Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tôm thẻ chân trắng - White Shrimp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.98 KB, 15 trang )

Tôm thẻ chân trắng - White Shrimp
Tên Tiếng Anh:White Shrimp
Tên Tiếng Việt:Tôm thẻ chân trắng
Phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidae
Giống: Litopenaeus
Loài:Lipopenaeus vannamei


Đặc điểm
Tơm chân trắng vỏ mỏng có màu trắng đục nên có tên là tơm
Bạc, bình thường có màu xanh lam, chân bị có màu trắng
ngà nên gọi tơm chân trắng. Chuỳ là phần kéo dài tiếp với
bụng. Dưới chuỳ có 2 - 4 răng cưa, đơi khi có tới 5 - 6 răng
cưa ở phía bụng. Những răng cưa đó kéo dài, đơi khi tới đốt
thứ hai.
Vỏ đầu ngực có những gai gân và gai râu rất rõ, khơng có gai
mắt và gai đi (gai telssm), khơng có rãnh sau mắt, đường


gờ sau chuỳ khá dài đôi khi từ mép sau vỏ đầu ngực. Gờ bên
chuỳ ngắn, chỉ kéo dài tới gai thượng vị.
Có 6 đốt bụng, ở đốt mang trứng, rãnh bụng rất hẹp hoặc
khơng có. Telsson (gai đi) khơng phân nhánh. Râu khơng
có gai phụ và chiều dài râu ngắn hơn nhiều so với vỏ giáp.
Xúc biện của hàm dưới thứ nhất thon dài và thường có 3 - 4
hàng, phần cuối của xúc biện có hình roi. Gai gốc (basial) và
gai ischial nằm ở đốt thứ nhất chân ngực.


Phân bố
Tôm Lipopenaeus vannamei (Bone 1931) là tôm nhiệt đới,
phân bố vùng ven bờ phía Đơng Thái Bình Dương, từ biển
Pêru đến Nam Mê-hi-cô, vùng biển Equađo; Hiện tôm chân
trắng đã được di giống ở nhiều nước Đông á và Đông Nam á
như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Indonexia, Malaixia và
Việt Nam.
Tập tính


Ở vùng biển tự nhiên, tơm chân trắng thích nghi sống nơi đáy
là bùn, độ sâu khoảng 72 m, có thể sống ở độ mặn trong
phạm vi 5 - 500/00, thích hợp ở độ mặn nước biển 28 340/00, pH = 7,7 - 8,3, nhiệt độ thích hợp 25 - 320C, tuy
nhiên chúng có thể sống được ở nhiệt độ 12 - 280C.
Tơm chân trắng là lồi ăn tạp giống như những lồi tơm
khác. Song khơng địi hỏi thức ăn có hàm lượng đạm cao như
tơm sú.
Tơm chân trắng có tốc độ sinh trưởng nhanh, chúng lớn
nhanh hơn tôm sú ở tuổi thành niên. Trong điều kiện tự nhiên
từ tôm bột đến tôm cỡ 40 g/con mất khoảng thời gian 180
ngày hoặc từ 0,1 g có thể lớn tới 15 g trong giai đoạn 90 120 ngày. Là đối tượng nuôi quan trọng sau tôm sú.
Sinh sản
Tôm chân trắng thành thục sớm, con cái có khối lượng từ 30
- 45 g/con là có thể tham gia sinh sản. Ở khu vực tự nhiên có
tơm chân trắng phân bố thì quanh năm đều bắt được tôm


chân trắng. Song mùa sinh sản của tôm chân trắng ở vùng
biển lại có sự khác nhau ví dụ: ở ven biển phía Bắc Equađo
tơm đẻ tử tháng 12 đến tháng 4. Lượng trứng của mỗi vụ đẻ

phụ thuộc vào cỡ tôm mẹ: Nếu tôm mẹ từ 30 - 45g thì lượng
trứng từ 100.000 - 250.000 trứng, đường kính trứng 0.22mm.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng tôm lại phát triển tiếp.
Thời gian giữa 2 lần đẻ cách nhau 2 - 3 ngày. Con đẻ nhiều
nhất tới 10 lần/năm. Thường sau 3 - 4 lần đẻ liên tục thì có
lần lột vỏ. Sau khi đẻ 14 - 16 giờ trứng nở ra ấu trùng
Nauplius. ấu trùng Nauplius trải qua 6 giai đoạn: Zoea qua 3
giai đoạn, Mysis qua 3 giai đoạn thành Postlarvae. Chiều dài
của Postlarvae tôm P.Vannamei khoảng 0,88 - 3mm.
Hiện trạng
Sản lượng khai thác tự nhiên
Có nhiều nước Mỹ La Tinh ở bờ Đơng Thái Bình Dương có
nghề khai thác tơm chân trắng như Pêru, Equađo, El
Sanvado, Pa-na-ma, Costa Rica. Do nguồn lợi tơm rất ít và


