Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.05 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÀI THẢO LUẬN

ĐỀ TÀI : BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CUNG ỨNG
DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM

Nhóm : 3
Mã LHP : 2109BKSC0611
Mơn Học : Quản Trị Dịch Vụ
Giáo Viên Hướng Dẫn :


Mục Lục
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ....................3
1.1

Khái niệm và đặc điểm của quá trình cung ứng dịch vụ...................................... 3

1.1.1

Khái niệm của quá trình cung ứng dịch vụ....................................................3

1.1.2

Đặc điểm của quá trình cung ứng dịch vụ..................................................... 3

1.2 Nội dung quản lý cung dịch vụ................................................................................... 4
1.2.1 Quản lý khả năng cung và các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ...............4
1.2.1.1 Quản lý khả năng cung dịch vụ.................................................................... 4


1.2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ..................................................4
1.2.2

Quản lý chất lượng dịch vụ.............................................................................5

1.2.2.1 Quan niệm về chất lượng dịch vụ................................................................. 5
1.2.2.2 Đo lường chất lượng dịch vụ........................................................................6
1.2.2.3. Nội dung và biện pháp quản trị chất lượng dịch vụ....................................7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ LOGISTICS
TẠI VIỆT NAM....................................................................................................................9
2.1 Giới thiệu chung về dịch vụ logistics tại Việt Nam.....................................................9
2.2 Phân tích thực trạng quản lý cung logistics tại Việt Nam.......................................12
2.2.1. Thực trạng quản lý khả năng cung và các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch
vụ logistics tại Việt Nam...............................................................................................12
2.2.2
2.3

Thực trạng quản lý chất lượng dịch vụ logistic tại Việt Nam......................15

Đánh giá chung.....................................................................................................17

2.3.1

Ưu điểm..........................................................................................................17

2.3.2

Nhược điểm....................................................................................................17

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP..............................................................................................19



CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của quá trình cung ứng dịch vụ
1.1.1 Khái niệm của quá trình cung ứng dịch vụ
Dịch vụ: là một loại sản phẩm kinh tế nhưng không phải là vật phẩm, mà là
công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kỹ năng
chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại.
Dịch vụ thương mại: là những hoạt động tiếp tục, hồn thiện, hỗ trợ,
khuếch trương cho q trình sản xuất kinh doanh, bao gồm các hoạt động trước,
trong và sau quá trình sản xuất kinh doanh, là phần mềm của sản phẩm được cung
ứng cho khách hàng.
Cung ứng dịch vụ: là sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp có khả năng và
sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau cho khách hàng trong một thời gian và
không gian nhất định.
1.1.2 Đặc điểm của quá trình cung ứng dịch vụ
- Cung ứng dịch vụ thường được thực hiện bởi các nhà sản xuất ra sản phẩm
dịch vụ độc lập và mang tính cạnh tranh cao . Chính các nhà sản xuất dịch vụ
cung ứng sản phẩm của mình . Sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng ngày càng
gay gắt trên thị trường. Đặc điểm này của cung ứng dịch vụ khác với cung ứng
hàng hố vì cung ứng hàng hố có thể được thực hiện thơng qua các mơi giới
trung gian.
- Q trình cung ứng dịch vụ bắt đầu từ việc khám phá ra nhu cầu dịch vụ trên
thị trường đến khi khách hàng kết thúc việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Quá trình
cung ứng sản phẩm dịch vụ được coi là thành công khi khách hàng kết thúc việc
tiêu dùng dịch vụ đó. Mỗi loại sản phẩm dịch vụ có những đặc thù riêng, vì vậy,
quá trình cung ứng dịch vụ rất phức tạp, mỗi loại dịch vụ có độ dài thời gian cung
ứng khác nhau.
- Cung dịch vụ thường có khả năng hữu hạn (tính chất cố định một cách
tương đối). Tính chất cố định của cung dịch vụ thể hiện ở cố định về vị trí và khả

năng cung ứng. Sự hữu hạn về các nguồn lực tự nhiên, công nghệ, nhân lực, ...
làm hạn chế khả năng cung dịch vụ , từ đó có thể tạo ra tính thời vụ của dịch vụ.
Trong tương lai, khi dịch vụ ít phụ thuộc vào các nguồn lực tự nhiên hơn sẽ làm
khả năng cung dịch vụ dồi dào hơn.
- Cung ứng dịch vụ có thể được tổ chức theo nhiều phương thức (hình thức)
khác nhau. Đối với các dịch vụ nội địa , cung ứng dịch vụ có thể có các hình thức
khách hàng đến với nhà cung ứng , nhà cung ứng đến với khách hàng hay khách
hàng và nhà cung ứng thoả thuận địa điểm cung ứng nhất định . Đối với các dịch
vụ xuất khẩu, nhà cung ứng có thể lựa chọn các phương thức : Cung cấp dịch vụ
qua biên giới , tiêu dùng ở nước ngoài , hiện diện thương mại và hiện diện thể
nhân. Tuỳ theo đặc điểm từng loại dịch vụ mà nhà cung ứng xây dựng các kênh
phân phối dịch vụ phù hợp nhất.
- Cung ứng dịch vụ thường thể hiện ở 3 trạng thái : Thường xuyên đáp ứng
được cầu , đáp ứng được cầu và không đáp ứng được cầu Các trạng thái cung ứng
dịch vụ có thể dẫn đến việc thiếu hụt cung hay dư thừa cung so với cầu , có thể
tạo ra hàng chờ dịch vụ . Các nhà cung ứng cần lựa chọn khả năng cung phù hợp
nhất với các mức cầu dao động , đồng thời kết hợp với các biện pháp làm giảm
dao động thời vụ của cầu nhằm đạt được hiệu quả cung ứng cao nhất.


1.2 Nội dung quản lý cung dịch vụ
1.2.1 Quản lý khả năng cung và các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ
1.2.1.1 Quản lý khả năng cung dịch vụ
- Phải xây dựng và triển khai thực hiện tốt chiến lược quản trị công suất,
thiết kế được công suất tối ưu và cơng suất có khả năng điều chỉnh trong các thời
điểm nhu cầu khác nhau. Ở điểm công suất tối ưu là điềm sẽ mang lại cho khách
hàng sự hài lòng cao nhất.
- Cần sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật có hiệu quả nhất bằng cách tăng
cường đầu tư và sử dụng các trang thiết bị đa năng, hiện đại, có thể sử dụng cho
nhiều mục đích khác nhau. Nhà cung ứng cần mở rộng các hình thức dịch vụ như

áp dụng các hình thức dịch vụ tự động hay khách hàng tự phục vụ, từ đó làm giảm
các yêu cầu dịch vụ và nhà cung ứng dễ đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Cần huấn luyện, đào tạo nhân viên chéo nhau, có khả năng luân chuyển,
hỗ trợ cho nhau đặc biệt vào thời điểm chính vụ hay giờ cao điểm. Như vậy,
doanh nghiệp tận dụng thời gian rảnh rỗi của bộ phận nhân viên này để hỗ trợ bộ
phận nhân viên khác vào h cao điểm. Điều đó nâng cao khả năng cung ứng của
doanh nghiệp dịch vụ, phát huy tinh thần làm việc của nhân viên và giảm bớt sự
đơn điệu của nhân viên.
- Cần lập trình ca làm việc và tổ chức lao động một cách hợp lý. Việc lập
lịch trình ca làm việc cho nhân viên sẽ giúp phục vụ khách hàng tốt hơn vào giờ
cao điểm. Doanh nghiệp có thể lập lịch trình làm việc cho nhân viên theo 4 bước:
 Dự báo nhu cầu dịch vụ của khách hàng theo những thời gian khác
nhau và xác định năng lực cung ứng đáp ứng nhu cầu.
 Lập kế hoạch làm việc theo ca để đáp ứng nhu cầu dịch vụ có tính
thời
điểm.  Xây dựng lịch làm việc.
 Phân phối nguồn nhân lực theo thời gian kết hợp với nhu cầu làm
việc và
nghỉ ngơi của nhân viên một cách linh hoạt.
- Có biện pháp để tăng cường sự tham gia của khách hàng vào dịch vụ để
tiết kiệm nhân lực đồng thời cải thiện được năng lực cung ứng dịch vụ.
- Các quyết định cung ứng của nhà quản trị dựa trên phân tích tác động qua
lại giữa cơ hội đảm bảo dịch vụ được cảm nhận là tốt và năng lực đáp ứng những
mong đợi của khách hàng. Mức độ đảm bảo dịch vụ được cảm nhận là tốt sẽ chịu
ảnh hưởng của những yếu tố như số lượng khách hàng, chi phí bình qn, u cầu
dịch vụ, năng lực của đối thủ cạnh tranh và cường độ cạnh tranh. Mức độ mà một
doanh nghiệp có khả năng đáp ứng những mong đợi của khách hàng về dựu chịu
ảnh hưởng của những yếu tố như các yếu tố hữu hình kỹ năng giao tiếp của nhân
viên tiếp xúc, năng lực thực hiện quá trình cung ứng dịch vụ, khả năng áp dụng
công nghệ mới để nâng cao năng suất cung ứng, nguồn tài chính để đầu tư nâng

