Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.38 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Phân tích bài Chữ người tử tù - mẫu 1</b>
Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái
đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là
người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tn đã sớm thấm nhuần tư
tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao,
cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất
thành cơng chân dung vẻ tồn mỹ, dù trong bất kỳ hồn cảnh nào thì nó vẫn ln toả
sáng và trường tồn với thời gian.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, q ơng ở làng
Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tn là nhà văn
lớn có đóng góp vơ cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ơng
say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của
mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của
ơng gồm có : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),…
Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dịng chữ cuối cùng in năm 1939 tên
tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành
Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên
ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn khơng thành nhưng ơng cũng khơng bao giờ gục
ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh gục tù tối tăm, u uất.
Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc, đó
chính là chiếc chìa khoá thúc đấy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà Nguyễn
Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự
sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn
Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực
đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm
tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lơi cuốn người đọc, cuối
cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.
Chữ người tử tù xây dựng thành cơng tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại
diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã
hội có dở bẩn ra sao cũng khơng thể nào làm vướng bẩn nhân cách thiên lương của
họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người
lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh địi lại cơng bằng cho chính mình. Ấy thế mà
trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu
nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng
Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần
quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính
trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở
một huyện.
hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối miêu tả gián tiếp là hồn tồn có
dụng ý khéo léo, chu tồn ơng muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự
nhiên mà không đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi
thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản
ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ơng Huấn cao cịn
được bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có
được chữ của ơng, chữ ơng “đẹp lắm, vng lắm” chỉ cần có một đơi câu đối của
Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời
sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.
Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù
đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân cách
thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền tào bạo. Trước lời giễu cợt của bọn
lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc mũi gơng nặng, khom mình thúc
mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh
báo chắc nịch của người tử tù với bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù
tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm
trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ
đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân
nghĩa vốn có của mình.
Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự toàn
diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo
dựng thành cơng tình huống truyện độc đáo, khắc hoạ tính cách nhân vật qua thủ pháp
đối lập, tương phản gay gắt, ngơn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua
truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, thể hiện lịng u nước
<b>2. Phân tích bài Chữ người tử tù - mẫu 2</b>
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội.
Ông là người có bản lỉnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết
rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời
văn cũng như trong cảm nghỉ. Sự nghiệp văn học của ông gồm hai giai đoạn. Các tác
phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời (1940), Tùy bút I (1941), Tùy bút II
(1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà
(1960), một số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những
đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tùy bút, ở cảm thụ sâu
sắc và ở văn phong cẩu kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.
Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài
viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém, ông ta đã bí mật đối đãi trân
trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hi vọng xin
chữ thì ơng lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi
ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ
đẹp. Thông qua câu chuyện ấy đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ
rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao,quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp
nhân cách. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu
vật ở đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng không sao đổi được. Người đọc ngày nay tìm
hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn
hố, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân
đen, địa chủ và nơng dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân,
dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được
sơ sơ đơi chút, nhưng trước những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hóa phong
kiến Gá ch đây trên một thế ki được để cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật
khơng dễ hiểu chút nào.
dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng
(Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chi là chức Tuần vũ,
hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng đốc trùm lên trên - ba tỉnh này đặt
chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra
cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.
Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái khơng khí, khung cảnh của một thời.
Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để có thể
trơng xa (vọng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đồn,
chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thầy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ
xưởng... Tả việc thi cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng
sau chữ nghĩa ấy là cà một nền văn hóa xưa mà truyện này chi xén ra có một mảnh, đủ
đưa người đọc vào khơng khí của một cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy
quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau hủy diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó cịn
nổi lên dè dặt mà sâu thiết một tấm lịng biết q trọng, tơn kính cái đẹp của đức độ,
tài ba. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người
đọc. Đó là điều đáng chú ý trước tiên.
Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý
nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng người và
ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là hủy diệt; thái độ thứ hai là kính trọng,
mến phục; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng người của một bậc chính
nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.
Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng ? Cái đẹp ấy ở chữ viết của
người tử tù là điểu khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen
cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. cố nhiên tài viết chữ ấy gắn liền
với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ơng quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn
Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn Tây. Ông Huấn Cao ấy bây giờ
rồng bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều
đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm.
Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà văn có
nhắc tới cái tài bẻ khóa vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ bên cạnh tài
văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khóa vượt ngục, dám làm giặc chống vua quan
tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng chê ? Viên quản ngục lễ
phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài
có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định khơng phải chi vì nghe cái tên Huấn Cao
và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con
người ấy: Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng
chẳng cịn biết có ai nữa... Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng
đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia
là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai
không say mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.
Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp. Thái độ thứ
nhất là hủy diệt. Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lơi chỉ
đâu đánh đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn
lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là
sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay quất Thấy
đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào thềm đá cho rệp rơi
bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu độc miệng: Các người chả phải tập
quản ngục thì chữ nghĩa thánh hiền có lẽ khơng nhiều, nhưng trình độ học vấn thể
hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, khơng học thì như rơm như cỏ.
Q hơn cả là con mắt biết nhìn Cái Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp như là một
thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách trên mức bình
thường. Biết quý trọng Cái Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách, biết trân trọng hồi bão
của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý! Yêu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp,
kính phục Cái Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn,
thơm ngát. Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại,
trước hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cứ
tỉnh đều khen chắc là sự thật. Cịn phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ
quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa
khí, tài giỏi, nay bị giết đi thì thấy tiêng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều
đình, những kẻ coi ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa
thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng. Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà
ngục cũng có điều tơ đậm thêm tính cách Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh
cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ:
người thơ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì
bảo ơng Huấn là khoảnh (tính ơng vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ơng ít chịu cho chữ).
Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ơng tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ
xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Tại sao
thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì
phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa. Có tài có đức,
khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm
giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết.
Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao
nhiêu ?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một cách đánh giá cái tài mà cũng là
Cái Đẹp ở đời. Cịn khoảnh là thế nào? Khoảnh về cái gì? Khoảnh với ai? Chữ ông
Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. ông tiếc công hay ông thiên
vị ? Không phải! Mà ông nghỉ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và
quý trọng. Bạn tri ki là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của
con người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình cho
bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trọng bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên đời, khơng
Cịn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch
ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của Huấn Cao
nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chi biết cúi đầu, chết cũng phải chịu,
huống gì giữ phẩm giá làm người. Lũ tay sai ở thời đó chẳng khác những cái gơng,
chỉ biết gơng người chứ biết gì phải trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao
như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn
hắn ra mặt.
Suy xét mọi lẽ, ơng thấy hóa ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt hải đem
nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin khẩn cấp là sáng
hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao
mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trị ơng quản và nhận ra
viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy
thơ lại chuẩn bị chu đáo để ơng có cơ hội đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục
ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem
lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết
chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì
quý thực. Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao
giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức tranh đường cho ba người bạn
thân của ta thôi.
Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. ông tự giữ giá chữ đẹp của mình đến mức ấy,
Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước sau có
khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử. Đối với thầy trị viên quản
ngục, ơng Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau
thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối với cái
chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời mà lũ thống trị
thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc
đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lịng ngời sáng.
<b>3. Phân tích nhân vật Huấn Cao</b>
Nguyễn Tuân là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ơng có những sáng
tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần
như “Chiếc ấm đất”, “Chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân
dung tài hoa trong thiên hạ, đó là nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử
tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm
hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều
Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách
sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một Nho sĩ
đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu, tấm lòng trong sáng của
một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết
thư pháp. Chữ viết khơng chỉ là kí hiệu ngơn ngữ mà cịn thể hiện tính cách con
người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục
và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và
trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vng lắm”, nét chữ cịn thể
hiện khí phách hiên ngang, tung hồnh bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi
viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; khơng nề hà
tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao - coi nó “một vật báu ở trên đời”.
Chữ là “vật báu trên đời” thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học
đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lịng trung qn một cách mù qng. Nhưng ơng đã
khơng trung qn mà cịn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch” và
phải chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lịng nhân ái bao la; ông thương cho
nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo
thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người
dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ơng sẽ
được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác:
con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không
thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử
chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao có tài
“bẻ khóa, vượt ngục” - điều đó chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả
là một con người hiến có trên đời.
đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính
áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu
sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Người anh hùng ấy dù
cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục!
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong
hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn
Cao cần gì thì ơng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng
như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng cịn
chẳng sợ …”. Ơng khơng thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm.
Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ơng biết đặt vị trí của mình
lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội - “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
Huấn Cao cịn là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. Theo ơng, chỉ có “thiên
lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi
lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta
cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản
đây mà lại có sở thích cao q đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng
trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ơng vốn khoảnh.