lại biến động nên nghề khai thác tôm không phát triển. Năm
1992 - 1993 có sản lượng kỷ lục là 14 nghìn tấn và năm 1999
lại tăng lên 8 nghìn tấn. Nhìn chung sản lượng khai thác tự
nhiên khơng đáng kể. Nguồn lợi tôm tự nhiên được khai thác
chủ yếu là tôm bố mẹ phục vụ cho nghề nuôi tôm nhân tạo
rất phát triển ở khu vực. Ngoài ra việc vớt tôm giống tự nhiên
phục vụ nuôi tôm nhân tạo cũng có vai trị quan trọng. Do đó
các nước đã chuyển sang nuôi chủ yếu.

Hiện trạng nghề nuôi tôm he chân trắng
Tơm he chân trắng là lồi tơm được ni phổ biến nhất
(chiếm hơn 70% các lồi tơm he Nam Mỹ) ở Tây bán cầu
(Wedner và Rosenberry, 1992). Sản lượng tôm chân trắng chỉ
đứng sau tổng sản lượng tôm sú nuôi trên thế giới. Các quốc

gia châu Mỹ như Equađo, Mê-hi-cơ, Pa-na-ma… là những
nước có nghề ni tơm chân trắng phát triển từ đầu những
năm 90, trong đó Equađo là


quốc gia đứng đầu về sản lượng, riêng năm 1998 đạt 191.000
tấn. Hiện nay, giá trị xuất khẩu tôm chân trắng ước tính trên
1 kg bằng 81% so với tơm sú (khoảng 8 USD/kg so với 10
USD/kg).
Các nước nuôi chủ yếu
ở châu Mỹ có 12 quốc gia ni tơm chân trắng. Vào thời kỳ
hưng thịnh (1998) sản lượng của chúng chiếm hơn 90% sản
lượng tôm nuôi ở Tây Bán cầu. Sau đây là các nước nuôi cho
sản lượng cao.

1. Equađo:
Từ lâu Equađo đã là nước nuôi tôm nổi tiếng trên thế giới và
luôn luôn ở tốp dẫn đầu cho tới năm 1999. Nuôi tôm là ngành
sản xuất lớn và là nguồn xuất khẩu lớn thứ ba của quốc gia
này (đứng sau dầu khí và chuối). Cơng nghiệp ni tơm phát
triển ngay từ cuối thập kỷ trước. Đến năm 1991 sản lượng
tôm nuôi (95% là tôm chân trắng) đã là 103 nghìn tấn đứng


thứ tư thế giới. Dịch bệnh tôm nuôi năm 1993 (Hội chứng
Taura TSV) đã tàn phá các ao nuôi tôm tập trung dọc hai bờ
con sông Taura làm sản lượng giảm 1/3. Chỉ sau 2 - 3 năm
Equađo đã khôi phục lại được nghề nuôi tôm chân trắng và
sản lượng tăng rất nhanh lên 120 nghìn tấn năm 1998 và 130
nghìn tấn năm 1999 chiếm 70% sản lượng tơm chân trắng

của châu Mỹ. Sang năm 1999 đại dịch bệnh đốm trắng phát
triển và cao điểm là năm 2000. Không chỉ Equađo bị tổn thất
nặng nề mà các nước khác như Pêru, Mê-hi-cô, Pa-na-ma,
El.Sanvado… đều bị tổn thất lớn. Sản lượng tôm chân trắng
bị thiệt hại do vi rút đốm trắng khoảng 100 nghìn tấn. Sản
lượng tơm chân trắng của Equađo năm 2000 chỉ cịn khoảng
35 nghìn tấn. Tổn thất của Equađo ước tính khoảng 500 - 600
triệu USD. Equađo từ vị trí số 2 thế giới (1998) về sản lượng
tơm ni đã nhanh chóng xuống vị trí thứ 6 (2000). Khả năng
quay lại thời kỳ hoàng kim năm 1998 là rất khó khăn, tốn
kém và lâu dài. Họ đang tính tới việc chuyển các ao tôm bị
bệnh năng sang nuôi cá rô phi hồng xuất khẩu. Nhiều ngư