cấp dịch vụ ...
1.2.1.2
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ


- Tác động vi mô
+ Giá cả dịch vụ cung ứng: Nhà cung ứng sẽ cố gắng sản xuất nhiều hơn
hoặc ít hơn tùy thuộc vào giá cả cao hay thấp.
+ Giá cả dịch vụ liên quan ( như dịch vụ thay thế hoặc bổ sung ): Nhà cung
ứng sẽ xem xét giá cả các hàng hóa dịch vụ khác để quyết định lượng hàng hóa,
dịch vụ cung ứng của mình.
+ Chi phí sản xuất kinh doanh: Đây là một nhân tố quan trọng nhất bởi vì
chi phí có thể ảnh hưởng khác nhau đến sự thay đổi doanh thu. Khi doanh thu tăng
do giá tăng chưa chắc đã làm cho lợi nhuận tăng nếu chi phí tăng nhanh hơn
doanh thu. Và khi doanh thu tăng thì doanh nghiệp cung ứng dịch vụ có thể tăng
chi phí để tái sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mơ, và có thể cung ứng thêm
nhiều dịch vụ cho khách hàng với mức giá mềm hơn.
+ Kỳ vọng của nhà cung ứng: Nhân tố này có thể quan trọng như chi phí
sản xuất kinh doanh trong đó, một cơng ty sẽ phải dự đoán cầu, mức giá và các
hoạt động của đối thủ cạnh tranh trước khi bắt đầu sản xuất.
+ Áp dụng khoa học công nghệ trong doanh nghiệp dịch vụ: Nhân tố này
ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của mỗi lao động và ảnh hưởng đến cơ cấu
chi phí sản xuất kinh doanh .
- Tác động vĩ mô (cung của ngành , khu vực )
+ Cạnh tranh trên thị trường: Sự cạnh tranh trên tị trường có thể thúc đấy
cung hoặc làm kìm hãm cung.
+ Các chính sách của nhà nước: Ví dụ chính sách thuế với nhiều loại thuế
trực thu và gián thu khác nhau tùy theo mỗi quốc gia. Khi chính phủ thay đổi
chính sách thuế sẽ làm ảnh hưởng đến cung hàng hóa dịch vụ.
+ Sự phát triển KH - CN: Khi khoa học công nghệ phát triển sẽ làm tăng

nhu cầu về dịch vụ của người tiêu dùng, ví dụ như dịch vụ fast food, DV internet,
... nếu doanh nghiệp nắm bắt đc điều này thì có thể tạo ra những sản phẩm dịch vụ
đáp ứng đc nhu cầu này của khách hàng như là DV café - wifi.
+ Quy hoạch du lịch: Đây là một nhân tố tác động trực tiếp đến sự tăng lên
của cung du lịch trong nhiều loại hình kinh doanh khác nhau.
+ Các yếu tố khác như: Thời tiết, tình hình an ninh, chính trị,... cũng sẽ tác
động nhất định đến cung dịch vụ.
1.2.2 Quản lý chất lượng dịch vụ
1.2.2.1 Quan niệm về chất lượng dịch vụ
Từ các cách tiếp cận về chất lượng dịch vụ, có thể xem xét quan niệm về
chất lượng dịch vụ từ phái khách hàng. Chất lượng dịch vụ là khả năng của dịch
vụ thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng. Khách hàng thỏa mãn khi cảm nhận về
dịch vụ nhận được phù hợp với sự mong đợi từ dịch vụ mong muốn.
Các quan điểm về tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ cũng được nhìn nhận dưới
góc độ người tiêu dung. Theo ISO 8402-1986: Chất hợp là tập hợp đặc trưng của
một sản phẩm hoặc dịch vụ làm cho nó, có khả năng thỏa mãn nhưng nhu cầu đã
nêu ra (tiềm ẩn). Theo TCVN và ISO 9000: Chất lượng dịch vụ là mức phù hợp
của sản phẩm dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua.


1.2.2.2 Đo lường chất lượng dịch vụ
 Sự cần thiết đo lường chất lượng dịch vụ
Đo lường chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao doanh thu, lợi nhuận cho các
doanh nghiệp dịch vụ. Chất lượng dịch vụ cao giúp doanh nghiệp giữ chân khách
hàng cũ, thu hút khách hàng mới. Chất lượng dịch vụ rất khó đo lường, khó đánh
giá trước khi tiêu dùng. Khách hàng thường dựa vào những căn cứ có độ tin cậy
như thơng tin truyền miệng hoặc kinh nghiệm tiêu dùng của bản thân để quyết
định lựa chọn dịch vụ. Vì vậy, chất lượng dịch vụ khơng chỉ có tác dụng duy trì và
thu hút khách mà cịn góp phần làm giảm chi phí marketing, giảm giá thành sản
phẩm dịch vụ, tăng tốc độ tăng trưởng từ khách, từ đó nâng cao doanh thu và lợi

nhuận cho doanh nghiệp.
Đo lường chất lượng dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
khách hàng. Mục tiêu của doanh nghiệp dịch vụ là tối đa lợi nhuận, vì vậy doanh
nghiệp cần phải tối đa lượng khách tiêu dùng.
Đo lường chất lượng dịch vụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của nhà cung
ứng. biện pháp giúp doanh nghiệp tăng uy tín, doanh tiếng và khẳn định vị thế
trên thị trường.
 Các chỉ tiêu đo lường chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ có thể được đo lường qua 10 chỉ tiêu theo quan điểm
khách hàng như sau:
Sự tin cậy: gồm sự thực hiện thích hợp và có độ tin cậy, thực hiện đúng ngay
từ đầu , thực hiện nhất quán, chính xác,…
Sự phản hồi/ trách nhiệm: sẵn sàng giúp đỡ khách hàng và cung cấp dịch vụ
nhanh chóng.
Năng lực: kĩ năng và kiến thức cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, gồm kĩ năng
và kiến thức của nhân viên, kĩ năng nghiên cứu quản lí của điều hành tổ chức.
Khả năng tiếp cận: dịch vụ dễ tiếp cận, thời gian chờ đợi dịch vụ, thời gian
hoạt động thuận tiện, vị trí thuận tiện của dịch vụ.
Tác phong thái độ: lịch sự, tôn trọng, quan tâm, thân thiện của nhân viên
cung cấp dịch vụ đối với khách hàng.
Truyền thông/ giao tiếp: thông tin cần thiết với khách hàng bằng ngôn từ
trong sáng dễ hiểu, lắng nghe khách hàng, điều chỉnh cách giao tiếp đối với những
khách hàng khác nhau, giải thích cho khách hàng hiểu về quy trình dịch vụ,…
Uy tín của nhà cung cấp/ sự đảm bảo: sự tin tưởng, trung thực làm cho khách
hàng hài lòng, cụ thể như danh tiếng của công ty, tư cách cá nhân của người phục
vụ, sự trung thực và đáng tin cậy, độ phức tạp trong hoạt động chuyển giao dịch
vụ…
An tồn: khơng nguy hiểm, rủi ro trong sử dụng dịch vụ, sự an toàn về vật
chất, an toàn về tài chính, bảo mật,
Thấu hiểu khách hàng/ sự đồng cảm: hiểu biết nhu cầu của khách hàng, nỗ

lực để hiểu nhu cầu và sở thích của khách, chú ý đến nhu cầu từng cá nhân
Tính hữu hình: gồm những điều kiện vật chất của dịch vụ như phương tiện
vật chất, sự hiện diện của nhân vật tiếp xúc, công cụ thiết bị tạo dịch vụ, đầu mối
vật chất, khách hàng,…
 Phương pháp đo lường chất lượng dịch vụ
- Đo lường từ phía nhà cung ứng


-

Đo lường từ phái khách hàng
Đánh giá của các chuyên gia
Ngồi ra có thể sử dụng các phương pháp khác: so sánh chất lượng dịch
vụ của doanh nghiệp với dịch vụ doanh nghiệp tốt nhất, tham dự các
cuộc thi trong nước và quốc tế,..

