở bài này tốc độ vừa.


-Cột hơi tương đối sâu, động tác lấy hơi phải nhanh.


-Bật âm nẩy tiếng dứt khoát, rõ ràng tránh nhoè tiếng. Phát âm phải rõ lời,
chuẩn xác về cao độ.


-Sắc mặt luôn tươi, (như cười).


<b>Chú ý: Là sự kết hợp âm thanh âm khu trung và âm khu cao, giữa 2 chất</b>
giọng Mezzosoprano và giọng Soprano, âm thanh cộng minh ngực và cộng minh
đầu nên ở các nốt cao, cần mở rộng khẩu hình. Khơng bật hơi theo từng nốt một.
Cố gắng giữ bụng ở trạng thái tương đối ổn định và mềm mại, song vẫn cần sự
căng thẳng cần thiết (Nếu thấy đau phần hông - thắt lưng bụng là đẩy hơi sai).


<b>BÀI 22</b>


<b>“Chỉ có một trên đời”</b>
Nhạc và lời: Trương Quang Lục.



Bài hát thiếu niên. Với giai điệu mềm mại mượt mà. Được viết ở giọng Dur,
âm vực 1Q8. Từ nốt la bát độ nhỏ đến nốt si.


Để tăng thêm sự biểu cảm, làm phong phú tính chất mềm mại của giai điệu,
có thể tập thêm cho học sinh hát thêm phần bè.


<b>BÀI 23</b>
<b>“Con nít con nơi” </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Bài hát có tốc độ hơi nhanh biểu đạt sự hồn nhiên tươi trẻ của lứa tuổi học
sinh. Khi hát tuy nhanh nhưng phải rõ lời, bật âm gọn tiếng (có thể tập cho học sinh
hát thêm bè đuổi..sẽ làm giai điệu phong phú và tính chất bài hát sẽ vui tươi hơn).


<b> BÀI 24</b>


<b>“Trèo lên trái núi thiên thai”</b>
Dân ca Quan họ Bắc Ninh.


Bài hát được phát triển từ hai câu thơ lục bát: “Trèo lên trái núi thiên thai,
thấy đôi loan phượng ăn ngồi bể Đơng” nhưng đặc biệt sử dụng nhiều điệp từ,
nhiều luyến láy, tạo cho giai điêu mềm mại duyên dáng.


Khi hát cần chú ý luyến đủ nốt legato. Chú ý lấy hơi đúng chỗ, động tác lấy
hơi phải nhanh, cốt hơi phải rất sâu, nhả hơi nhẹ nhàng, tiết kiệm hơi.


<b>BAI 25</b>
<b>“Mưa rơi”</b>
DC- Khơ Mú



Bài hát có giai điệu mượt mà nhưng tốc độ không chậm, diễn tả cảnh thiên
nhiên tươi đẹp- trong mưa....như lời thơ.


Khi thể hiện bài hát cần xử lý giai điệu mềm nhưng vui tươi, thanh thoát như
tiếng mưa rơi. Động tác lấy hơi nhẹ nhàng và nhanh, cột hơi tương đối sâu. Ở các
dấu lặng, rất thuận tiện cho việc lấy hơi.


Ở những bài hát liền giọng, phải hát với hơi thở sâu, đẩy hơi đều đặn, âm nọ
liền với âm kia, vị trí âm thanh phải nơng.


<b>BÀI 26</b>
<b>“Xn thì”</b>


Nhạc và lời : Phan Văn minh
<b>BÀI 27</b>


<b>“Người Quảng dáng nâu”</b>
Nhạc và lời : Phan Văn Minh


<b>BÀI 28</b>


<b>“Biết ơn Võ Thị sáu”</b>
Nhạc và lời : Nguyễn Đức Toàn


<b>BÀI 29</b>


<b>“Việt Nam quê hương tôi”</b>
Nhạc và lời : Đỗ Nhuận


<b>BÀI 30</b>


<b>“Đất nước”</b>


Nhạc : Phạm Minh Tuấn. Thơ : Tạ Hữu Yên
<b>BÀI 31</b>


<b>“Bác Hồ một tình yêu bao la”</b>
Nhạc và lời : Thuận Yến


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>“Viếng lăng Bác”</b>


Nhạc : Hoàng Hiệp. Thơ : Viễn phương
<b>BÀI 33</b>


<b>“Những bông hoa trong vườn Bác”</b>
Nhạc và lời : Văn Dung


<b>BÀI 34</b>


<b>“Quảng Nam yêu thương”</b>
Nhạc và lời : Phan Huỳnh Điểu


<b>BÀI 35</b>


<b>“Hát về tổ quốc tôi”</b>
Nhạc và lời : Tạ Hữu Yên
<b> PHẦN 3</b>


<b>CHƯƠNG VI (10t)</b>


<b> NHỮNG BÀI TẬP KỸ NĂNG CƠ BẢN ĐỂ LUYỆN GIỌNG </b>


(Phần này Gồm 15 tiết, chúng tôi bổ sung ở tập bài giảng dành cho lớp


chuyên nhạc)


<b>A-Những bài tập mẫu âm luyện giọng thông thường.</b>
<b>Bài 36</b>


<b>Bài 37</b>


<b>Bài 38</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b> Bài 40</b>


<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


Từ bài 36 đến bài 40, tốc độ chậm vừa, hát chuyển các nốt và các nguyên
âm, chú ý sao cho âm thanh đều đặn, khơng thay đổi vị trí âm thanh. Hát tăng dần
và hạ dần nửa cung trong khoảng trung bình của âm vực giọng.