dân nuôi tôm giỏi đã di cư sang các nước khác để hành nghề
như Brazil, Cơlơmbia…..
Mặc dù có thời kỳ đã từng là nước ni tơm lớn thứ nhì thế
giới, nhưng Equađo vẫn chọn phương thức nuôi chủ yếu là
bán thâm canh với năng suất trung bình khoảng 700 - 800
kg/ha. Tuy công nghiệp sản xuất tôm giống được xếp vào
hàng đầu ở châu Mỹ và thế giới, nhưng chỉ đáp ứng 70% nhu
cầu, cịn lại ngư dân vớt tơm giống tự nhiên.
2. Mê-hi-cô
Trước đây Mê-hi-cô chỉ quan tâm tới khai thác tơm tự nhiên
ở Vịnh Mếch Xích để xuất khẩu sang Mỹ. Thành công lớn
của Equađo về nuôi tôm chân trắng xuất khẩu không chỉ tạo
ra phong trào nuôi rầm rộ ở Mê-hi-cơ mà cịn ở hàng loạt các
nước Mỹ La Tinh (kể cả Mỹ). Mê-hi-cơ nhanh chóng trở
thành nước ni tơm chân trắng lớn thứ nhì châu Mỹ với sản
lượng tăng rất nhanh từ 2 nghìn tấn năm 1990 lên 16 nghìn

tấn năm 1994 rồi 24 nghìn tấn năm 2000. Nếu không bị dịch


bệnh đốm trắng thì có thể sản lượng tơm chân trắng của Mêhi-cơ đã vượt 30 nghìn tấn. Chương trình đầy tham vọng về
nuôi tôm chân trắng xuất khẩu của Mê-hi-cô đã bị chặn lại do
dịch bệnh tôm năm 2000 vừa qua.
3. Pa-na-ma
Đứng hàng thứ ba về nuôi tôm chân trắng với sản lượng năm
1999 là 10 nghìn tấn. Tuy nhiên, dịch bệnh đốm trắng cũng
không trừ tôm nuôi của quốc gia này. Sản lượng năm 2000
chỉ đạt còn 7 nghìn tấn.
4. Các nước khác
Tiếp theo 3 nước dẫn đầu về nuôi tôm chân trắng là Equađo,
Mê-hi-cô, và Pa-na-ma là các nước Mỹ La Tinh khác như
Belize, Venezuela, Pêru, Côlômbia….. Các nước này đều có
các kế hoạch đầy tham vọng về phát triển nuôi tôm chân
trắng xuất khẩu sang Mỹ. Như đã nêu, dịch bệnh đốm trắng
đã lan rộng ra khắp châu Mỹ trong 2 năm 1999 - 2000 đã gây
tổn thất lớn cho nhiều nước mới bắt đầu phát triển. Nếu


khơng sớm tìm được các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và
phịng ngừa dịch bệnh thì có thể phong trào nuôi tôm chân
trắng ở khu vực vừa mới phát động rất sôi nổi sẽ bị ảnh
hưởng lớn.
5. Tôm chân trắng đang được di giống từ Đơng sang Tây
Thái Bình Dương
Sau khi được nhiều nước châu Mỹ nuôi nhân tạo thành cơng
và có hiệu quả cao, tơm chân trắng được di giống sang nuôi ở
Hawai và Hoholulu của Mỹ. Từ đây tôm chân trắng lan sang

Đông á và Đông Nam á. Trung Quốc là nước châu á quan
tâm tới tôm chân trắng sớm nhất. Từ năm 1998 họ đã công
bố nuôi tôm chân trắng thành công và sẵn sàng chuyển giao
công nghệ (cung cấp con giống và kỹ thuật nuôi) cho các
nước châu á nào muốn nhập nội. Năm 2000 vừa qua có thơng
tin nói rằng Trung Quốc đã xuất khẩu sản phẩm tôm chân
trắng, nhưng không rõ nhiều hay ít. Tuy nhiên, ở thị trường
nội địa của Trung Quốc thì người tiêu dùng chưa mặn mà với