1.2.2.3. Nội dung và biện pháp quản trị chất lượng dịch vụ
a. Nội dung quản trị chất lượng dịch vụ
- Đề ra các mục tiêu lâu dài và cụ thể về chất lượng dịch vụ
- Xây dựng cơ cấu tổ chức thích ứng để thực hiện dịch vụ
- Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn
- Thiết lập hệ thống tài liệu cho các cấp quản trị
- Triển khai và tuân thủ các văn bản, cam kết
- Thực hiện các biện pháp khắc phục, phòng ngừa
- Đánh giá nội bộ về tình trạng chất lượng dịch vụ
- Xem xét định kỳ của nhà quản trị và đề ra các biện pháp thường xuyên
cải tiến chất lượng dịch vụ.
b. Quy trình quản trị chất lượng dịch vụ
Nhà quản trị cần xác định rõ trình tự tiến hành các biện pháp quản trị chất
lượng dịch vụ:

(1) Thiết kế tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ cần được quan tâm bắt đầu từ việc thiết kế hệ thống
cung ứng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ chỉ được đảm bảo khi nhà quản trị đảm bảo
được chất lượng cả 4 yếu tố:
- Sự tích hợp của dịch vụ trong gói dịch vụ: phương tiện hỗ trợ, hàng hóa
cần thiết, các dịch vụ hiện, các dịch vụ ẩn
- Phương pháp Taguchi: quan điểm thiết kế sản phẩm “ bền vững” đảm
bảo hoạt động phù hợp trong điều kiện bất lợi
(2) Triển khai quản trị chất lượng dịch vụ
Sau khi thiết kế tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ dựa trên những mong đợi
của khách hàng, nhà quản trị cần xây dựng đội ngũ nhân viên, đầu tư cơ sở vật
chất và triển khai chất lượng kỹ thuật. Đồng thời, doanh nghiệp cần triển khai chất
lượng chức năng (Quality finction deployment- QFD), dẫn đến kết quả được thực
hiện trong một ma trận chất lượng cho mỗi sản phẩm riêng biệt liên quan tới các
thuộc tính khách hàng và các đặc điểm kỹ thuật. ý tưởng chủ đọa QFD là các sản
phẩm cần được thiết kế để phản ánh mong muốn và thị hiếu của khách hàng. Theo
đó, các chức năng marketing, thiết kế kỹ thuật và sản xuất phải được kết hợp với
nhau. Ma trận chất lượng cung cấp một khuôn mẫu để nhận diện được sự hài lòng
của khách hàng và đo lường các tiêu chuẩn kĩ thuật cho việc thiết kế sản phẩm
dịch vụ.
(3) Kiểm tra và giám sát thường xuyên quá trình sản xuất và cung ứng dịch
vụ
- Chi phí chất lượng: thường có 4 loại chi phí liên quan đến chất lượng: Chi
phí tổn thất nội bộ (từ những lỗi được phát hiện trước khi chuyển giao dịch vụ),
chi phí tổn thất bên ngồi (từ những lỗi được phát hiện sau khi chuyển giao dịch
vụ),


chi phí phát hiện (trong kiểm tra nguyên liệu mua vào và trong q trình sản xuất)
và chi phí phịng ngừa rủi ro (để nắm bắt những lỗi xảy ra ở vị trí đầu tiên).

- Kiểm sốt tiến trình dịch vụ: có thể được xem như một hệ thống kiểm
sốt thong tin phản hồi. Trong một hệ thống thông tin phản hồi, đầu ra được so
sánh với một mốc tiêu chuẩn. Độ sai lệch được thông tin trở lại cho đầu vào và
điều chỉnh sau đó được thực hiện để duy trì đầu ra trong một phạm vi chấp nhận
được.
- Kiểm sốt q trình thống kê: việc thực hiện dịch vụ thường được đánh
giá bởi những chỉ số chính thức. Nếu tiến trình dịch vụ khơng được thực hiện như
ming đợi thì nhà quản trị có thể nghiên cứu để xác định nguyên nhân của vấn đề
và đề xuất biện pháp khắc phục. các doanh nghiệp dịch vụ có thể xây dựng một
biểu đồ kiểm soát chất lượng để đo lường hiệu quả tiến trình dịch vụ nếu tiến trình
nằm trong tầm kiểm soát.
(4) Phục hồi và nâng cao chất lượng dịch vụ
Sự thất bại của dịch vụ có thể trở thành sự thành công dịch vụ bằng việc
trao quyền cho nhân viên tiếp xúc với sự thận trọng để “làm đúng mọi việc”
c. Chiến lược và biện pháp quản trị chất lượng dịch vụ
Nhà quản trị tùy từng giai đoạn phát triển của dịch vụ để lựa chọn chiến
lược quản trị hiệu quả nhất
- Chiến lược tập trung đáp ứng mong đợi của khách hàng: ES=PS. Nhà
quản trị có những chiến lược duy trì và giữu khách, chủ động quan tâm
tới khách hàng, xử lý khiếu nại của khách hàng, chương trình đảm bảo
chất lượng dịch vụ.
- Chiến lược đáp ứng vượt quá mong đợi của khách hàng: ES < PS. Nhà
quản trị áp dụng các chiến lược quản trị chất lượng đồng bộ ( TQM),
hàng hóa dịch vụ bổ sung them, chương trình đào tạo và phát triển nhân
sự nhằm nâng cao tinh thần thái độ và trình độ nghiệp vụ của nhân viên,
tiêu chuẩn hóa chất lượng dịch vụ và quy trình dịch vụ.
Để thực hiện những chiến lược có hiệu quả cao, nhà quản trị cần có những
biện pháp phù hợp như phân cấp quản trị, xác định rõ vai trò của mỗi người, kiểm
tra giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ,
khuyến khích vật chất và tinh thần đối với nhân viên phục vụ,…



