Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.06 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Khổ qua, rau đắng, bông so đũa… đều có vị đắng, nhưng lá sầu đâu thì lại </b>
<b>mang vị đắng dân dã riêng biệt rất khó quên.</b>
Cây sầu đâu (Azadirachta indica) có nguồn gốc từ Ấn Độ, thuộc họ Meliaceae,
được gọi với các tên khác là sầu đông, nim, xoan sầu đâu, xoan ăn gỏi, xoan
trắng, xoan chịu hạn, xoan Ấn Độ; hoặc theo các ngôn ngữ khác là cây “kỳ diệu”,
cây “trị bá bệnh”, chỉ mọc ở các vùng khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới với tán lá
rất khỏe, nhưng có thể rụng trụi khi vào mùa khơ hạn.
Lá sầu đâu - Ảnh: Hạ Huy
<b>Tính năng</b>
tim mạch. Ở miệt vườn Tây Nam bộ nước ta, nhiều người thường đốt lá sầu đâu
khô để un muỗi rất hiệu quả.
<b>Trong ẩm thực</b>
Từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch là thời điểm sầu đâu thay lá đơm bông. Lúc này
tại An Giang, Kiên Giang, Long Xuyên, Châu Đốc... lá và hoa sầu đâu trộn gỏi ba
chỉ, tôm hay cá lóc nướng trui, khơ cá lóc là món ăn đặc sản tuy có vị đắng
nhưng hậu ngọt đậm đà. Ngồi ra, đọt sầu đâu non cịn được ăn kèm với món
mắm kho cá linh, mắm thái, mắm chưng.
Nguồn: TTONL