Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu chuyển đổi giới tính cá rô đồng Anabas testudineus (Bloch, 1972) bằng phương pháp ngâm hormone Diethylstilbestrol tại trại thực nghiệm Ninh Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.16 KB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 1/2012

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

NGHIÊN CỨU CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH CÁ RƠ ĐỒNG
Anabas testudineus (Bloch, 1972) BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGÂM
HORMONE DIETHYLSTILBESTROL TẠI TRẠI THỰC NGHIỆM NINH PHỤNG
RESEARCH ON SEX-REVERSAL OF ANABAS Anabas testudineus (Bloch, 1972)
BY SOAK METHOD IN DIETHYLSTILBESTROL HORMONE
IN NINH PHUNG RESEARCH STATION
Tô Minh Thảo1, TS. Ngơ Anh Tuấn2
TĨM TẮT
Báo cáo giới thiệu một số kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ, thời gian ngâm hormone Diethylstilbestrol
đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ cái và cái hóa của cá rơ đồng (Anabas testudineus Bloch, 1792). Cá nở sau 9, 12
và 15 ngày được ngâm Diethylstilbestrol ở 3 nồng độ 2, 4 và 6 mg/l. Kết quả cho thấy, nồng độ hormone có ảnh hưởng
đến sinh trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ cái và cái hóa của cá Anabas testudineus. Cá ngâm ở nồng độ 2 mg/l cho tỷ lệ sống cao
nhất (97,77%) và kế đến nồng độ 4 mg/l (89,70%), thấp nhất ở nồng độ 6 mg/l (87%).Tỷ lệ cái ở nồng độ 2 mg/l thấp
nhất (75,56%), kế đến 4 mg/l (83,33%) và cao nhất ở 6 mg/l (88,89%). Tốc độ sinh trưởng ở nồng độ 2 mg/l thấp nhất
(4,05 g/con), kế đến 4 mg/l (4,17 g/con) và cao nhất 6 mg/l (4,39 g/con). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các
nghiệm thức thí nghiệm trên. Do vậy, khi tính đến hiệu quả kinh tế, ngâm cá ở ngày 15 sau khi cá nở, ở nồng độ hormone
Diethylstilbestrol 6 mg/l là tốt nhất.
Từ khóa: cá rơ đồng, hormone Diethylstilbestrol, phương pháp ngâm
ABSTRACT
This paper presents some results about effects of concentration, soaking duration in Diethylstilbestrol hormone on
growth rate, survival rate, female rate and rate of femalization of anabas (Anabas testudineus Bloch, 1792). Juveniles
at 9, 12 and 15 days post-hatching were soaked in Diethylstilbestrol with three concentrations of 2, 4 and 6 mg/l. The
results showed that the concentration of hormone affected on growth rate, survival rate, female rate and rate of female
transformed of Anabas testudineus. The survival rate was the highest (97.77%) at concentration of 2 mg/l and decreased
forward at 4 mg/l (89.70%) and 6 mg/l (87%). The female rate was lowest (75.56%) at 2 mg/l, and increased


at 4 mg/l (83.33%) and reached a highest value (88.99%) at 6 mg/l of concentration. The growth rate was lowest
(4.05 g/individual) at 2 mg/l, and increased at 4 mg/l (4.17 g/individual) and reached a highest value (4.39 g/individual) at 6 mg/l of
concentration. There were significant differences between treatments above. Therefore, the fish of 15 days after hatching
soaked in Diethylstilbestrol hormone at concentration of 6 mg/l was the best in term of profit.
Key words: Anabas, hormone Diethylstilbestrol, soak method

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá rô đồng Anabas testudineus (Bloch, 1792)
là một loài cá bản địa của Việt Nam, rất được ưa
chuộng trong và ngoài nước, đặc biệt cá rơ đồng
có thịt thơm ngon và có thể chế biến được nhiều
món ăn ngon. Cá rơ đồng là lồi cá sống trong mơi
1
2

trường nước ngọt vùng nhiệt đới, phân bố khắp tất
cả các thuỷ vực như, ao, hồ, kinh, rạch, mương,
vườn, ruộng lúa… Chúng có khả năng thích nghi tốt
với điều kiện môi trường khắc nghiệt, ở những nơi
có hàm lượng Oxi thấp, có thể ni với mật độ dày,
do chúng có cơ quan hơ hấp phụ. Chúng phân bố ở