<b>B.Những bài tập hát liền giọng (Cantilena)</b>
<b>Bài 41</b>


<b>Bài 42</b>


<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


Từ bài 40 đến bài 42: Tập hát liền hơi, hơi thở để đặn, âm nọ liền âm kia,
không đẩy âm thanh và hơi thở đột ngột. Cố gắng giữ các nốt với âm lượng đều,
không thay đổi. Chú ý vị trí âm thanh của nốt đầu tiên sao cho nông và tập trung.
Hát tăng lên và hạ xuống 1/2 cung trong khoảng trung bình của âm vực.



<b>Bài 43</b>


<b>Bài 44</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


Từ bài 43 đến bài 45, tập hát hợp âm rải liền giọng, nốt đầu tiên phải nhẹ
nhàng, sau đó phát triển dần âm lượng, khi quay trở xuống hát nhẹ dần. bài 45 âm
thanh tròn, đều như khi hát một câu hát đẹp, có lời chú ý sắc thái âm thanh.


<b>Bài 46</b>


<b>Bài 47</b>


Bài 46-47 hát liền giọng, âm thanh tròn, đều như khi hát một câu hát đẹp, có
lời, chú ý chính xác cao độ, khi hát những nốt nhắc đi nhắc lại phải buông lỏng ở
bên trong mồm và hàm dưới thật mềm mại.


<b>Bài 48</b>


<b>Bài 49</b>


<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>Bài 51</b>


<b>Bài 52</b>


<b>Bài 53</b>



<b>Bài 54</b>


<b>Bài 55</b>


<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


Ở những bài tập hát liền giọng Cantilena, phải hát với hơi thở sâu, đẩy hơi
đều đặn, liền âm, vị trí âm thanh phải nơng, gọn. Từ bài 48 đến bài 52 chú ý hát
chính xác cao độ. Bài 53 đến 55, nốt cao nhất phải mở rộng mồm bên trong, tăng
cường nén hơi thở, nguyên âm a hát trịn tiếng (gần như ơ), khi hát quay trở xuống
thấp, nhẹ dần. Bài 53 ở phần trục gam trưởng, hát tương đối mạnh, phần trục gam
thứ thì nhẹ và mêm.


Bài 52 và 56, khi đặt âm đầu phải hết sức nhẹ nhàng, sau đó phát triển dần,
hát trịn tiếng, sắc thái rõ ràng như khi hát một câu hát đẹp, có lời, chú ý chính xác
về câo độ. Bài 54-55, phách thứ 2, khi hát Q5, bụng dưới hơi ép vào đẩy hơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>Bài 57</b>


<b>Bài 58</b>


<b>Bài 59</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Bài 61</b>


<b>Yêu cầu kỹ thuật</b>


Những bài tập hát nhanh và phát triển hơi thở gồm những bài mẫu âm
chuyển động, phát trển hát ở tốc độ tương đối nhanh, mục đích làm cho giọng hát


được linh hoạt, nhẹ nhàng và hơi thở được phát triển để có thể hát được những câu
hát dài. Những bài tập này cần chú ý hát thật chuẩn xác cao độ. (Nên xướng âm
trước) Khi mới tập nên hát ở tốc độ vừa, khi đã chuẩn xác thì tăng dần tốc độ.


Chú ý đẩy hơi đều đặn, khơng tống hơi đột ngột, phát âm tích cực phụ âm và
nguyên âm. Vị trí âm thanh phải nơng, hàm dưới mềm mại, có như vậy âm thanh
mới linh hoạt, trong sáng được.


Bài 56 đến 59 cần đặt âm nhẹ nhàng, dần dần tăng cường hơi thở nhưng
không tống hơi quá mạnh, buông lỏng hàm dưới và mở rộng mồm dần khi lên ở
những âm cao.


Bài 60-61, là bài tập hợp âm rải, tốc độ tương đối nhanh, nhiều nốt và hát với
sắc thái to-nhỏ thay đổi như trên bài. Chú ý hát liền hơi, liền giọng. Phách 1 và 2
mồm mở rộng, giữ chắc hơi và buông nhẹ âm thanh, tới phách thứ 3 và 4, hát nhẹ
dần.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×