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ
LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu chung về dịch vụ logistics tại Việt Nam
Logistics là một chuỗi nhiều hoạt động xoay quanh hàng hóa như: đóng gói,
bao bì, lưu trữ hàng hóa, kho bãi, bảo quản, vận chuyển hàng hóa… Các doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được đáng kể khoản chi phí vận chuyển, tránh việc “đội
giá” sản phẩm và tăng mức lợi nhuận thu được nếu thực thi hoạt động Logistics
hiệu quả.
 Lịch sử hình thành và phát triển Logistics
Cùng với q trình phát triển, logistics đã được chun mơn hóa và phát
triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong giao thương
quốc tế. Một điều khá thú vị là logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu tiên
không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics
được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc Đại chiến thế giới để di
chuyển lực lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần
cho lực lượng tham chiến tại chiến trường. Hiệu quả của hoạt động logistics là yếu
tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.
Theo một số tài liệu cho biết, thuật ngữ logictics bắt nguồn từ các cuộc
chiến tranh cổ đại của đế chế Hy Lạp và La Mã. Ở đó, các chiến binh có chức
danh là Logistikas được giao nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí cùng các nhu
yếu phẩm cho tất cả các binh sĩ khi di chuyển từ bản doanh đến các vị trí khác.
Đây là một cơng việc vơ cùng quan trọng chiến tranh. Cùng với đó, các bên tham
chiến phải tìm mọi cách để bảo vệ nguồn cung ứng của mình và triệt phá nguồn
cung ứng của đối phương. Q trình đó sau này dần hình thành hệ thống quản trị
mà lịch sử gọi là quản lý logistics.
Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ logistics thường được hiểu là hoạt
động quản lý chuỗi cung ứng - supply chain management hay quản lý hệ thống
phân phối vật chất - physical distribution management của doanh nghiệp đó. Có

rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được xây dựng căn cứ
trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu về dịch vụ logistics. Logistics là một
thuật ngữ còn khá mới ở Việt Nam, trong khi đó đã trở nên quen thuộc với các
quốc gia trên thế giới và khu vực. Hiểu như vậy, logistics là dịch vụ đóng vai trò
quan trọng trong các hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại
và vận tải hàng hóa.
 Những thành tựu, hạn chế trong q trình phát triển ngành logictics ở Việt
Nam
Như mọi lĩnh vực khác, dịch vụ logistics ở Việt Nam trong quá trình hình
thành và phát triển đã có những thành tựu và hạn chế nhất định. Nhận diện được
những thành tựu và hạn chế để tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp phát triển
là nội dung quan trọng đối với nhiệm vụ nghiên cứu.
 Những thành tựu trong quá trình phát triển logictics
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập vào
Việt Nam trong thời gian ở những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, trước hết và
chủ yếu thông qua hoạt động của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một
số người được đào tạo tại nước ngoài. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, sự gia tăng của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ
logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ và sẽ còn phát triển mạnh


hơn khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới WTO. Bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh.
Trong những năm gần đây, dịch vụ logistics phát triển mạnh mẽ và được
chun mơn hóa với mức độ khá cao, trở thành một trong những ngành dịch vụ
xương sống của hoạt động thương mại quốc tế. Khối ASEAN đang coi trọng tăng
cường hội nhập ngành logistics trong khu vực, coi đây là mắt xích quan trọng để
liên kết các cơng đoạn sản xuất và vận chuyển giữa các nước trong khu vực. Việt
Nam đã tham gia lộ trình hội nhập ngành logistics trong tổ chức ASEAN đạt kết

quả bước đầu, tuy nhiên, vẫn còn nhiêu việc phải làm để thúc đẩy ngành này phát
triển.
Như vậy, logistics là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ cho kinh tế các
Quốc gia. Theo Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, hiện Việt Nam
có số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải, kho bãi, bán buôn, bán
lẻ và phát chuyển nhanh lên tới gần 140.000. Theo Bộ Công thương, tiềm năng
phát triển ngành logistics còn lớn hơn nữa khi kim ngạch thương mại của nước ta
được xem là tăng nhanh nhất trong khu vực với tốc độ 18-20%/năm.
 Những hạn chế trong quá trình phát triển ngành logictics
Như hầu hết các nước đang phát triển trong khu vực, các doanh nghiệp
logistics của Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy việc tổ
chức kinh doanh cịn manh mún, chưa chuyên nghiệp, nguồn nhân lực có nhiều
hạn chế. Số doanh nghiệp nội địa chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp logistics ở
Việt Nam nhưng chỉ chiếm gần 25% thị phần. Số lượng các tập đoàn lớn trên thế
giới xuất hiện và hoạt động ngày càng nhiều như: APL Logistics, Maersk
Logistics, NYK Logistics, Schenker, BirKart, BJ, Errmey, Sunil Mezario, Hapag
Lloyd, Zim, TWT, Sun Express,… có nguồn tài chính mạnh, dồi dào, nguồn nhân
lực chất lượng cao và chuyên nghiệp đang chiếm lĩnh tới 75% thị phần. Logistics
có bốn cấp độ về dịch vụ thì các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia được đến
cấp độ 2, nghĩa là chủ yếu mới làm đại lý, trung gian chứ chưa đáp ứng được cả
chuỗi logistics bao gồm cả các nhà điều hành vận tải đa phương thức gọi tắt là
MTO và nhà cung cấp dịch vụ logistics gọi tắt là LP.
Công nghệ logistics của Việt Nam còn rất thấp cho nên cơng việc vẫn cịn
mang tính thụ động. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu tự
làm lấy cơng tác giao nhận kho vận, do đó tính chun mơn hóa chưa cao, chi phí
cho giao nhận kho vận còn chiếm tới 20% giá thành sản phẩm; trong khi tỷ lệ này
ở các nước phát triển chỉ vào khoảng 8 - 12%. Điều này làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng hóa của các doanh nghiệp của Việt Nam so với các doanh nghiệp
nước ngoài vốn đã rất mạnh. Bản thân doanh nghiệp nước ngồi khi có các
thương vụ làm ăn tại Việt Nam lại phải thông qua các doanh nghiệp logistics nước

thứ ba. Có thể nói, các cơng ty xuất nhập khẩu Việt Nam chưa nhận thức hết tầm
quan trọng cũng như lợi ích của logistics. Q trình thuê ngoài đối với toàn bộ các
hoạt động logistics chỉ đang trong giai đoạn khởi đầu. Chính điều này hạn chế
hoạt động xuất khẩu của từng doanh nghiệp cụ thể và ảnh hưởng đến kim ngạch
xuất khẩu chung của cả nước.
Theo tính tốn mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng
nhất trong logistics là vận tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng
chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị
chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn


cho doanh nghiệp Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận
chuyển bằng đường biển. Năm 2014, theo thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng
hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam ước đạt 370,3 triệu tấn, tăng 14%,
trong đó hàng container đạt 10,24 triệu TEUs, tăng 20,1% so với năm 2013. Đây
thực sự một thị trường mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài đang thèm muốn và
tập trung khai phá. Hiện tại, trên cả nước có khoảng 1.000 doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực logistics. Trong đó, VIFFAS - hiệp hội giao nhận kho vận
Việt Nam có 97 hội viên, trong đó 77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết.
Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký
trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
logistics tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics, và
mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ
không lồ này. Trong khi các doanh nghiệp của ta cịn đang mải đá nhau thì các tập
đồn hàng hải lớn trên thế giới như APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics, NYK
Logistics,... Những tập đoàn hùng mạnh với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh
nghiệm và nguồn tài chính khơng lồ với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ
thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên tồn thế giới, mạng lưới thơng
tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã và đang từng bước xâm nhập, củng
cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam

hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực
hiện ở một cách thức thống nhất.
Hiện nay, hạ tầng cơ sở logistics tại Việt Nam nói chung cịn nghèo nàn,
quy mơ nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam
bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường
thuỷ, 228 cảng biển và 21 sân bay. Tuy nhiên, chất lượng của hệ thống này là
không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có
khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang
trong q trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa
được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong
điều hành xếp dỡ container. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương
tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Thực tế cho
thấy, chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các
sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng
hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như
các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ cịn
thấp, khơng có đường chuyên dụng được thiết kế để vận chuyển container, các đội
xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận
dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường
sắt chiếm khoảng 20% tổng lượng hàng hố lưu thơng. Tuy nhiên, đường sắt Việt
Nam vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm)
với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội – Thành phố Hồ Chí
Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 28 tiếng đồng hồ. Ngồi ra cịn khá nhiều
tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ vận chuyển. Trong logistics việc giao
nhận luôn gắn liền với tốc độ thời gian và đó cũng chính là uy tín của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp khơng thể chủ động thời gian được vì giao thơng
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của cả xã hội. Bởi vậy, các doanh nghiệp thường bị
thụ động trong việc quyết định thời gian giao nhận hàng hóa, mọi cố gắng chỉ hạn

chế phần nhỏ vấn đề uy tín của doanh nghiệp.