Lớp Cao học Nuôi trồng Thuỷ sản 2009 – Trường Đại học Nha Trang
Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản – Trường Đại học Nha Trang

136 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 1/2012

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: Cá rô đồng Anabas
testudineus (Bloch, 1792) sau khi nở 9, 12, 15 ngày
tuổi.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3/2010 đến
tháng 5/2011.
Địa điểm nghiên cứu: Trại thực nghiệm Ninh
Phụng- Trường Đại học Nha Trang.
Hormone dùng trong thí nghiệm: hormone
Diethylstilbestrol (DES) chuyển đổi giới tính cái do
Trung Quốc sản xuất.
Thí nghiệm ngâm cá rô đồng sau khi nở 9, 12,
15 ngày tuổi ở 3 nồng độ hormone khác nhau: 2
mg/l, 4 mg/l và 6mg/l. Thí nghiệm bao gồm 9 nghiệm
thức, mỗi nghiệm được lặp lại 3 lần.

1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu

2. Sơ đồ tóm tắt nội dung nghiên cứu

nhiều nơi trên cả nước, nhiều nhất là các tỉnh Đồng
Bằng sông Cửu Long như: Cần Thơ, An Giang,
Hậu Giang, Đồng Tháp, Bến Tre… Cá rô đồng là
đối tượng chiến lược của ngành thủy sản, nhằm
xố đói giảm nghèo vùng sâu vùng xa và các tỉnh
miền núi. Cá rô đồng nuôi thương phẩm lớn không
đồng đều giữa cá đực và cá cái: cá đực chỉ đạt kích

cỡ bằng 1/2 đến 1/3 khối lượng của cá cái. Vì vậy,
nghiên cứu chuyển đổi giới tính cá rơ đồng bằng
phương pháp ngâm Hormone Diethylstilbestrol để
tạo ra nhiều cá cái là cần thiết.

Hình1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu

- Nghiệm thức1: cá 9 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 2 mg/L
- Nghiệm thức 2: cá 9 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 4 mg/L
- Nghiệm thức3: cá 9 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 6 mg/L
- Nghiệm thức 4: cá 12 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 2 mg/L
- Nghiệm thức 5: cá 12 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 4 mg/L
- Nghiệm thức 6: cá 12 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 6 mg/L
- Nghiệm thức 7: cá 15 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 2 mg/L
- Nghiệm thức 8: cá 15 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 4 mg/L
- Nghiệm thức 9: cá 15 ngày tuổi ngâm hormone ở nồng độ 6 mg/L
- Nghiệm thức đối chứng 1 (ĐC1): cá 9 ngày tuổi, không xử lý hormone
- Nghiệm thức đối chứng 2 (ĐC2): cá 12 ngày tuổi, không xử lý hormone
- Nghiệm thức đối chứng 1(ĐC3): cá 15 ngày tuổi, không xử lý hormone

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ❖ 137


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 1/2012

3. Bố trí thí nghiệm xử lý cá bằng phương pháp
ngâm hormone Diethylstibestrol.


Khẩu phần ăn hàng ngày tùy thuộc vào sức ăn
của cá.

Ngâm cá rô đồng 9, 12, 15 ngày sau khi nở
trong bể composites (Vnước = 200 lít) có pha hormone

Khi cá hơn 30 ngày tuổi thì số lần cho ăn giảm
xuống còn 2 - 4 lần/ ngày.

DES ở 3 nồng độ khác nhau (2,0; 4,0 và 6,0) mg/l

Phương pháp kiểm tra giới tính cá

trong thời gian 3 ngày, mỗi bể ngâm 1000 con,
(mật độ 5 con/l) sau khi ngâm dùng vợt vớt ra cho
vào xô nước chuyển ra giai ương (kích thước giai
(1m x 1m x 1m) với mật độ ương: 5 con/l (4.000
con/giai)
Giai đoạn ngâm trong bể: Cho cá ăn lòng đỏ
trứng gà nghiền kỹ + 100g milkfish sử dụng cho
10.000 cá bột. Ngày 4 lần vào các thời gian 7:30,
10:30, 14:30, 17:00 giờ.