Ta khơng vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”. Hành động cho chữ viên
quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết
nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù
“cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch
trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét
chữ. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương
cảm của người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã
vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những
người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ơng Huấn đã khuyên viên quản ngục
như một người cha khuyên bảo con: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay
chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ
vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hồi bão tung hồnh của một đời người… Ở đây,
khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương
thiện đi”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ
thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những
nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh
hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã
thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn
<b>4. Phân tích nhân vật viên quản ngục</b>
“Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Tuân. Mang trong mình niềm đam mê cái đẹp, các sáng tác của ông luôn
tập trung khám phá, khai thác con người ở khía cạnh tài hoa, nghệ sĩ. Viên quản ngục
trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một nhân vật điển hình cho bút pháp sáng tạo
và tư duy nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“Chữ người tử tù” kể về một người tử tù có tài viết chữ đẹp tên Huấn Cao. Khi bị đưa
vào tù, người quản ngục thay vì đối xử với người tù tàn bạo, độc ác thì lại vơ cùng
trân trọng, ngưỡng mộ Huấn Cao vì cái tài, khao khát được Huấn Cao viết cho dòng
thư pháp. Trước ngày Huấn Cao bị hành hình, trong nhà ngục tối tăm, ẩm thấp cảnh
cho chữ được diễn ra đầy xúc động. Hình tượng viên quản ngục được tác giả xây
dựng với những đặc điểm nổi bật, một tâm hồn thánh thiện, khát khao và trân quý cái
đẹp.
Viên quản ngục được giới thiệu theo cách trực tiếp trong cuộc đối thoại với thơ lại.
Nguyễn Tuân miêu tả viên quản ngục với một vài nét đặc trưng về ngoại hình: "băn
khoăn ngồi bóp thái dương", "đều đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu", "bộ mặt tư lự",
bộc lộ hình ảnh của một con người từng trải, giàu trải nghiệm. Những nét miêu tả ấy
không chỉ mang đến cho người đọc những hình dung về diện mạo, tuổi tác, phong thái
của viên quản ngục mà cịn góp phần khắc sâu thế giới nội tâm nhân vật. Bên trong
con người có vẻ đăm chiêu kia dường như đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự
day dứt. Hình ảnh con người điềm tĩnh, kín đáo, có phần khắc khổ, hồn tồn khác
với vẻ ngoài hống hách, tàn ác của viên quan coi ngục thông thường. Người đọc bỗng
đặt ra câu hỏi rằng, tại sao một con người có gương mặt suy tư như thế lại làm một cái
nghề đi ngược với thiên lương của mình như vậy?
Nhân vật làm nghề coi ngục, đại diện cho giai cấp thống trị, biểu tượng của cái ác, của
sự hà khắc trong giai cấp phong kiến nhưng lại có tình u cháy bỏng cho cái đẹp.
Dưới góc độ nghề nghiệp, vị thế của quản ngục khác hoàn toàn so với Huấn Cao.
Nhưng nhà văn đã chú trọng miêu tả cái tâm, một nhân cách đẹp đẽ tỏa sáng nơi ngục
tù tăm tối. Điều này thể hiện qua thái độ tiếp nhận tù nhân và sự biệt đãi đối với Huấn
Cao như "bảo ngục tốt quét dọn lại buồng giam tươm tất, sạch sẽ", những ngày Huấn
Cao ở tù cũng ngày ngày dâng rượu thịt với thái độ cung kính. Đây quả là một sự đối
đãi quá sức đặc biệt đối với một tù nhân. Mặc dù lúc đầu bị Huấn Cao khinh bỉ đuổi
đi, nhưng người quản ngục vẫn đều đặn tỏ lịng kính trọng, vẫn dâng rượu thịt, thậm
chí cịn hậu hĩnh hơn trước.
Nguyễn Tuân cũng từng có những liên tưởng rất thú vị về nhân vật này, một :nốt nhạc
đẹp, một nốt sáng vút cao giữa bản đàn hỗn loạn, xô bồ".
Viên quản ngục cịn là một người có nhân cách đẹp, biểu tượng của cái đẹp đặt trên
cái trần tục tầm thường. Nguyễn Tuân từng khẳng định: "Ông trời nhiều khi chơi ác,
đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã". Phải chăng, giữa đống
cặn bã của ngục tù, hình ảnh viên quản ngục chính là viên ngọc trong trẻo, sáng rỡ.
