Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.31 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTT KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

BÀI THẢO LUẬN SỐ 2 HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học
Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.

NHÓM: 06
LỚP HỌC PHẦN: 2012HCMI0111
GV HƯỚNG DẪN: THS. NGÔ THỊ MINH NGUYỆT

Hà Nội, tháng 04 năm 2020
1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………9
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………………...11
I.

tưởng
Hồ
Chí
Minh
về
đạo

đức…………………………………………………….11
1. Cơ


sở
hình
thành

tưởng
Hồ
Chí
1.1.
1.2.

đức…………………………………….11


Minh

về

sở



luận………………………………………………………………………….11

sở

tiễn……………………………………………………………………….16
2. Quan
điểm
về
đạo

đức
của
Hồ
2.1.

đạo

Minh………………………………………………...18
Vai
trị,
vị
trí

của

thực
Chí
đạo

2.2.

đức…………………………………………………………….18
Chuẩn
mực

đạo

2.3.

đức………………………………………………………………….20

Ngun
tắc
xây
dựng

đạo

II.

đức………………………………………………..............24
Sinh viên Đại học Thương Mại với nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ

Chí

Minh

trong

giai

đoạn

hiện

nay…………………………………………………….26
1. Thực trạng đạo đức sinh viên Đại học Thương Mại hiện nay……………………………

26
2. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên Đại học

Thương Mại…………………………………………………………………..................30
C. KẾT
LUẬN…………………………………………………………………...................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………
39

2


A.

MỞ ĐẦU
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng, và vấn đề

đạo đức cách mạng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
(Hồ Chí Minh, toàn tập, t.12, nxb CTQG, tr.498). Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực
hiện một cách hồn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng, Người
vừa là nhà lý luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần gũi và
độc đáo nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó khơng vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của lồi người” (Hồ Chí Minh, tồn tập, t.5, nxb CTQG, tr.252-253).
Và theo cách diễn đạt bình dị của Người: “Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa” (Hồ
Chí Minh, tồn tập, t.5, nxb CTQG, tr.252-253). Ngay trong những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Đảng ta tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước, Người
đã khái quát và cảnh báo: Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người u mến và

ca ngợi, nếu lịng dạ khơng còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Người cũng
thường xuyên nhấn mạnh: “Đảng phải là đạo đức, là văn minh” (Trích trong bài nói của Bác
về Đảng ta tại lễ kỉ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, năm 1960) cán bộ, đảng viên có đạo
đức cách mạng phải vừa hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự trung
với nước, và hiếu với dân.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh
thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, cơng chức đối với Bác kính u - một
con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành
một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hố thế giới. Sau quá trình tìm hiểu và học tập mơn “Tư tưởng Hồ Chí Minh” dưới sự chỉ
3


dẫn tận tình và gợi ý của cơ Ngơ Thị Minh Nguyệt và với mong muốn tìm tịi học hỏi thêm,
nhóm 6 chúng em quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Thương
Mại trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài báo cáo thảo luận của nhóm.
Với mảng đề tài này, chúng em đã nghiên cứu các tài liệu như giáo trình bộ mơn, các
tài liệu trên mạng internet, các bài giảng của giảng viên trong quá trình học tập, khảo sát,
tìm hiểu thực tế từ các bạn sinh viên trường Đại học Thương Mại… Tuy nhiên, với khả
năng, kiến thức cịn hạn chế, Nhóm 6 khơng tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Chúng
em mong muốn nhận được sự góp ý, đánh giá chân thành, khách quan của cô và các bạn để
bài báo cáo được hồn thiện hơn!
Bài làm của nhóm có kết cấu gồm 2 phần lớn:
Phần thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Phần thứ hai: Sinh viên Đại học Thương Mại với nội dung học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

4



B.

NỘI DUNG
Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh- cái tên thân

thương mà mỗi khi nhắc đến thì con tim của mỗi người dân đất Việt chúng ta lại thổn thức.
Tư tưởng đạo đức của Người chính là ánh dương soi đường cho Đảng và nhân dân Việt
Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Đạo đức là gì? Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao
gồm những nguyên lí, quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi con người trong quan hệ với
người và với cộng đồng. Đạo đức không phải là một phạm trù trừu tượng do thượng đế sinh
ra, mà là một phạm trù lịch sử. Đạo đức ra đời và phát triển do nhu cầu của xã hội nhằm duy
trì phát triển quan hệ xã hội đã được thiết lập. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giúp
nâng cao lịng tự hào về Người, về Đảng Cộng Sản, về Tổ quốc Việt Nam, tự nguyện “Sống,
chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Hồ Chí Minh khơng đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử dụng, thuật ngữ
đạo đức được dùng với 3 nghĩa: Rộng, hẹp, và rất hẹp.
-

Nghĩa rộng: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các quan hệ xã

-

hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.
Nghĩa hẹp: Đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong


-

quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống.
Nghĩa rất hẹp: Đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện
quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương
tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hồn cảnh đặc thù khơng lặp lại.

Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ cơ bản của
mỗi con người (với mình, với người và với việc).
I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
I.1.
Cơ sở lí luận
I.1.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

5


Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống
hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề xuất phát hình thành tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống u nước kiên cường bất khuất, tinh thần
tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vươn lên vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, là chí thông minh, tài sáng tạo trọng hiền tài, khiêm tôn tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc là những giá trị đặc sắc của dân
tộc Việt Nam. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng, tình cảm cao quý, thiêng liêng
nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lịng dũng cảm của con người Việt Nam, là chuẩn
mực đạo đức cơ bản của dân tộc.
Lòng yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn
mực cao nhất, là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Chủ

nghĩa yêu nước Việt Nam biểu hiện: mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, cả dân tộc nhất tề đứng
lên đánh giặc cứu nước. Người Việt Nam luôn căm thù đế quốc thực dân cao độ, sẵn sàng xả
thân cứu nước. Yêu nước Việt Nam trở thành triết lý nhân sinh của người Việt: sẵn sàng hy
sinh tính mạng mình để giữ n bờ cõi non sơng. Khi có kẻ xâm lược thì bất kể là ai, “giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh”, mọi người dân đều có thể trở thành những người lính đuổi
giặc...
“Nước mất nhà tan.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có chí, có anh hùng”.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, được nghe nhiều câu chuyện đánh giặc
giữ nước, chứng kiến cảnh áp bức bóc lột của đế quốc, tay sai đối với nhân dân, chứng kiến
phong trào yêu nước của dân tộc. Vì vậy từ rất sớm Hồ Chí Minh có được tinh thần yêu
nước, thương dân, điều đó đã tạo cho Hồ Chí Minh ngay từ nhỏ sớm có hồi bão lớn lao, có
động cơ to lớn, thơi thúc ra đi tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực
lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí hành động của mỗi con người.
Từ đó, Người đã đúc kết chân lý: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
6


khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chính sức mạnh truyền thống đó
đã thúc giục người thanh niên giàu nhiệt huyết đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Là
động lực chi phối mọi hành động, suy nghĩ của Người trong cuộc đời hoạt động cách mạng.
Từ yêu nước, Người hy sinh tất cả những riêng tư bản thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng. Từ yêu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa u nước, chứ khơng phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo quốc tế III”. Từ yêu nước, Người đã tìm ra con đường đi đúng đắn cho
dân tộc. Và yêu nước được thể hiện ngay trong cái tên khi Người ra đi tìm đường cứu nước:
Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt Hồ Chí Minh biết khơi dậy tinh thần yêu nước cho cả dân tộc

Việt Nam đứng lên tự giải phóng mình.
Lịng yêu nước nồng nàn, cùng với ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần đồn kết,
lịng u thương con người chính là tài sản quý giá trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, là cơ sở xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người,
là động lực giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Và những tinh hoa văn
hóa truyền thống dân tộc này chính là nguồn gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
I.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
• Văn hố phương Đơng
- Với những hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ Chí Minh đã biết chắt lọc lấy những gì

tinh túy nhất trong các học thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử,
-

Quản Tử, …
Nho giáo: Sinh ra trong một gia đình nhà Nho u nước, có truyền thống hiếu học, từ
thưở nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán, được giáo dục theo đúng tinh
thần Nho giáo. Những bài học đầu đời đã trở thành nền tảng nhận thức, giúp Người sau
này tiếp thu có chọn lọc, hấp thụ các tinh hoa tư tưởng của nhân loại để tạo nên giá trị
riêng biệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó lý giải vì sao, đạo đức giữ vị trí quan
trọng đến như vậy trong tư tưởng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một
tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di
sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Người đã
7


tiếp thu ngững mặt tích cực của Nho giáo, đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hịa mục, hịa đồng, là

triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học. Đồng thời, Người cũng phê phán những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư
tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, nói chung là khinh thường thực nghiệp, danh
-

lợi của đạo Nho.
Phật giáo: Đạo đức Phật giáo nổi bật với tư tưởng về hành thiện, từ bi, đem tình yêu
thương đến với mọi người, tu tâm, và xây dựng xã hội bền vững, đã định hướng cho lý
tưởng sống con người. Người đã tiếp thu và ảnh hưởng một cách sâu sắc những vấn đề
của phật giáo. Đó là lịng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân… là nếp sống có đạo dức trong sạch, giản dị chăm lo làm việc thiện, là tinh
thần bình đẳng dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp, là việc đề cao lao động, chống lười
biếng... Để từ đó hướng con người tới vẻ đẹp Chân- Thiện- Mỹ. Ngồi ra Người cịn tiếp
tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn, vì thấy trong đó “những điều thích
hợp với điều kiện của nước ta” đó là “dân tộc được độc lập, dân quyền được tự do, dân

sinh được hạnh phúc”.
• Văn hóa Phương Tây
- Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng qua các tác phẩm của
-