Cá sau khi nuôi được ba tháng tuổi, tiến hành
thu mẫu đại diện của mỗi lơ thí nghiệm 30 con/giai
để giải phẫu tuyến sinh dục.
Kiểm tra giới tính bằng phương pháp mơ học:
Lấy mẫu tuyến sinh dục làm tiêu bản mô học và
quan sát trên kính hiển vi để xác định cá đực, cá cái
- Cá cái: Mẫu mơ tuyến sinh dục có các đường

trịn tương đối lớn không đều nhau bắt màu hồng
đỏ.

Giai đoạn ương trong giai:
- Từ ngày 1 đến ngày 15: Cho cá ăn lòng đỏ
trứng gà nghiền kỹ + milkfish
- Từ ngày 16 đến ngày 30: Cho cá ăn milkfish +

- Cá đực: Mẫu mơ tuyến sinh dục có các chấm
đều nhau bắt màu đỏ đậm của thuốc nhuộm.
4. Phương pháp xử lý số liệu
+ Phân tích ANOVA được áp dụng để đánh giá,

bột cá nghiền mịn
- Từ ngày 31đến ngày 60: Cho cá ăn bột cá

so sánh các chỉ số tỷ lệ chuyển đổi giới tính, sinh
trưởng, tỷ lệ sống giữa các lơ thí nghiệm.

nghiền mịn
- Từ ngày 61 đến ngày 90: Cho cá ăn thức ăn
Cargil cỡ 1-3 mm

Hình 1. Cá rơ đồng

Hình 3. Giai ương ni cá thí nghiệm

138 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

+ Phần mềm thống kê SPSS 15.0, Excel được

sử dụng để phân tích số liệu nghiên cứu.

A
B
Hình 2. Mẫu mơ tuyến sinh dục cá rơ đồng cái (A) và cá đực (B)

Hình 4. Bể thí nghiệm ngâm hormone


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 1/2012

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên q trình cái hóa bằng phương pháp ngâm
Bảng 1. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên q trình cái hóa cá rơ đồng bằng phương pháp ngâm
Ngày bắt
đầu ngâm

9

12

15

Nồng
độ DES
(mg/l)

TLS sau 3 ngày ngâm

hormone (%)

TLS sau khi ương 90
ngày (%)

Tỷ lệ cái

Tỷ lệ cái hóa

(%)

(%)

0

91,27a ± 2,26

61,70a ± 1,47

45,56a ± 1,93

00

2

88,90a ± 3,34

59,17ab ± 3,82

75,56b ± 1,93


55,03b ± 4,54

4

86,73ab ± 1,55

55,33bc ± 2,02

82,22c ± 1,92

67,40c ± 2,34

6

82,97b± 2,04

53,17c ± 4,04

86,67d ± 3,34

75,49d ± 6,31

0

95,00a ± 2,52

64,17a ± 2,75

44,44a ± 1,93


00

2

90,77 ± 1,80

61,00 ± 3,61

77,78 ± 1,92

59,93b ± 4,33

4

88,30bc ± 2,19

57,00bc ± 3,28

84,44c± 1,93

72,06c ± 2,56

6

85,70c ± 0,46

54,17c ± 3,82

87,78c ± 1,92


78,07d ± 2,77

0

97,77a± 0,95

66,17a ± 2,75

44,44a ± 1,93

00

2

94,07 ± 1,89

64,33 ± 2,25

75,56 ± 1,93

56,00b ± 2,95

4

89,70bc ± 3,21

59,67bc ± 3,55

83,33c ± 3,34


69,98c ± 5,98

6

87,00c ± 4,67

56,83c ± 1,76

88,89d ± 1,92

80,03d ± 3,13

b

ab

ab

ab

b

b

Ghi chú: Giá trị trong bảng là trung bình ± sai số chuẩn (SE). Cùng cột, chữ cái viết kèm bên trên thể hiện sự sai khác: chữ cái giống nhau
thể hiện sự sai khác khơng có ý nghĩa (p>0,05), chữ cái khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05)