Logistics của Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực trầm trọng. Theo ước
tính của VIFFAS, nếu chỉ tính các nhân viên trong các cơng ty hội viên có khoảng
140, thì tổng số khỏang 4000 người. Đây là lực lượng chuyên nghiệp, ngồi ra
ước tính khoảng 4000 - 5000 người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực
được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Từ trước tới nay, các trường đại học, cao
đẳng chuyên ngành ngoại thương, hàng hải, giao thông vận tải cũng chỉ đào tạo
chung các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương, vận tải. Chỉ từ năm 2017,
theo danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học ban hành kèm theo thơng
tư số 24/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo thì mới có ngành Logistics
và quản lý chuỗi cung ứng. Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về loại hình dịch
vụ này cũng chưa nhiều. Ngay cả như các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp
trong lĩnh vực này vẫn còn quá ít so với yêu cầu phát triển.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng
hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này
đặt doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà. Áp
lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, sự lớn mạnh không ngừng của thị
trường cũng như những địi hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt
ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp logistics. Chưa có một cơ
chế thống nhất chính thức trong quản lý các hoạt động logistics ở Việt Nam, việc
thực thi Luật Cạnh tranh đối với lĩnh vực này dường như vẫn bị bỏ trống, các quy
định về thuế đối với các dịch vụ giao nhận hàng chưa rõ ràng và còn phức tạp do
thiếu quan điểm đồng nhất đối với ngành công nghiệp logistics.
2.2 Phân tích thực trạng quản lý cung logistics tại Việt Nam
2.2.1. Thực trạng quản lý khả năng cung và các nhân tố ảnh hưởng
đến cung dịch vụ logistics tại Việt Nam.
Về số lượng doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ logistics
Tính chung trong lĩnh vực vận tải, kho bãi, bưu chính, chuyển phát, thị

trường logistics Việt Nam đang thu hút khoảng tới trên 30.000 doanh nghiệp.
Trong đó, chủ yếu là doanh nghiệp vận tải đường sắt, đường bộ và đường ống
(59,02%), tiếp đó là doanh nghiệp kho bãi và các hoạt động hỗ trợ vận tải
(33,26%), còn lại là doanh nghiệp vận tải đường thủy (5,27%), vận tải hàng không
(0,02%) và doanh nghiệp bưu chính chuyển phát (2,34%). Có khoảng 30 doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam,
với các thương hiệu lớn như DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ
Logistics, KMTC Logistics...
Các doanh nghiệp được xếp hạng uy tín dựa trên 3 tiêu chí chính, trong đó,
có tiêu chí Năng lực tài chính thể hiện trên báo cáo tài chính năm gần nhất. Theo
đó, năm 2019, Viettel Post ghi nhận doanh thu 7.808 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế
là 378 tỷ đồng, cao nhất từ khi công ty công bố báo cáo tài chính. Báo cáo tài
chính của Gemadept cho thấy, doanh thu thuần quý 4/2019 đạt 645 tỷ đồng, giảm
6% so với cùng kỳ. Lũy kế cả năm 2019, doanh thu thuần của Gemadept chỉ giảm
nhẹ 2,5% so với cùng kỳ năm 2018. Tổng doanh thu lĩnh vực bưu chính của Tổng
công ty Bưu Điện Việt Nam ước đạt 34.311 tỷ đồng, tăng 22.65% so với năm
2018. Tổng nộp ngân sách nhà nước ước đạt 1.230 tỷ đồng, tăng 5,63% so với
năm 2018.
Hiện nay có nhiều cơng ty logistics lớn trên thế giới đã vào Việt Nam nhưng
theo cam kết gia nhập WTO thì sau 5 đến 7 năm các doanh nghiệp này mới có thể


thiết lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là thời gian quý báu để các
doanh nghiệp Việt Nam liên kết dành thị phần. Tuy nhiên, dù chỉ mới là liên
doanh liên kết, nhưng hiện thời các doanh nghiệp nước ngồi đã chia sẻ thị phần
khá lớn; do đó khi được quyền thiết lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì
cánh cửa mở cho các doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn hẹp hơn nữa. Hiện tại, APL,
Mitsui OSK, Maersk Logistics, NYK Logistics... là những tập đoàn hùng mạnh
với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ, hệ
thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín

trên tồn thế giới, mạng lưới thơng tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã
và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Về phạm vi hoạt động của các công ty logistics của Việt Nam
Hiện nay, các công ty logistics Việt Nam mới chỉ hoạt động trong phạm vị
nội địa hoặc một vài nước trong khu vực, trong khi phạm vi hoạt động của các
cơng ty nước ngồi như APL Logistics là gần 100 quốc gia, Maersk Logistics là
60 quốc gia, Exel cũng vậy. Đây là một trong những cản trở các doanh nghiệp VN
cung cấp các dịch vụ trọn gói cho khách hàng. Trong xu thế tồn cầu hố, chủ
hàng thường có xu hướng thuê ngoài từ rất nhiều quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới. Mặc dù có thể tính đến vai trị của các đại lý mà các cơng ty Việt Nam thiết
lập ở các quốc gia khác, nhưng quan hệ này thường khá lỏng lẻo và không đồng
nhất.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2018 ngành logistics Việt Nam tăng
trưởng khoảng 12-14% so với năm 2017. Số lượng các doanh nghiệp vận tải và
logistics hiện là 3.000 doanh nghiệp, bao gồm tất cả các doanh nghiệp logistics
hoạt động theo các tuyến đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa,
đường hàng không...
Tiềm năng và cơ hội để ngành vận tải và logistics Việt Nam phát triển hơn
nữa trong thời gian tới là rất lớn. Theo đại diện của Bộ Công Thương, sự phát
triển của ngành vận tải và logistics sẽ tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng trở
thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực, có khả năng cạnh tranh với
Trung Quốc.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ logistics tại Việt Nam
Điều kiện địa lí
Việt nam nằm ở cực đơng nam bán đảo Đơng Dương diện tích phần đất liền
khoảng 331.698 km². Vùng biển của Việt Nam chiếm diện tích khoảng
1.000.000 km².
Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh bắc bộ và
biển đơng ở phía đơng, Trung Quốc ở phía bắc,Llào và Campuchia phía tây. Việt
Nam hình chữ S và khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 km, vị trí hẹp

nhất theo chiều đơng sang tây là 50 km. Với đường bờ biển dài 3.260 km không
kể các đảo. Việt Nam tuyên bố 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp
giáp nữa theo thông lệ và vùng an ninh, và 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh
tế. Địa lý Việt Nam rất thuận lợi cho hoat động logistics, là nơi trung chuyển hàng
hóa, giáp vớiTrung Quốc, Lào, Campuchia tạo điều kiện thuận lợi để trao đổi
hàng hóa, đường bờ biển dài nhiều cảng, tạo điều kiện phát triển dịch vụ logistics.
Cơ sở hạ tầng


Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến dịch vụ logistics, trong khi đó cơ sở
hạ tầng ở Việt Nam cịn rất yếu kém từ đó làm cho chi phí dịch vụ này tăng cao
dẫn tới tăng giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, khó cạnh tranh làm ảnh hưởng
đến sự phát triển của dịch vụ logistics ở Việt Nam. Hệ thống giao thông là cơ sở
hạ tầng quan trọng trong việc phát triển dịch vụ logistics, nhưng cơ sở hạ tầng ở
Việt Nam đều còn rất yếu kém dẫn tới dịch vụ logistics đều đắt đỏ vì hạ tầng yếu
kém, ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra, các chi phí “khơng thể hạch tốn vào
đâu” đang gia tăng và ngày càng trở nên phổ biến. Hạ tầng kỹ thuật tại các đô thị
Việt Nam rất yếu và thiếu trong đó đặc biệt là hệ thống giao thơng. Mật độ mạng
lưới đường thấp, ước tính tại các thành phố như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải
Phịng, Đà Nẵng chỉ đạt 4-5 km/km2. Tại các đô thị loại 2, 3, con số này chỉ bằng
một nửa. Bên cạnh đó, mạng lưới đường này lại phân bố khơng đều, thiếu sự liên
thông. Đường phố ngắn, lộ giới hẹp, chất lượng xấu nhưng lại nhiều giao cắt. Các
nút giao thông phần lớn là đồng mức, nhỏ hẹp lại không hợp lý nên khiến tình
trạng quá tải tại các nút càng trầm trọng. Diện tích đất dành cho giao thơng tĩnh
quá thấp dẫn đến việc thiếu bãi đỗ xe, điểm trông giữ xe cũng như các bến xe liên
tỉnh. Ước tính, tỷ lệ đất dành cho giao thơng chưa đến 10% đất xây dựng đô thị
trong khi tỷ lệ cần thiết phải là 20-25%. Gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
logistics.
– Đường bộ: Mạng lưới đường bộ Việt Nam dài khoảng 210 000 km trong đó
quốc lộ và tỉnh lộ là 56 000 km, mật độ đường bộ trên 100 km2 là 16,16km. cơ sở