Vẻ đẹp nhân cách được thể hiện ở việc nhân vật này luôn lấy cái tài hoa, khí phách và
nhân cách để làm thước đo giá trị con người. Đối với thầy thơ lại, viên quản ngục
nghĩ rằng "hắn cũng như mình, cũng chọn nhầm nghề mất rồi". Một kẻ kính mến khí
phách, con mắt nhìn người sâu sắc, lấy tiêu chí từ vẻ đẹp tài hoa chứ không xuất phát
từ xuất thân hay vẻ ngồi. Vẻ đẹp tâm hồn cịn được thể hiện qua khát vọng xin chữ,
"sở nguyện" của cả đời người.
Đó là hoài bão, khát vọng làm sao để xin được chữ của Huấn Cao. Trong lòng viên
quản ngục chỉ băn khoăn rằng mai mốt đây, ơng Huấn bị hành hình mà khơng kịp xin
được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất. Chơi chữ là một nghệ thuật, người chơi chữ
phải là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt thẩm mĩ vượt lên trên cái tầm thường.
<b>5. Cảm nhận về nhân vật Huấn Cao</b>
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông viết
rất nhiều thể loại nhưng tiêu biểu hơn cả đó chính là tùy bút, truyện ngắn và một trong
những tác phẩm nhận được nhiều sự chú ý nhất của ông đó chính là tác phẩm Chữ
người tử tù. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật Huấn
Cao.
Chữ người tử tù được rút trong tập Vang bóng một thời. Nhân vật chính trong tác
phẩm chính là Huấn Cao, một con người hết sức có trách nhiệm trước thời cuộc. Huấn
Cao là một người văn võ song toàn, thiên lương trong sáng. Là hiện thân tiêu biểu cho
hình tượng khí phách cùng với tài hoa hơn người.
Thế rồi Nguyễn Tuân đã cho Huấn Cao xuất hiện một cách trực tiếp với những hành
động thể hiện sự khí phách của mình đó là: “vỗ cái gơng nặng bảy tám tạ xuống thềm
đá”, “đánh thuỳnh một cái”. Thái độ coi thường, không thèm chấp sự dọa nạt của lính
áp giải. Mặc dù là người tử tù nhưng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt mà viên quản ngục
đưa tới, thậm chí ơng cịn coi đó là một cái hứng bình sinh vẫn thường làm. Đồng thời
cũng cho thấy ơng là một người có lịng tự trọng, khơng ham danh lợi và sống đúng
với lương tâm, với cá tính của mình. Huấn Cao cịn thẳng thắn đáp trả khi biết viên
Huấn Cao còn hiên ngang bất khuất ở chỗ ông coi khinh tất cả những kẻ đại diện cho
giai cấp thống trị, những kẻ lợi dụng quyền thế mà áp bức, bóc lột dân lành. Huấn
Cao chỉ coi những tên đó là một đám “tiểu dân thị oai”. Nguyễn Tuân đã cho ta thấy
một Huấn Cao thản nhiên đối mặt với tất cả mọi thứ, một con người có thể tự do ngay
chính nơi tù ngục giam cầm. Có thể nói kẻ thù, giai cấp thống trị có thể giam cầm ơng
về thể xác chứ khơng thể giam hãm tâm hồn của ơng. Huấn Cao có lần cịn trả lời
thẳng thắn trước sự cung kính của viên quản ngục khi đưa rượu thịt cho ông rằng:
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng đặt chân vào
đây”.
Ở Huấn Cao ta còn thấy ở ông là một người hết sức tự trọng. Khơng vì tiền bạc, lợi
ích mà sống trái với lương tâm của mình, sống luồn cúi trước ách thống trị của kẻ thù.
Cá tính của ơng cịn được thể hiện qua lời miêu tả “Tính ơng vốn khoảnh, trừ chỗ tri
kỉ, ơng ít chịu cho chữ”. Đây cũng chính là lý do vì sao ban đầu ơng khơng chịu cho
viên quản ngục chữ. Huấn Cao quan niệm rằng chỉ có thiên lương trong sáng, tấm
lòng biệt nhỡn nhân tài, yêu thích cái đẹp thì mới đáng q, đáng trân trọng. Đây cũng
là điều mà khi Huấn Cao biết được tấm lịng “biệt nhỡn nhân tài” của viên quản ngục
thì ơng mới thấu hiểu được tấm lòng yêu cái đẹp của quản ngục và quyết định cho
viên quản ngục chữ là tạo nên một cảnh kinh điển cho tác phẩm đó chính là cảnh cho
chữ.