các nhà khai sáng như Voltaire, Rousso, Montésquieu…
Kinh Thánh Phương Tây đã đưa ra quan niệm về mối liên quan trực tiếp giữa cuộc sống
hiện tại với cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau, từ đó hướng con người đến sự tuân thủ lề
luật và lời răn dạy của Thiên Chúa khi sống ở trần gian. Với quan niệm này, dù là duy
tâm, nhưng cũng đã góp phần tạo ra giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Những chuẩn mực đạo
đức thể hiện trong Kinh Thánh là các quy tắc ứng xử của cá nhân trong các mối quan hệ
xã hội, mà trong đó các tín đồ Kitơ giáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình. Chính điều
đó trên thực tế tín đồ Kitô giáo tham gia vào hoạt động xã hội do hành vi đạo đức cá
nhân mang lại. Trong phạm vi một gia đình, cùng với các giới răn khác, giới răn thảo

kính cha mẹ, chung thủy vợ chồng đã góp phần tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành
viên; và một khi gia đình hạnh phúc, yên ổn thì cũng góp phần cho xã hội tiến bộ về mặt
đạo đức. Hơn 30 năm bơn ba ở nước ngồi, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng ít nhiều
ảnh hưởng bởi tư tưởng của người phương Tây, và Người đã học hỏi, tiếp thu chọn lọc
được rất nhiều kinh nghiệm quý báu và cả những đặc sắc của văn hóa Phương Tây. Đó
8


chính là những niềm vui sướng và hạnh phúc của Người vì Người đã được sống và trải
-

nghiệm mơt cách tinh tế trong cuộc đời mình.
Ngồi ra Người cịn tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1976.
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng với các thành tựu hiện đại

của văn minh phương Tây- đó chính là nét đặc sắc trong q trình hình thành tư tưởng đạo
đức, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác-Lênin

I.1.3.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh - Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở Người
khi vận dụng những lý luận cách mạng của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
Chúng ta đều biết, khi phê phán quan điểm về chân lý vĩnh cửu trong nhận thức đạo
đức của Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, ở châu Âu khi đó, trong các nước tư bản phát
triển, đang có sự tồn tại song song của ba học thuyết đạo đức - đó là “đạo đức phong kiến

Cơ Đốc giáo”, “đạo đức tư sản cận đại” và “đạo đức vô sản của tương lai”. Trong số đó,
“khơng có đạo đức nào là chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng; nhưng tất
nhiên, thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích tương
lai, tức là đạo đức vơ sản, - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa
hẹn một sự tồn tại lâu dài”. Đây là đạo đức mà sau này, các mơn đồ hậu duệ của C. Mác,
trong đó có Lênin, gọi là đạo đức cộng sản, đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa, đạo đức
cách mạng.
Coi đạo đức cộng sản như là yếu tố hợp thành văn hoá tinh thần của giai cấp công
nhân, Lênin đã khẳng định văn hố và đạo đức này khơng phải là cái gì đó nảy sinh từ hư
vơ, chúng có nguồn gốc khách quan và chủ quan xác định. Lênin là người đầu tiên lĩnh sứ
mệnh lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản và đạo đức cộng sản. Từ lập trường
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ông đã khẳng định rằng: Đạo đức cộng sản “là những gì góp
phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” và “cơ sở của đạo đức cộng sản là
9


cuộc đấu tranh để củng cố và hồn thành cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Như
vậy, tính chất và nội dung của đạo đức mới - đạo đức cộng sản, được quy định bởi yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng
sản làm cho phạm vi thể hiện hiện thực của nền đạo đức mới này trở nên phổ biến hơn bao
giờ hết. Nó được thể hiện trong toàn bộ hoạt động tinh thần - thực tiễn của con người và trở
thành một thành tố, một phương diện (phương diện đạo đức) của hoạt động đó.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo đức nói riêng
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà lý luận lỗi lạc, thành tấm
gương đạo đức sáng ngời soi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội của nhân dân ta. Ngay từ khi mới bước vào con đường cách mạng, Hồ Chí Minh đã
ý thức rất rõ ràng và sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng.
Theo Người, đạo đức mới - đạo đức cộng sản, khơng những khác mà cịn đối lập với đạo
đức của các giai cấp bóc lột. Đạo đức mới này được nảy sinh và củng cố trên cơ sở của chế

độ cơng hữu về tư liệu sản xuất. Nó được hình thành và phát triển cùng với quá trình vận
động, phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời, nó kế thừa và phát triển
những tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc ta và của nhân loại. Người đã định nghĩa
đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với nhân dân”, “ra sức phấn đấu thực hiện
mục tiêu của Đảng”, “quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch”, “đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết” và ln hồ mình với quần chúng. Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở
thành người Cộng sản. Để từ đó cùng với hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đề ra và
giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của
dân tộc Việt Nam.
I.2.
I.2.1.

Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập với

nền nơng nghiệp lạc hậu, trì trệ. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau một thời
gian kháng cự yếu ớt đến năm 1884 triều đình nhà Nguyễn đã kí với Pháp điều ước Patơnốt
thừa nhận quyền thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, do chính sách cai trị độc ác của chủ nghĩa thực
dân, đã để lại hậu quả hết sức nặng nề. Quần chúng nhân dân lao động họ không những bị
10


áp bức, bóc lột nặng nề về thể xác, mà cịn bị nơ dịch về tinh thần. Đặc biệt, trên lĩnh vực
văn hoá, đạo đức, sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến và sự áp đặt “lối sống tư
sản”, cơ hội, thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao chủ nghĩa cá nhân của chủ nghĩa thực
dân là nguy cơ đe doạ đến những giá trị đạo đức truyền thông tốt đẹp của dân tộc và là một
trở ngại to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nhận thức rõ được điều đó, Hồ
Chí Minh cho rằng, đối với cách mạng nước ta, muốn giải phóng triệt để cho người lao động

phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư tưởng, văn hố, đạo đức lối sống, thói quen lạc
hậu có gốc rễ từ hàng ngàn năm nay.
Mặt khác, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, chính quyền đã thuộc về nhân
dân, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra những hiện tượng sai lệch của một bộ phận cán bộ, đảng
viên như quan liêu, hách dịch, cậy chức, cậy quyền tham ơ, hủ hố... Những tệ nạn đó, nếu
khơng sớm được phát hiện, ngăn chặn dễ trở thành nguy cơ làm tổn hại đến thanh danh của
Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Địi hỏi khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình tổ
chức, xây dựng chế độ xã hội mới, nhằm biến nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở
thành một nước giàu mạnh, văn minh, thì việc xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách
mạng cho nhân dân ta nói chung và cán bộ, đảng viên nói riêng càng trở nên cấp thiết. Thực
tế đó đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và trở thành cơ sở quan trọng, hình thành nên
tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng.
I.2.2.

Bối cảnh thời đại (Thế giới)
Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, Người đã nhận thấy chủ

nghĩa đế quốc một mặt thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, mặt
khác chúng thực hiện chính sách đầu độc về văn hố, tuyên truyền cho lối sống thực dụng,
đề cao chủ nghĩa cá nhân, áp đặt các giá trị đạo đức, luân lý tư sản vào các nước thuộc địa.
Do đó, cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ nhằm mục tiêu độc lập dân tộc,
mà còn để bảo vệ những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Đặc biệt, từ khi Chủ nghĩa Mác - Lênin được xâm nhập vào các nước thuộc địa đã làm
cho cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc càng gắn bó mật thiết với nhau hơn, quyền tự
quyết của các dân tộc được coi trọng và đề cao. Đó là những điều kiện thuận lợi lớn cho
11


việc xây dựng tình đồn kết quốc tế trong sáng trên lập trường “hữu ái vô sản” giữa giai cấp

vô sản, nhân dân lao động ở các nước chính quốc với các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc. Trong cuộc đấu tranh đó, các quan
điểm về cái gọi “khai hoá văn minh” của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa lần lượt
bị vạch mặt, lên án; mục tiêu, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đạo đức cộng sản không
ngừng được củng cố, mở rộng trên phạm vi thế giới. Mặt khác, sau thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga (1917) và cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc cải tạo,
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương đất nước của Lênin, nhất là trên lĩnh vực phát
triển kinh tế, văn hoá, xây dựng đạo đức, lối sống mới đã tác động mạnh mẽ và chiếm được
cảm tình của đơng đảo quần chúng nhân dân lao động trên thế giới. Thực tế đó đã được Hồ
Chí Minh nhận thức, tiếp thu một cách đúng đắn và trở thành một động lực quan trọng để
hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng.
Tuy nhiên, sự hình thành tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng bên cạnh những
điều kiện khách quan cần thiết, còn do những phẩm chất thuộc nhân cách của Hồ Chí
Minh. Với tư chất thơng minh, tư duy độc lập sáng tạo và luôn gần gũi gắn bó sâu sắc với
con người, trước hết là người lao động, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức của nhân loại, kết hợp chặt chẽ
giữa truyền thống với hiện đại, là những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trực tiếp tác động
đến việc hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng. Chính vì vậy mà tư
tưởng đạo đức của Người khơng chỉ có sức hấp dẫn, thuyết phục to lớn đối với các thế hệ
người Việt Nam, mà còn cả đối với nhân dân lao động, u chuộng hồ bình và tiến bộ trên
thế giới.
2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
2.1.
Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
2.1.1. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách
mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan
hệ: với mình, với người và với cơng việc.


12


Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,
như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn
mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh
đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử
thách. Người viết: “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại khơng rụt rè,
lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm
tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không
kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa”.
Với u cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ
gìn cho đúng, đó là:




Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh

giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.

 Vô luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
 Hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch,
Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng
sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng phải là đạo đức
thuyết giáo, là đạo đức nói sng mà là đạo đức phải được gắn liền với thực tế của cuộc
13


sống, đó là thước đo của đạo đức của cán bộ, đảng viên. Với Người “Đức” và “Tài” phải đi
đôi với nhau cũng như “hồng” và “chuyên”. Người nói “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp
sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất, mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên
quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình thức, lối làm việc khơng nhằm mục đích
nâng cao sản xuất”.
2.1.2. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội

Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở
mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được giải phóng tự do, mà trước hết là ở những giá trị
cao đẹp, ở phẩm chất của người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của
mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Sự hấp dẫn đó được thể hiện qua đạo đức, lý tưởng cách mạng, nhân cách, lối sống
gương mẫu của người cán bộ đảng viên. Chính tấm gương đạo đức, lối sống cao đẹp của
từng cán bộ, đảng viên đã tạo nên nét riêng biệt, đực thù của chế độ mới mà ở các chế độ
khác khơng hề có, nhân dân không thấy được ở những con người của chế độ cũ. Chính tấm
gương đạo đức cách mạng, nhân cách, lý tưởng cao đẹp, lối sống giản dị, gần gũi với nhân
dân lao động đã tạo nên sức hấp dẫn của chế độ chủ nghĩa xã hội được nhân dân ta và nhân
dân thế giới tin theo, ca ngợi, là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn thể dân tộc Việt Nam và

nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
2.2.
Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân
dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất,
bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam
và phương Đông: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với
vua, con đối với cha mẹ. Từ xưa, lễ nghĩa của người Việt đã là “trung hiếu làm đầu”. Phải
tuyệt đối trung thành, một lòng một dạ với vua, trung với vua là u nước; phải hiếu kính
với cha mẹ, có tấm lịng biết ơn, tri ân và báo đáp đối với cha mẹ, lấy tín ngưỡng thờ cúng
14


ông bà, tổ tiên như “đạo làm người”. Đây đều là những đạo nghĩa tốt đẹp, xong nội dung
này còn khá hạn hẹp. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới đạo đức
cách mạng: “Trung với nước, hiếu với dân”, đồng thời người đã loại bỏ đi những yếu tố hạn
chế của đạo đức cũ, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Người nói:
“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
-

Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển
đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”, là suốt đời

-


phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng.
Hiếu với dân là thương dân, tin dân, phục vụ dân hết lòng
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ

quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Hồ Chí Minh cho rằng, “trung với nước” phải gắn liền với “hiếu
với dân”. Vì nước là của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước, bao nhiêu quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của nhân dân chứ
không phải quan cách mạng.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư

Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là “đại
cương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra
cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ thực hiên mà lại bắt nhân dân tuân theo để
phụng sự cho chúng. Ngày nay, ta cần đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ làm theo làm
gương cho dân theo là để đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy nhiên ơng
cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên, khi vận dụng
những khái niệm này của đạo đức cũ Hồ Chí Minh lại cho rằng cần, kiệm, liêm, chính
khơng phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khằng định:
đạo đức cách mạng không phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên.

15


Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có
bốn mùa, đất có bốn phương. Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” (6/ 1949) Bác có
viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa thì khơng thành trời.
Thiếu một phương thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
-

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao

-

động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất

-

nước.
Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm một đồng xu,

-

hạt thóc của nhà nước, của nhân dân, đất nước, của bản thân mình.
Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, khơng tự cao, tự đại, ln chịu
khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở, Đối
với người, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc cơng lên trên
việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc

-

tốt cho dân cho nước.

Chí cơng vơ tư là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng
lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của mình. Phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng;
việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân để lại sau. Theo Bác, chí cơng vơ tư là đạo đức
cao nhất. Muốn chí cơng vơ tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ chủ
nghĩa cá nhân. Bởi vậy, Hồ Chí Minh coi đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người
“giữ cán cân cơng lý”, khơng được vì lịng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng vơ tư. Cần, kiệm,

liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư, một lịng vì nước, vì
dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
16


2.2.3. u thương con người, sống có tình nghĩa

Tình u thương con người từ lâu đã là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương
thân”, … Phẩm chất nhân nghĩa ấy đã được ông cha ta đúc kết lại trong ca dao, tục ngữ để
lại cho con cháu ngàn đời sau. Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền
thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân
loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương
con người là một trong nhữg phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
-

Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh trước hết là dành cho đại đa số nhân dân
lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Sau đó là tình u thương đồng chí, đồng
đội, anh em. Tình u thương con người đối với đồng bào mình. Trong câu trả lời với
các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946, sau thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
của nước Việt Nam độc lập, Bác có nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng

bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Một câu nói giản dị nhưng lại

-

chứa đọng tình u thương vơ bờ bến của người dành cho dân tộc.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Tình yêu thương con người phải được
xây dựng trên lập trường của giai cấp cơng nhân. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc;
với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người
lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người là giúp cho mỗi
người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình,
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.

-

Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa”. Trong

di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí u thương lẫn nhau”.
2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi tồn nhân loại, vì Người là
“người Việt Nam nhất”, đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam mang tầm vóc nhân
loại, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
17


Quan niệm đạo đức về tình đồn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện
trong các điểm sau:
-


Đồn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con

-

người khỏi ách áp bức, bóc lột.
Đồn kết quốc tế giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn

phương vơ sản đều là anh em”. Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
2.3.
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
2.3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln ln nêu gương sáng về
đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà khơng nói, phải
đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu xa của tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
-

Nói đi đơi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng một nền đạo đức mới. Trong cuốn “Đường Kách Mệnh”, khi nói về tư cách người
cách mệnh Hồ Chí Minh viết: “Nói thì phải làm”, “Có lịng bày vẽ cho người” hay trong
tác phẩm nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu
cầu Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Bác Hồ kính u là
tấm gương nói đi đơi với làm. Cho nên, ở Người có sức thuyết phục lớn, có một sức hút
mãnh liệt làm cho cả dân tộc, các giai tầng xã hội, các thế hệ người Việt Nam đều tin
tưởng, kính phục, yêu quý và đi theo lời kêu gọi của Người. Các vị lãnh tụ cộng sản và

-

nhân dân u chuộng hồ bình trên thế giới cũng kính u Người.

Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp truyền thống của văn hóa phương Đơng. Đối với
cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: “… Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên
trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư
cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt
trước”.

Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo
đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đạo làm gương. Người nói: “Lấy
gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất
để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng cuộc sống mới, con người

18


mới”. Và để làm được điều đó thì phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt,
việc tốt gần gũi trong cuộc sống đời thường, trong lao động sản xuất, chiến đấu, học tập…
2.3.2. Xây đi đôi với chống

Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức
luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải chống
cái phi đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí
Minh căn dặn tồn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và kỷ luật”.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết
phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu của
đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Xây
dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường,
tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa sát hợp với từng
tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm
chất đạo đức cơ bản đổi với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo

dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi
người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu
phải phát hiện sớm phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn. Để xây và chống cần phát huy vai trò
của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái
xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “3 xây. 3 chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để
tuyên truyền, giáo dục về đạo đức lối sống. hải tu dưỡng đạo đức suốt đời”. Người dạy:
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ
khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
2.3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

Bác đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do q trình đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong".

19


Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào
lương tâm của mỗi người và sự đóng góp xây dựng của tập thể của quần chúng. Người
khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có
ác ở trong mình. Nhưng tốt, xấu, hiền, dữ, thiện, ác đều lệ thuộc vào sự giáo dục và rèn
luyện mà nên. Cho nên, vấn đề là chúng ta phải biết và dám dũng cảm nhìn thẳng vào sự
thật bản thân con người mình và dựa vào tập thể để thấy cái tốt, cái hay để phát huy, cái xấu,
cái ác để khắc phục. Đã là con người thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm. Vấn
đề là phải dũng cảm nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Và, việc tu
dưỡng đạo đức cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải bền bỉ, ở
mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Bác đã viết “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví
như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Cịn cỏ dại khơng cần
chăm sóc cũng mọc lên lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện mới có được. Cịn tư tưởng

cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sơi, nảy nở rất dễ. Vì vậy gột rửa chủ nghĩa cá nhân ví như
rửa mặt thì phải rửa hàng ngày".
Tóm lại, xây dựng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá
nhân là phải được tiến hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt
động cách mạng. Đó là 3 nguyên tắc cơ bản rèn luyện đạo đức của cá nhân để trở thành
người có đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên nếu thực tâm làm theo lời Bác thì sẽ
hồn tồn thực hiện được. Vì những điều Bác dạy, khơng phải chỉ có vĩ nhân hay lãnh tụ
mới thực hiện được, mà mọi người đều thực hiện được vì đó là những điều rất bình dị trong
cuộc sống của mỗi người.
II.

Sinh viên Đại học Thương Mại với nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
1. Thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên Đại học Thương Mại hiện nay
Khi nhắc đến hai chữ “sinh viên” mọi người đều biết đó là tầng lớp tri thức cao của
mỗi quốc gia - là tương lai của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay cùng với xu thế hội nhập
quốc tế, mở rộng giao lưu về văn hóa thì đạo đức của thanh niên, sinh viên cũng chịu nhiều
tác động to lớn. Vì thế ý thức đạo đức của sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên
Thương Mại nói riêng cũng hiện nay cũng có những chuyển biến nhất định. Qua tìm hiểu có

20


thể thấy đạo đức sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay được thể hiện rõ ràng trong
hai mặt tiêu cực cũng như tích cực của thực trạng.
1.1 . Tích cực:

Sinh viên trong trường Đại học Thương Mại ln có ý thức chủ động sáng tạo trong
học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống tích cực, năng động trong các hoạt động tập thể phát

huy tốt tinh thần đoàn kết.

-

Sinh viên cần cù sáng tạo trong học tập
Phần lớn sinh viên trường Đại học Thương Mại có ý thức chủ động, sáng tạo trong việc
học tập và tiếp thu kiến thức cho bản thân. Điều này được sinh viên thể hiện rất rõ ràng
trong việc nghiêm túc học tập trên lớp, phát biểu xây dựng bài hay hăng hái đóng góp ý
kiến cá nhân trong những giờ thảo luận, …Sinh viên phát huy tốt tinh thần tự học tiếp

-

thu them kiến thưc khơng chỉ trên sách vở mà cịn trong cuộc sống.
Tích cực tham gia các lớp học kĩ năng mềm, những cuộc thi học thuật do nhà trường tổ

-

chức (tham gia lớp học, sáng tạo tích cực tham gia làm nghiên cứu khoa học, …)
Sinh viên hưởng ứng tốt phong trào “sinh viên 5 tốt”. Mỗi sinh viên đều cố gắng, nỗ lực
thực hiện tốt ở cả 5 tiêu chí: đạo đức tốt, học tập tốt, thể lực tốt, tình nguyện tơt, và hội
nhập tốt trong q trình học tập rèn luyện của bản thân.
Nhờ có tính cần cù sáng tạo trong học tập, sinh viên trường đại học Thương Mại đã đạt