còn hạ tầng đường bộ đã phát triển nhưng nó chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, còn ùn tắc cục bộ, nhiều tuyến đường còn ổ gà, chất lượng đường còn yếu
kém gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động locgistics về chi chí, thời gian, lộ trình
làm cho việc lưu chuyển hàng hóa gặp nhiều khó khăn.
– Đường sắt: Mật độ đường sắt nước ta là 0,8 km/100km2 trong đó đường sắt
Bắc Nam dài 1726 km, tuyến Hà nội – Lào Cai 230 km, tuyến Hà Nội - Hải phòng
100km. Hai tuyến trên vận tải quốc tế Hà nội – Trung Quốc là Hà Nội - Đồng
Đăng
- Bắc Kinh và Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh. Đường sắt Bắc Nam đang được củng
cố, nâng cấp nhưng hệ thống này đang ở vào thế độc tuyến. Chỉ cần một ách tắc
nhỏ tại một địa điểm sẽ làm cho cả hệ thống phải tạm dừng hoạt động.
– Đường biển: Hệ thống cảng phân bố đều ở cả ba miền với bờ biển dài 3.200
km, quy mô và tổng công suất trên nên trục triệu tấn. Mặc dù đã có những hải
cảng quốc tế như Sài Gịn, Đà Nẵng, Hải Phịng đón nhận tàu các nước ra vào
nhưng vẫn còn yếu kém, và lạc hậu gây ảnh hưởng q trình ln chuyển hàng
hóa, làm ảnh hưởng đến dịch vụ logistics. Với trên 80% hàng hóa được chuyển
qua đường sơng và đường biển, việt nam có đường bờ biển dài, nhiều sơng
nhỏ,lớn và một lợi thế nhưng bên cạnh đó hệ thống yếu kém, tình trạng tắt nghẽn
cảng biển chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường vận chuyển nó làm ảnh hưởn
rất lớn đến hoạt động logistics.
Môi trường pháp lý
Ở nước ta, có khá nhiều các văn bản pháp luật, thơng tư, nghị định cho việc thành
lập doanh nghiệp, các cơ quan quản lý chuyên ngành, tổ chức , hiệp hội, và cả các
quy định về thuế. Tuy nhiên, nhiều văn bản không chặt chẻ, rõ ràng, không theo
kịp sự phát triện cùa ngành Logistics. Như ta đã biết, logistics liên quan đến nhiều
bộ ngành như: Giao thông vận tải, Hải quan, kiểm định…mỗi bộ ban hàng những
quy định khác nhau đôi khi chồng chéo nhau gây khơng ít khó khăn cho ngành


logistic. Bên cạnh đó cơ chế quản lý hành chính, năng lực làm việc và thái độ

phục vụ của


các cơng chức quản lý cần phải thay đổi, vì đây cũng là một trong những trở lực
không nhỏ làm ảnh hường trực tiếp đến ngành Logistics Việt nam trong qua trình
hội nhập thế giới.
Nguồn nhân lực phục vụ logistics
Sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mại điện tử tại Việt Nam
Trong những năm qua, công nghệ thông tin và thương mại điện tử tại Việt Nam đã
khơng ngừng phát triển, điều này góp phần khơng nhỏ vào việc phát triển ngành
logistics. Nhờ có cơng nghệ thơng tin và thương mại điện tử mà logistics Việt
Nam trở nên linh hoạt hơn, giao thương được với nhiều quốc gia trên thế giới
cách nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian chi phí cho
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics.
Tuy nhiên bên cạnh đó việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong quản lý để nâng
cao hiệu quả logistics cũng còn nhiều hạn chế vì thế địi hỏi các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics phải linh hoạt hơn nữa, chú trọng đầu tư hơn nữa thì
sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
2.2.2 Thực trạng quản lý chất lượng dịch vụ logistic tại Việt Nam
Những năng lực mà bộ máy quản lý chất lượng dịch vụ logistics cần có là
khả năng làm việc của đội ngũ quản lý của công ty logistics, khả năng quản lý
thời gian thực hiện dịch vụ logistics, khả năng kiểm sốt chi phí logistics cho
cơng ty, sự hợp tác giữa các bộ phận liên quan khi thực hiện dịch vụ, khả năng
giải quyết tốt các sự cố bất ngờ/ngẫu nhiên.
Bộ máy quản lý chất lượng dịch vụ logistics trong doanh nghiệp
logistics Việt Nam thường gồm:
- Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý Cơng ty, có tồn quyền nhân danh
Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Cơng ty,
trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
- Ban Tổng Giám đốc: Tổng Giám đốc là người điều hành và có quyền quyết

định cao nhất về tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty
và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm
vụ được giao. Các Phó Tổng Giám đốc là người giúp việc cho Tổng Giám đốc và
chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về phần việc được phân công, chủ động
giải quyết những công việc đã được Tổng Giám đốc ủy quyền và phân cơng theo
đúng chế độ chính sách của Nhà nước và Điều lệ của Công ty.
- Trưởng phòng Quản trị chất lượng: Là người tham mưu và giúp việc cho Ban
Tổng Giám đốc, trực tiếp điều hành theo chức năng chuyên môn quản trị chất
lượng dịch vụ logistics trong công ty và theo chỉ đạo của Ban Tổng Giám đốc.
- Nhân viên phòng Quản trị chất lượng và các nhân viên thực hiện các khâu
trong quá trình cung cấp dịch vụ logistics của công ty.
Chất lượng dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung đều
có bước tiến triển rõ rệt. Các tiêu chí đánh giá LPI 2018 đều tăng ít nhất 30 bậc so
với năm 2016 bao gồm: Hải quan; Hạ tầng; Vận tải quốc tế; Chất lượng và năng
lực logistics; Giám sát và truy tìm hàng hóa và Giao hàng đúng hạn.


Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics trên thị trường đang cung cấp từ
2 đến 17 dịch vụ logistics khác nhau, chủ yếu là dịch vụ giao nhận, vận tải, kho
hàng, chuyển phát nhanh và khai báo hải quan. Khoảng 50 - 60% doanh nghiệp
đang ứng dụng các loại hình cơng nghệ khác nhau, tùy quy mơ và tính chất dịch
vụ của từng doanh nghiệp29. Tiếp tục xu hướng trong năm 2021 là sự gia tăng
mạnh mẽ của loại hình dịch vụ logistics phục vụ thương mại điện tử. Số lượng các
công ty tham gia vào khâu giao hàng chặng cuối phục vụ cho thương mại điện tử
tăng lên nhanh, đặc biệt là thương mại điện tử hàng rời, giá trị đa dạng và hàng ăn
uống.
Trong bối cảnh dịch Covid-19, một số mơ hình và loại hình dịch vụ logistics
vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điển hình như: ngành đường sắt tăng cường các dịch vụ
vận chuyển hàng hóa trong mùa dịch thay cho hành khách. Ngoài đẩy mạnh vận
chuyển hành lý, hàng bưu kiện, chuyển phát nhanh từ đặt hàng online theo tàu