Kết quả từ bảng 1 và hình 1 cho thấy ở
phương pháp ngâm cá rô đồng với nồng độ

hormone DES càng cao thì tỷ lệ cái và cái hóa
càng tăng và ngược lại tỷ lệ sống càng giảm.
Tỷ lệ cái và cái hoá ở nồng độ DES 6 mg/l là
cao nhất: ngày 9 đạt (86,67%; 75,49%), ngày 12
(87,78%; 78,07%) và ngày 15 (88,89%; 80,03%),
nhưng tỷ lệ sống của cá lại thấp nhất ở nồng độ
6 mg/l, tỷ lệ sống sau khi ngâm hormone 3 ngày
và sau 90 ngày ương ở nghiệm thức cá 9 ngày
tuổi với nồng độ hormone 6 mg/L là (82,97%;
53,17%), ngày 12 (85,70%; 54,17%) và ngày 15

(87,00%; 56,83%). Tỷ lệ cái và cái hoá ở nồng độ
DES 2 mg/l là thấp nhất, ngày 9 chỉ đạt (75,56%;
55,03%), ngày 12 (77,78%; 59,93%) và ngày 15
(75,56%; 56,00%), nhưng tỷ lệ sống khi ngâm và
ương lại cao nhất, ngày 9 đạt (88,90%; 59,17%),
ngày 12 (90,77%; 61,00%) và ngày 15 (94,07%;
64,33%) Sự sai khác về tỷ lệ cái và cái hoá và
tỷ lệ sống sau khi ương có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Như vậy khi ngâm cá rô đồng ở ngày thứ 15 với
nồng độ DES là 6 mg/l cho tỷ lệ cái và cái hố ở rơ
đồng là tốt nhất (88,89% và 80,03%).

2. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên hiệu suất cái hóa bằng phương pháp ngâm
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên hiệu suất cái hóa bằng phương pháp ngâm
Hiệu suất cái hóa (%)
Ngày bắt đầu ngâm
Nồng độ ngâm


Ngày 9

Ngày 12

Ngày 15

2 mg/l

32,65a ± 4,46

36,60a ± 1,50

36,08a ± 3,16

4 mg/l

37,26ab ± 0,52

41,02b ± 1,17

41,62b ± 1,40

6 mg/l

40,22b ± 5,40

42,34b ± 4,25

45,46c ± 1,28


Ghi chú: Giá trị trong bảng là trung bình ± sai số chuẩn (SE). Cùng hàng, chữ cái viết kèm bên trên thể hiện sự sai khác: chữ cái giống
nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa (p>0,05), chữ cái khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

TRƯỜNG ĐẠI HOÏC NHA TRANG ❖ 139


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Dựa vào bảng 2 ta thấy tỷ lệ sống cùng với tỷ lệ
cái và cái hóa sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất cái hóa,
đó chính là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của một
quy trình sản xuất cá rơ đồng tồn cái. Có thể thấy
rằng các mức nồng độ hormone DES thí nghiệm ở
6 mg/l giữa các ngày (9, 12 và 15) cho hiệu suất cái
hóa cao nhất.

Số 1/2012
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngâm cá ở 15
ngày tuổi với nồng độ hormone DES 6mg/l cho hiệu
suất cái hóa cao và đạt hiệu quả tốt trong chuyển
giới tính cái cá rơ đồng.
3. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên tốc độ sinh
trưởng của cá bằng phương pháp ngâm

Bảng 3. Ảnh hưởng của nồng độ DES lên tốc độ sinh trưởng của cá sau khi ương 90 ngày
Ngày bắt đầu
ngâm

9

12


15

Nồng độ DES
(mg/l)

Khối lượng TB cá 30 ngày
tuổi (g/con)

Khối lượng TB cá 60 ngày
tuổi (g/con)