được rất nhiều thành quả tích cực trong học tập như:
-

Về NCKH: các cơng trình nghiên cứu của sinh viên đã tìm hiểu và giải quyết những vấn
đề cấp bách về kinh tế xã hội, góp phần tạo ra tri thức sản phẩm mới cho xã hội. Điều
này càng được thể hiện rõ hơn khi Hội nghị thông báo kết quả Nghiên cứu khoa học của
sinh viên trường đại học Thương Mại năm học 2018-2019 đã diễn ra thành cơng tốt đẹp

với 269 cơng trình nghiên cứu của sinh viên đã được hồn thành trong đó đã tìm ra: 1
cơng trình đạt giải nhất, 2 giải nhì, 3 giải ba, và 24 giải khuyến khích, 3 cơng trình
nghiên cứu tốt nhất đã được chọn dự thi giải thưởng “sinh viên nghiên cứu khoa học” do

-

Bộ Giao dục và Đào tạo tổ chức.
Về học bổng: hằng năm nhà trường đã trao tặng hàng trăm suất học bổng cho các cá
nhân sinh viên đạt thành tích cao trong quá trình học tập, rèn luyện đạo đức.

21


-

Thành quả học tập mà sinh viên đạt được còn được thể hiện qua tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp
đúng thời hạn, tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm đều đạt tỉ lệ cao (chiếm 60,15% trên

tổng số sinh viên tốt nghiệp và chiếm tới 98,08% trên tổng số sinh viên phản hồi).
• Sinh viên giữ vững tinh thần tơn sư trọng đạo: ln giữ thái độ kính cẩn tôn trọng với
giảng viên nhà trường, tổ chức tặng hoa cho các giảng viên trong những dịp đặc biệt của


Nhà giáo…
Sinh viên năng động trong các hoạt động tập thể giúp tạo lập những mối quan hệ mới, sự

-

liên kết giữa những tập thể sinh viên trong nhà trường:
Tích cực tham gia các sân chơi bổ ích do nhà trường, khoa tổ chức như: giải bóng ném


-

nam, nữ; giải bóng đá; cuộc thi Got Talent, ...
Tìm kiếm và tham gia các CLB (CLB guitar, clb nóng ném, clb bóng rổ, …) giúp học

-

hỏi nâng cao những khả năng riêng của bản thân, mở rộng các mối quan hệ.
Sinh viên đoàn kết phát huy tốt sức mạnh của tinh thần đoàn kết, long vị tha nhân ái sự

-

bao dung nhân hậu với mọi người trong xã hội
Sinh viên tham gia tích cực và là một phần khơng thể thiếu trong các chiến dịch, các
chương trình tình nguyện như: chiến dịch Mùa hè xanh, chiến dịch Xuân tình nguyện,

-

chiến dịch tiếp sức mùa thi, ….
Các câu lạc bộ tình nguyện được hội sinh viên của trường của khoa phối hợp thành lập,
hằng năm vẫn ln có những hoạt động thiết thực lan tỏa lòng nhân hậu với mọi người
như; hoạt động đông ấm yêu thương, các hoạt động tuyên truyền vận động hiến máu tình
nguyện, các hoạt động về chung tay hỗ trợ cựu sinh viên, …

1.2 . Tiêu cực

Bên cạnh việc phần lớn sinh viên có ý thức chủ động sáng tạo trong học tập, phát huy
tốt lối sống tích cực thì cùng đó cũng tồn tại song song một bộ phận sinh viên Thương Mại
còn sống trong lối sống thực dụng dẫn tới nhiều mặt tiêu cực trong cuộc sống.



Một bộ phận sinh viên khơng cịn hứng thú với việc học tập, tình trạng bỏ học nghỉ học
thường xuyên diễn ra tại các giảng đường, nghiêm trọng hơn là việc gian lận thi cử, chạy
điểm, chạy thầy, mua bằng cấp. Rồi tình trạng thi lại, học lại khơng phải một lần và là
vài lần vẫn diễn ra, sinh viên không đủ điều kiện ra trườg đúng hạn, thất nghiệp sau khi

ra trường vì thiếu chun mơn, kỹ năng.
• Sinh viên chưa có ý thức quyết tâm, chây lười, ngủ quên trong chiến thắng dần dần mất
đi sự cần cù tính sáng tạo của chính bản thân mình.

22




Sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm với bản thân và
gia đình, hình thức sống thử ngày càng tăng trong cộng đồng sinh viên mang lại nhiều hệ



lụy khơng mong muốn.
Trong một bộ phận sinh viên vẫn cịn tồn tại tính tự kiêu ln làm theo ý mình, chưa có
ý thúc vì cộng đồng vì tập thể làm nứt mạch tinh thần đồn kết, đạo đức sinh viên đi
xuống. Một số thì khơng biết tu dưỡng đạo đức, có thái độ khơng đúng mực với cán bộ,

giảng viên trong trường.
• Sinh viên có ý thức nơi công cộng chưa tốt, chen lấn, không biết xếp hàng chờ lượt,
khơng giữ gìn vệ sinh chung cũng như tài sản chung trong trường.
• Một bộ phận sinh viên khơng có lập trường, tư tưởng vững vàng có thể bị cám dỗ, sa ngã

vào con đường tệ nạn.
Nguyên nhân của thực trạng tiêu cực trên qua tìm hiểu là do:
-

Một bộ phân sinh viên phai nhạt niềm tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, học
khơng có mục đích, đại đa số sinh viên học đại học là do sở thích nhưng khơng xác định
được tiêu chí nào chỉ ra việc sinh viên thích học ngành đấy, sinh viên không xác định kế
hoạch sau khi tốt nghiệp.