đối tượng này. Nhiều nước châu á khác như Philippin,
Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Việt Nam…. cũng đã nhập
nội tôm chân trắng để ni với hy vọng đa dạng hố các sản
phẩm tơm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy
phần lớn vào tôm sú như hiện nay.
Đôi nét về ngoại thương tôm chân trắng
Tôm chân trắng là đối tượng quý hiếm có giá trị rất cao, có
thị trường lớn và đang mở rộng. Trước khi có đại dịch bệnh
đốm trắng năm 2000, sản lượng tôm chân trắng chỉ đứng sau
tôm sú và là đối tượng nuôi và xuất khẩu chủ yếu của hàng
chục nước ở châu Mỹ. Trước đây về giá trị tôm chân trắng
ngang hàng với tôm sú. Tuy nhiên, gần đây người tiêu dùng
Mỹ ưa chuộng tôm sú của Châu á nên giá trị của tơm chân
trắng có phần giảm sút (theo FAO năm 1999 giá trị trung
bình tơm chân trắng ngun liệu là 5,5 USD/kg trong khi tôm
sú là 6,5 USD/kg). Equađo là nước xuất khẩu tôm chân trắng
lớn nhất với khối lượng kỷ lục là 114 nghìn tấn năm 1998 với


giá trị 852 triệu USD, giá trung bình xuất khẩu là 8 USD/kg.

Tuy nhiên, chỉ sau một năm xuất khẩu giảm 70%. Khối
lượng tôm chân trắng xuất khẩu sang Mỹ năm 1998 là 65
nghìn tấn sang năm 2000 chỉ cịn 17 nghìn tấn.
Hầu hết các nước ni tơm chân trắng xuất khẩu đều bị thiệt
hại lớn trong năm 2000. Trước đây hầu như chỉ có thị trường
Mỹ là nơi nhập khẩu chủ yếu tôm chân trắng của các nước
Mỹ La Tinh. Từ giữa thập kỷ 90 và đặc biệt là sau khi thị
trường tôm Nhật Bản suy yếu, tôm sú châu á tràn sang Mỹ.
Với nhiều ưu thế hơn nên tôm sú châu á đã cạnh tranh gay
gắt với tôm chân trắng của Châu
Mỹ. Các nhà xuất khẩu tôm chân trắng Châu Mỹ buộc phải
tìm thị trường mới. EU và Nhật Bản mở rộng cửa đón nhận
các sản phẩm tơm chân trắng chủ yếu là chất lượng vẫn tốt
mà giá lại mềm hơn tôm sú. Như vậy, hiện nay tuy Mỹ vẫn là
thị trường chính, nhưng thị phần chỉ cịn 60 - 70%, Tây Ban
Nha, Pháp, Nhật Bản…. là các thị trường quan trọng cho tôm


chân trắng của châu Mỹ. Tôm chân trắng (P.vannamei) cùng
với tốm sú (P.monodon) và tôm he Trung Quốc (P.chinensis)
là ba đối tượng nuôi quan trọng nhất của nghề nuôi tôm thế
giới ở thời kỳ hiện tại. Do có giá trị dinh dưỡng rất cao, dễ
nuôi, lớn nhanh và khối lượng cá thể lớn nên tôm chân trắng
được nuôi phổ biến ở Tây Bán cầu khơng kém gì tơm sú ở
châu á.
Ngồi Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất, tơm chân trắng cịn
có thị trường quan trọng là EU và Nhật Bản. Tuy bị tôm sú
cạnh tranh rất gay gắt, nhưng tôm chân trắng vẫn được người
tiêu dùng ở các thị trường lớn ưa chuộng và nhu cầu vẫn cao.
Tôm chân trắng đang được nhiều nước nuôi tôm ở châu á

quan tâm di giống thuần hố và phát triển ni quy mơ lớn
nhằm đa dạng hố các sản phẩm xuất khẩu, hạn chế dần sự
độc tôn của tôm sú.Khi quảng cáo cho việc chuyển giao công
nghệ nuôi tôm chân trắng người ta thường chỉ đưa ra các ưa
việt của chúng. Thực ra tơm chân trắng cũng có những nhược


điểm lớn về khả năng chịu bệnh. Lịch sử nuôi tơm chân trắng
ở châu Mỹ tuy cịn ngắn ngủi nhưng đã phải nếm trải hai lần
dịch bệnh rất nghiêm trọng. Hội chứng Taura năm 1992 1993 đã được khắc phục nhanh, nhưng các năm 1999 - 2000
vừa qua căn bệnh đốm trắng lan rộng gây thiệt hại rất nghiêm
trọng. Việc khắc phục hậu quả là khó khăn và tốn kém. Khả
năng quay lại được mức năm 1998 còn phải chờ đợi. Một số
địa phương ở nước ta đã nhập nội tơm chân trắng từ nhiều
nguồn vào ni thí nghiệm. Việc thu thập đầy đủ các thông
tin về đối tượng này, việc rút ra các kinh nghiệm về thành
công và thất bại của nghề nuôi tôm chân trắng của các nước
Châu Mỹ là rất quan trọng.



×