Khối lượng TB cá 90
ngày tuổi (g/con)

0

0,32a ± 0,04

1,69b ± 0,13

3,94c ± 0,42

2

0,29a ± 0,06

1,64b ± 0,10

4,00c ± 0,17


4

0,29a ± 0,06

1,60b ± 0,07

4,00c ± 0,44

6

0,28a ± 0,06

1,58b ± 0,10

4,11c ± 0,25

0

0,34a ± 0,04

1,71b ± 0,10

4,00c ± 0,33

2

0,30a ± 0,03

1,64b ± 0,09


4,02c ± 0,49

4

0,30a ± 0,03

1,59b ± 0,08

4,05c ± 0,25

6

0,29a ± 0,06

1,60b ± 0,07

4,22c ± 0,51

0

0,36a ± 0,05

1,70b ± 0,06

4,03c ± 0,34

2

0,32a ± 0,04


1,66b ± 0,10

4,05c ± 0,25

4

0,31a ± 0,04

1,60b ± 0,09

4,17c ± 0,17

6

0,29a ± 0,06

1,59b ± 0,10

4,39c ± 0,35

Ghi chú: Giá trị trong bảng là trung bình ± sai số chuẩn (SE). Cùng hàng, chữ cái viết kèm bên trên thể hiện sự sai khác: chữ cái giống
nhau thể hiện sự sai khác khơng có ý nghĩa (p>0,05), chữ cái khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Dựa vào bảng 3 ta thấy cá rô đồng phát triển
trong tháng thứ nhất và tháng thứ hai khơng có sự
khác nhau nhiều về tốc độ tăng trưởng, có thể do
ảnh hưởng của nồng độ hormone DES trong cơ thể,
tốc độ tăng trưởng cao nhất ở nồng độ 2 mg/l ngày
9 là (0,29; 1,64) g/con, ngày 12 (0,3; 1,64) g/con và

ngày 15 (0,32; 1,66) g/con, thấp nhất ở nồng độ 6
mg/l, ngày 9 là (0,28; 1,58) g/con, ngày 12 (0,29;
1,60) g/con và ngày 15 (0,29; 1,59) g/con. Chứng
tỏ trong hai tháng đầu tiên nồng độ hormone DES
càng cao thì tốc độ tăng trưởng giảm, nhưng tháng
thứ 3 thì có sự khác hồn tồn so với hai tháng đầu,
ở nồng độ 6 mg/l cá có tốc độ tăng trưởng cao nhất
giữa các ngày 9 là (4,11 g/con), ngày 12 (4,22 g/con),
ngày 15 (4,39 g/con) và thấp nhất ở nồng độ 2 mg/l,
ngày 9 (4,00 g/con), ngày 12 (4,02 g/con) và ngày
15 (4,05 g/con). Do tỷ lệ cá cái nhiều hơn, mà cá cái
có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn cá đực.
Như vậy khi ngâm cá rô đồng nồng độ DES

140 ❖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

6 mg/l ở ngày thứ 9, 12 và 15 cá tăng trưởng cao
nhất. Xét về hiệu quả: ngâm cá ở nồng độ hormone
DES 6 mg/l ở ngày ngâm thứ 15, tăng trưởng ở cá
rô đồng là tốt nhất 4,39 g/con.
4. Thảo luận
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy khi ngâm cá rô
đồng ở các ngày khác nhau với nồng độ DES càng
cao thì tỷ lệ cái và tỷ lệ cái hoá càng cao, ngược
lại tỷ lệ sống của cá khi ương lại càng thấp. Nồng
độ DES cho tỷ lệ cái và tỷ lệ cái hóa cao nhất ở 6
mg/l. Điều này cũng phù hợp với một số cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến chuyển đổi giới tính
cá của Pandian &Varadaraj, (1987) đã kết luận tỷ
lệ chết ở lồi cá rơ phi O. mossambicus tăng khi

gia tăng lượng MT. Hay Ridha & Lone (1990) xử
lý cá rô phi O. Spirulus với 4 nghiệm thức (0, 30,
50, 70) mg/l đã đi đến kết luận: tỷ lệ sống dường
như tỷ lệ nghịch với liều lượng Hormone (trích bởi