-

Sinh viên khơng có sự tác động đúng đắn và kịp thời. Bởi vì ngay khi đang cịn học cấp
3, sinh viên chỉ được làm các bài tập được giao mà không xác định được tương lai gần
với việc chọn lựa ngành nghề phù hợp khi lên đại học.

-

Xã hội hiện nay có quá nhiều cám dỗ khiến hộ đang dần bị kéo ra khỏi trường lớp.

-

Đặc biệt các bạn sinh viên đã quan hệ yêu đương mất kiểm soát nên dẫn tới các hậu quả
khó lường và trì trệ việc học, đánh mất tương lai.

-

Sinh viên không ý thức được bản thân mình cần trường, nên nhiều sinh viên khơng chăm
chỉ học tập, chạy đua với những thứ vô bổ.

-


Một số gia đình khơng khun dạy đúng đắn cho sinh viên, mang tiền để chạy điểm
khiến sinh viên thụt lùi, thụ động, không hứng thú với việc cố gắng học tập.

2. Sinh viên Đại học Thương Mại học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh

23


Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng - người đồng chí gần gũi, người học trị xuất sắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hồ Chí Minh đã làm gương mẫu để xây dựng
Đảng. Tấm gương của lãnh tụ được sự hưởng ứng tự nguyện và nhiệt tình của tồn Đảng, đã
tạo nên khn phép chặt chẽ và thiêng liêng, để lại truyền thống tốt đẹp về Đảng và sự lãnh
đạo của Đảng”.
Hồ Chí Minh bằng cả cuộc đời hoạt động khơng mệt mỏi của mình đã nêu tấm gương
lớn về đạo đức, phong cách của Người cộng sản chân chính. Đó là phong cách tư duy khoa
học, sáng tạo; phong cách lãnh đạo dân chủ, quần chúng, quyết đốn, nói đi đơi với làm;
phong cách làm việc cụ thể, sâu sát, dứt điểm; phong cách sống giản dị, thanh cao; phong
cách ứng xử tinh tế, nhân văn tràn đầy tình yêu thương con người. Để trở thành người có ích
cho xã hội, người chủ tương lại của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên
trường Đại học Thương Mại nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Sau đây là một số nội dung cơ bản:
2.1.

Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con Người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con


người đẹp nhất thời đại chúng ta.
Ngay từ thủơ thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục
tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, luôn
kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vuợt qua mọi khó khăn, gian khổ, “thắng không kiêu,
bại không nản”, “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ
khơng thể khuất phục” nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: Bài học chính
trong đời tơi là tuyệt đối và hồn tồn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng và
thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai cấp cơng nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội cho sự hợp tác anh em và hịa bình giữa các dân tộc; “Một ngày đồng
bào cịn chịu khổ là một ngày tơi ăn khơng ngon, ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế giới
này điều luyến tiếc duy nhất của người là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa”.

24


Tấm gương vì nước, vì dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè
quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca
ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “nhà cách mạng triệt để”, “nhà hoạt động quốc tế thần thoại”,
“một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm
chất cách mạng và nhân đạo cao cả nhất. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ
phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một
cách phi thường như vậy”; một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và là
nguồn cổ vũ đời đời bất diệt” …
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng
nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho
“đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “sánh vai với

cường quốc năm châu”. Noi gương Người, lớp trẻ chúng ta, nói gần hơn là sinh viên trường
Đại học Thương Mại cần:
-

Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ơng cha để
chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay.
Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm

-

và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính.
Yêu nước, trung với nước ngày nay với sinh viên không nhất thiết là phải cầm súng, cầm
dao xông pha chiến dấu với kẻ phản động, bọn cường địch. Mà yêu nước là sinh viên
phải cố gắng học tập, học ở đây là học văn hóa, học đạo đức, học làm người. Thiết nghĩ,
sinh viên Thương Mại đến lớp phải chú ý nghe giảng, chăm chỉ làm bài tập, không đi
học muộn, không trốn tiết hay bỏ học, không nói chuyện riêng trong giờ, rèn luyện thể
thao nâng cao sức khỏe. Trước khi tan học chúng ta kiểm tra tắt hết các thiết bị điện
nhằm tiết kiệm nguồn tài nguyên, không xả rác bừa bãi, giữ vệ sinh công cộng, khơng
gian lận trong thi cử. Chúng ta phải có tác phong nhanh nhẹn, nói được phải làm cho
được, khơng lười biếng, ỷ lại. Với thầy cô chúng ta phải lễ phép, kính trọng, thân thiện,
có thể cùng thầy cơ thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học. Với bạn bè, những
người xung quanh phải sống hịa nhã, khơng gây xích mích, đánh nhau, khơng được
25


×