khách, cịn có nhiều chuyến tàu hàng riêng, rút ngắn thời gian chạy tàu, vận
chuyển và trả hàng hóa nhanh do khơng phải dừng, tránh tàu như trước. Các
nguyên vật liệu đầu vào như apatit đến sản phẩm đầu ra như phân bón, hóa chất
của Tập đồn Hóa chất Việt Nam đều ký hợp đồng vận chuyển bằng đường sắt.
Ngoài ra, tàu container lạnh liên vận quốc tế vận chuyển thanh long chạy đều đặn
hàng tuần, thẳng từ ga Đồng Đăng sang ga Bằng Tường (Trung Quốc), khai thác
từ tháng 02/2020 với lượng hàng ổn định, là sản phẩm vận tải logistics trọn gói,
mở ra hướng xuất khẩu chính ngạch hàng trái cây và nơng sản đơng lạnh bằng
đường sắt sang Trung Quốc và từ đó đi Trung Á, Châu Âu.
Nhìn chung, chất lượng dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có sự chuyển biến
đáng kể theo hướng tích cực trong vài năm trở lại đây, trong đó, cơ sở hạ tầng về
thương mại - giao thơng, viễn thông và công nghệ thông tin cũng như chất lượng
dịch vụ logistics đến từ khu vực tư nhân được đánh giá là có những cải thiện rõ
rệt. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đánh giá tốt về Chất lượng dịch vụ
logistics và khả năng của các doanh nghiệp logistics, Khả năng truy xuất và theo
dõi lô hàng và Xác suất hàng tới nơi đúng thời gian cao, thậm chí cịn cao hơn
đánh
giá của Ngân hàng Thế giới năm 2018.


Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân có đội ngũ cán bộ quản lý trẻ nhưng có
trình độ cao và khả năng tiếp cận khoa học công nghệ một cách nhanh chóng, từ
đó có


thể học hỏi và áp dụng những công nghệ hiện đại để bắt kịp với tốc độ phát triển
của thế giới.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp logistics đang ứng dụng một số nghiên cứu khoa
học công nghệ cao vào hoạt động logistics như: Quản lý vận tải (TMS), hệ thống
định vị GPS cung cấp định tuyến cho người quản lý xa cũng như cung cấp cập

nhật thông tin lô hàng cho khách hàng; Tạo các Sàn giao dịch vận tải; Sàn giao
dịch giúp kết nối xe tải với người gửi hàng, kết nối cung (xe tải nhàn rỗi) và cầu
(chủ hàng có hàng cần gửi), giúp tận dụng tài nguyên, tiết kiệm chi phí; Hệ thống
định tuyến; Những phần mềm lập kế hoạch cho đường xe chạy, theo dõi lượng
hàng trên xe...; Quản lý kho hàng, tự động hóa đã được thiết lập ở nhiều kho, bãi
tự động hóa quy trình cơng việc bằng hệ thống quản lý kho (WMS).
Ngồi ra, không thể không kể đến nỗ lực của Nhà nước trong công tác thúc
đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp logistics phát triển được hệ thống công
nghệ thông tin hoàn thiện, tiến bộ.
2.3 Đánh giá chung
2.3.1 Ưu điểm
- Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đánh giá tốt về Chất lượng dịch vụ
logistics và khả năng của các doanh nghiệp logistics, Khả năng truy xuất và theo
dõi lô hàng và Xác suất hàng tới nơi đúng thời gian cao, thậm chí cịn cao hơn
đánh giá của Ngân hàng Thế giới năm 2018.
- Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân có đội ngũ cán bộ quản lý trẻ nhưng có
trình độ cao và khả năng tiếp cận khoa học cơng nghệ một cách nhanh chóng, từ
đó có thể học hỏi và áp dụng những công nghệ hiện đại để bắt kịp với tốc độ phát
triển của thế giới.
- Hiện nay nhiều doanh nghiệp logistics đang ứng dụng một số nghiên cứu
khoa học công nghệ cao vào hoạt động logistics như: Quản lý vận tải (TMS), hệ
thống định vị GPS cung cấp định tuyến cho người quản lý xa cũng như cung cấp
cập nhật thông tin lô hàng cho khách hàng; Tạo các Sàn giao dịch vận tải; Sàn
giao dịch giúp kết nối xe tải với người gửi hàng, kết nối cung (xe tải nhàn rỗi) và
cầu (chủ hàng có hàng cần gửi), giúp tận dụng tài nguyên, tiết kiệm chi phí; Hệ
thống định tuyến; Những phần mềm lập kế hoạch cho đường xe chạy, theo dõi
lượng hàng trên xe...; Quản lý kho hàng, tự động hóa đã được thiết lập ở nhiều
kho, bãi tự động hóa quy trình cơng việc bằng hệ thống quản lý kho (WMS).
- Ngoài ra, không thể không kể đến nỗ lực của Nhà nước trong công tác thúc
đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp logistics phát triển được hệ thống công

nghệ thông tin hoàn thiện, tiến bộ.
2.3.2 Nhược điểm
- So với các nước trên thế giới và trong khu vực, chất lượng cung ứng dịch vụ
logistics của Việt Nam vẫn chưa được đánh giá cao. Điển hình là tiêu chí về thời
gian cung ứng, hệ thống thơng tin và tính linh hoạt trong hoạt động khai thác và
quản lý dịch vụ. Thị phần của các doanh nghiệp nước ngoài và FDI vẫn đang lớn
và được tin dùng hơn các doanh nghiệp trong nước.
- Việt Nam đã và đang áp dụng hệ thống quản lý vận tải (TMS) cho dịch vụ
logistics. Về lý thuyết, hệ thống này cần có khả năng quản lý cùng lúc các hoạt


động vận chuyển hàng hóa bằng nhiều phương thức khác nhau, qua nhiều biên
giới khác nhau nhưng chỉ do một nhà điều hành thực hiện. Tuy nhiên, nhà cung
cấp TMS chuyên nghiệp tại Việt Nam vẫn rất hạn chế, việc cài đặt hệ thống cịn
gặp rất nhiều khó khăn do khả năng liên kết đồng bộ dữ liệu với các hãng tàu,
hãng hàng không, hải quan, cảng biển, cảng hàng không, và trong nội bộ các công
ty logistics quá phức tạp.
- Các công ty trong nước thường ứng dụng các hệ thống quản lý vận tải nội
địa, quản lý đội xe, sử dụng các công cụ quản lý dịch vụ giao nhận truyền thống
do các nhà cung cấp trong nước phát triển (như Fast, Vĩ Doanh FMS,…). Tỷ lệ
ứng dụng cũng chỉ dưới 10% số doanh nghiệp, đa số doanh nghiệp còn dùng
Excel tự quản lý. Các hệ thống quản lý giao nhận (FMS), quản lý vận tải (TMS),
quản lý kho hàng (WMS), quản lý nguồn lực (ERP) mới chỉ được ứng dụng một
cách manh mún chứ chưa đồng bộ, có hệ thống và việc ứng dụng điện tốn đám
mây trong quản lý thơng tin và chất lượng vẫn cịn hạn chế. Khó khăn đến từ
nhiều yếu tố như:
- Mơi trường cơng nghệ thơng tin của tồn nền kinh tế còn chưa cao nên động
lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào vào công nghệ thông tin chưa lớn.
- Do phát triển nóng nên nguồn nhân lực cung cấp cho thị trường logistic tại
Việt Nam hiện nay trở nên thiếu hụt trầm trọng. Các chương trình đào tạo, nâng

cao tay nghề trong ngành logistics hiện nay được thực hiện ở các cơ sở đào tạo
chính thức, đào tạo theo chương trình Hiệp hội và đào tạo nội bộ. Tập trung đào
tạo đội ngũ lao động có tay nghề để nâng cao hiệu quả dịch vụ logistics là hết sức
cần thiết.
- Đội ngũ quản trị dày dạn kinh nghiệm lại chưa có kiến thức bài bản chuyên
sâu, khó bắt kịp với cơng nghệ mới và đa dạng hóa dịch vụ, khả năng hoạch định
kế hoạch bền vững.