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Nguyễn Anh Dũng, 2010).
Phương pháp ngâm cá trong dung dịch
hormone DES với nồng độ thích hợp, ảnh hưởng
của hormone đồng đều lên các cá thể ở độ tuổi
biến đổi giới tính dễ thích nghi nhất của cá rơ đồng,
thời gian xử lý ngắn, hạn chế được ảnh hưởng của
nồng độ hormone. Sau xử lý hormone cá được nuôi
trong ao sinh trưởng phát triển tốt, mặt khác giảm
chi phí đáng kể về hormone. Phương pháp này cho
phép tạo quần đàn cá rô đồng cái với số lượng lớn,
bỏ qua các quá trình phức tạp, mang lại hiệu quả
kinh tế.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Ngâm cá với nồng độ hormone DES (2, 4, 6)
mg/l ở các ngày 9, 12, và 15 sau khi cá nở đều có
tác động chuyển đổi giới tính, ở nồng độ 6 mg/l ngày
15 cho tỷ lệ cái, cái hóa và hiệu suất cái hóa cao
nhất, ở nồng độ 2 mg/l tỷ lệ chuyển đổi thấp nhất.

Soá 1/2012
- Ngâm cá rô đồng nồng độ hormone DES 6
mg/l ở ngày thứ 15 cá tăng trưởng cao nhất (sau 90

ngày ương cá đạt 4,39 g/con)
2. Kiến nghị
- Do thời gian thực hiện đề tài ngắn nên chúng
tôi mới bước đầu thử nghiệm ngâm ở 3 nồng độ
hormone DES 2, 4 và 6 mg/l, cần tiếp tục nghiên
cứu ở các mức nồng độ hormon thấp và cao hơn
để có kết luận đầy đủ về nồng độ DES thích hợp
nhất và hiệu quả kinh tế nhất để chuyển giới tính ở
cá rô đồng.
- Cần tiếp tục nghiên cứu về độ tuổi của cá có
thể thấp hoặc cao hơn nữa để đạt được tỷ lệ chuyển
đổi giới tính và tỷ lệ sống tốt nhất.
- Ảnh hưởng của hormone DES làm chuyển đổi
giới tính cá rơ đồng bằng phương pháp ngâm có
ý nghĩa, nhưng kết quả chuyển đổi giới tính cá rơ
đồng chưa đạt cao. Có thể cịn một số yếu tố khác
ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển đổi giới tính cá rơ
đồng cần có nghiên cứu tiếp tục để làm sáng tỏ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Anh Dũng, Lưu Thị Dung, 2010. Đánh giá hiệu quả đực hóa cá rơ phi (Oreochromis niloticus Linnaeus) bằng phương
pháp ngâm pháp ngâm phơi trong nước có pha 17 α-Methyltestoteron tại Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ – Trường Đại học
Nha Trang ( trang 32 – 51)

2.

Đặng Khánh Hồng, Nguyễn Tường Anh, 2006. Thử nghiệm sản xuất giống cá rơ đồng (Anabas testudineus, Bloch) tồn cái.
Luận văn thạc sĩ – Trường Đại học Cần Thơ. (trang 22 – 27)


3.

Trieu, N.V và D. N. Long., 2001. Seed production technology of climbing perch (Anabas testudineus). A case study of
larval rearing. Proceeding of the 2001 annual workshop of JIRCAS Mekong delta project. November 27-29, Cuu Long Rice
Research Institute, O mon, Viet Nam. Pp: 212-213.

4.

Tuan, N.A, H.M.Hanh, L.M.Lan, D. N. Long, Đ. H. Tam, N.V. Lanh and L. T. Thanh, 2002. Premilinary results on rearing
of climbing perch (Anabas testudineus) in concrete tanks and earthern ponds. Proceeding of the 2002 annual workshop of
JIRCAS Mekong delta project. November 26-28, College of Agriculture, Can Tho University, Viet Nam. Pp: 227-230.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ❖ 141



×