CHƯƠNG III: GIẢI HPHÁP
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực:
- Thường xuyên tổ chức những chương trình đào tạo nhân viên. Logistics
vốn là một công nghệ rất phức tạp và mang tính quốc tế cao, muốn ứng dụng
và phát triển logistics có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế
giới, thì các nhân viên cần phải có sự hiểu biết đầy đủ về logistics cũng như
vận hành nhuần nhuyễn các cung đoạn của logistics. Cho nên vấn đề đào tạo
và xây dựng nguồn nhân lực là một nhân tố rất quan trọng quyết định sự phát
triển của logistics ở Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy cần thường xuyên tổ
chức xây dựng các chương trình đào tạo kiến thức logistics, tổ chức vận hành
chuỗi dịch vụ logistics và quản lý sự vận động của chuỗi logistics cũng như
các quy định pháp lý liên quan tới hoạt động logistics cho nhân viên. Ngoài ra,
kiến thức về vận tải giao nhận truyền thống cũng cần được trang bị cho nhân
viên để phục vụ các cung đoạn trong hệ thống dây chuyền dịch vụ logistics.
Trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển logistics, một nội dung
khơng thể thiếu dó là kiến thức tin học. Việc truyền, nhận và xử lý thông tin để
ra được những quyết định đúng đắn sẽ đơn giản hóa thủ tục giấy tờ, xử lý kịp
thời tình huống nâng cao được hiệu quả hoạt động.
- Đa dạng các hình thức đào tạo. Hình thức đào tạo có thể áp dụng nhiều
hình thức như đào tạo trong nước, đào tạo ngồi nước hoặc đào tạo tại chỗ.
Các lớp đào tạo có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn, liên tục cập nhật kiến thức

cho mọi đối tượng lao động trên cơ sở đảm bảo chất lượng đào tạo mà không
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng:
- Hoàn thiện các dịch vụ đang cung cấp: Trước mắt cần hoàn thiện các
loại hình dịch vụ đang cung cấp cho khách hàng mà phổ biến hơn cả là dịch vụ
logistics đường biển và đường hàng không. Hoạt động dịch vụ logistics này
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho tất cả những người có liên quan, vì vậy, cần
phải có sự đầu tư phát triển thích đáng. Cụ thể, nhanh chóng cải tạo và nâng
cấp theo hướng hiện đại hóa những kho bãi đã có, xây dựng và phát triển kho
bãi mới ở những vị trí thuận lợi bảo đảm cho việc triển khai các nghiệp vụ
gom hàng, bảo quản, đóng gói hàng hóa, giao nhận và vận chuyển hàng hoa
bằng các phương thức vận tải.
- Đối với kho hàng, doanh nghiệp nên trang bị những máy móc theo
hướng tự động hóa, lắp đặt hệ thống điều hành bằng máy tính trong kho để vừa
đảm bảo độ chính xác, vừa giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong quản lý.
Ngoài ra, Việt Nam cần phải đa dạng các loại hình kho bãi để đáp ứng tính đa
dạng của hàng hóa trong hoạt động logistics. Các loại kho như: kho chứa hàng,
kho chứa hàng bao kiện, hàng rời có khối lượng lớn, kho chuyên dụng như kho
lạnh chứa hàng đông lạnh, kho chứa hàng tươi sống, kho chứa hàng cơng nghệ
có giá trị cao, nhất là sản phẩm kỹ thuật cao, cơ khí chính xác, thiết bị đồng
bộ. Loại kho này cần có hệ thống ngăn kệ nhiều tầng để tối ưu diện tích sử
dụng. Loại kho này hiện nay ở Việt Nam còn thiếu và trang thiết bị phục vụ
chưa đảm bảo.


- Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: Để nâng cao chất lượng dịch
vụ cung cấp, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng đã có, hiện
đại hóa các trang thiết bị phục vụ, mua sắm các trang thiết bị mới, để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc triển khai các nghiệp vụ logistics cũng như công tác
quản lý của doanh nghiệp. Các kho cần được đặt ở những địa điểm thuận lợi;

tiện cho việc lưu thơng hàng hóa bằng các phương thức vận tải, và nên xây
dựng ở những nơi khô ráo để đảm bảo an tồn cho hàng hóa vì điều kiện khí
hậu Việt Nam nóng ẩm, mưa nhiều, dễ tác động làm cho hàng hóa xuống cấp,
đặc biệt là ở khu vực miền Bắc có bốn mùa rõ rệt. Cần xây dựng những kho
trung tâm có sức chứa lớn ở một số điểm vận tải chính như các cảng, các sân
bay quốc tế để phục vụ việc lưu trữ, tập kết hàng, chờ xuất khẩu hoặc nhập
hàng, chờ phân phối đi các tỉnh thành hay các khu công nghiệp.
Chú trọng đầu tư dịch vụ khách hàng:
- Quản lý mối quan hệ khách hàng: Để quản lý tốt các mối quan hệ với
khách hàng, Việt Nam cần phải chủ động phát triển mối quan hệ hợp tác với
các khách hàng chính. Các phương pháp Việt Nam có thể sử dụng để nâng cao
quan hệ với các khách hàng chính là thiết kế các giải pháp phù hợp với từng
ngành mà khách hàng đang hoạt động theo từng khu vực; xây dựng một nhóm
quản lý khách hàng cùng với việc thiết lập các kênh liên hệ ở mức độ toàn cầu,
khu vực và từng quốc gia; thúc đẩy việc kết hợp hệ thống cơng nghệ thơng tin
của mình với khách hàng để giảm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Đầu tư xây dựng hệ thông quản lý chất lượng theo các tiêu chí:
+ Chất lượng thời gian giao hàng: Việt Nam phải xây dựng hệ thống theo
dõi thời gian giao hàng đã hứa với khách hàng để luôn đảm bảo được độ chính
xác trong việc vận chuyển, việc giao hàng, tránh việc trì hỗn hay vận chuyển
sai thời gian, gây mất uy tín và giảm lịng tin từ phía khách hàng.
+ Chất lượng bảo quản khách hàng: Khi giao sản phẩm tới khách hàng
chất lượng cũng như tính năng sản phẩm khơng bị hư hại trong q trình vận
chuyển.
+ Chất lượng chính xác: Cần đảm bảo khơng xảy ra lỗi khi làm hàng hoặc
phân phối. Tránh giao nhầm địa chỉ hay nội dung hàng hóa cũng như ghi nhầm
hóa đơn.
+ Chất lượng ngăn ngừa tai nạn: Khơng để xảy ra tai nạn giao thông, trục
trặc hệ thống trong trung tâm logistics, tai nạn lao động tại xưởng làm việc.
Đồng thời phải luôn quản lý được mức độ an tồn.

Ứng dụng cơng nghệ hiện đại trong quản lý và khai thác:
Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động logistics là
không giới hạn, từ việc theo dõi luồng vận chuyển của hàng hóa đến việc sử
dụng các thiết bị vận hành tự động trong các kho hàng. Ứng dụng thành tựu
của công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu bằng hệ thống máy tính với sự hỗ trợ
của mạng thông tin liên lạc và công nghệ xử lý thơng tin đóng vai trị sống cịn
đối với việc quản lý sự di chuyển của hàng hoa và chứng từ. Trong giai đoạn
hiện nay, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản trị
thơng tin của họ. Chính vì vậy, để đảm bảo quản lý và khai thác dịch vụ kinh
doanh có hiệu quả thì ứng dụng cơng nghệ hiện đại là hết sức cần thiết với
Việt Nam trong


việc phát triển logistics. Tổ chức cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, ứng
dụng nhiều phần mềm tin học khác nhau cho phép Việt Nam phát hiện ra các
điểm yếu trong tồn bộ chu trình lưu chuyển của hàng hóa, kiểm sốt chặt chẽ
luồng chu chuyển hàng hoa, loại bỏ được thời gian chết, thời gian lưu kho tại
các điểm chuyển tải. Vì thế việc ứng dụng cơng nghệ hiện đại trong quản lý,
khai thác dịch vụ logistics sẽ tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao được hiệu
quả cho việc điều hành hệ thống logistics của Việt Nam.



×