Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống (Penaeus monodon Fabricius, 1789) tại tỉnh Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2013

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÔM SÚ
GIỐNG (Penaeus monodon Fabricius, 1789) TẠI TỈNH CÀ MAU
STATUS AND SOLUTION TO IMPROVE SEED QUALITY OF BLACK TIGER SHRIMP
(Penaeus monodon Fabricius, 1789) IN CAMAU PROVINCE
Tiết Tiến Dũng1, Lại Văn Hùng2
Ngày nhận bài: 17/10/2012; Ngày phản biện thơng qua: 26/11/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013

TĨM TẮT
Điều tra hiện trạng kỹ thuật của nghề sản xuất giống tôm sú tại Cà Mau được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6 năm
2010. Trong nghiên cứu này, 60 trong tổng số hơn 800 trại sản xuất tôm sú giống được điều tra ngẫu nhiên bằng phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) nhằm tìm hiểu hiện trạng và đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng tôm giống tại địa phương. Kết quả điều tra cho thấy, cơ sở trang thiết bị phục vụ sản xuất
giống tôm sú cơ bản là đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật tuy cịn có sự chênh lệch giữa các trại và phụ thuộc vào quy mô
và khả năng đầu tư của chủ trại. Tôm sú bố mẹ được khai thác từ các vùng biển xa bờ sau đó được vận chuyển và xử lý
hóa chất trước khi thả ni. Số lượng tôm bố mẹ qua kiểm dịch của các cơ quan chức năng còn chiếm tỷ lệ thấp. Ấu trùng
mới nở được xử lý bằng formol (100 - 200 ppm) hoặc iodine (50 ppm). Cỡ tôm giống xuất thường ở giai đoạn Postlarvae
(PL) 8 - 12 với tỷ lệ sống tới giai đoạn PL 10 đạt khoảng 23 - 65%. Sản lượng PL hàng năm đạt khoảng 5 - 7 tỷ con đáp
ứng khoảng 1/3 nhu cầu tôm giống trong tỉnh. Nghiên cứu cũng đề xuất nhiều giải pháp liên quan đến kỹ thuật và quản lý
nhằm nâng cao chất lượng tơm giống tại Cà Mau.
Từ khóa: Cà Mau, chất lượng giống, giải pháp, kỹ thuật, Penaeus monodon, tôm bố mẹ, tôm sú

ABSTRACT
Investigation into technical status of seed production industry of black tiger shrimp in Ca Mau province was
conducted from January to June in 2010. In this survey, 60 hatcheries in the total of over 800 black tiger shrimp hatcheries
were randomly selected and surveyed by the Rapid Rural Appraisal (RRA) and Survey Questionnaire (SQ) methods in


order to learn about technical status and suggest solutions to improvement of seed quality in the locality. The result showed
that, facilities and conditions for black tiger shrimp seed production in the area were basically satisfied the technical
requirements although there were still different levels among hatcheries and depending on scales and capital investiment
levels of farm owners. Black tiger shrimp broodstocks were exploited from open sea and then transported and chemical
treated before stocking. The number of broodstocks quarantined by appropriate authorities still accounted for a low rate.
Newly hatched larvae were treated by formol (100 - 200 ppm) or iodine (50 ppm). Selling postlarvae were often at the
stages of 8 to 12 with survival rates ranging between 23 - 65%. Total annual postlarvae production were around 5 - 7
billions, which met about one third of the provincial demand. The survey also put forward a large number of solutions
related to techniques and managements in order to improve black tiger shrimp seed quality in Ca Mau.
Keywords: Ca Mau, black tiger shrimp, broodstock, P. monodon, seed quality, solution, techniques
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm
nuôi trồng thủy sản của cả nước với 2 nhóm đối
tượng chủ lực là cá da trơn và tôm he [3]. Nghề nuôi
tôm he nói riêng và tơm sú nói chung đã và đang giữ
1
2

một vai trị quan trọng trong việc tạo cơng ăn việc
làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của
nhiều cộng đồng dân cư ven biển. Cà Mau là địa
phương hội tụ đầy đủ các điều kiện tự nhiên thuận
lợi để phát triển nghề sản xuất giống và nuôi tôm sú

Tiết Tiến Dũng: Lớp Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
PGS.TS. Lại Văn Hùng: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89



Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
thương phẩm [5, 14]. Sự phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ của nghề nuôi tôm sú thương phẩm đã
đặt ra nhiều vấn đề thách thức không nhỏ cho sự
phát triển của ngành liên quan đến việc giải quyết
ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và nâng cao chất
lượng tôm giống [13, 16].
Hiện tại, đã có nhiều trại sản xuất tơm sú giống
ở Cà Mau hoạt động có hiệu quả với sản lượng mỗi
năm khoảng 5 - 7 tỷ con giống. Tuy nhiên, nhu cầu
con giống thực tế tại địa phương cần khoảng 15 - 17
tỷ con mỗi năm [5, 15]. Do đó, gần 2/3 lượng tôm
sú giống phải nhập từ các địa phương khác mà chủ
yếu là từ các tỉnh Nam Trung Bộ. Một thực trạng
hiện nay là do đầu tư thiếu đồng bộ và sự quản lý
còn nhiều bất cập dẫn đến số lượng con giống sản
xuất ra tại địa phương vừa thiếu về số lượng và
yếu về chất lượng [5, 9, 16]. Trong khi đó, việc mua
giống từ các tỉnh Nam Trung Bộ thường kèm chi
phí cao và rủi ro trong quá trình vận chuyển do thời
gian và quãng đường dài. Do đó, nhiều thương lái
đã tiến hành vận chuyển tơm giống không rõ nguồn
gốc, không qua chứng nhận kiểm dịch từ các cơ
quan chức năng, tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm dịch
bệnh và nhiều trường hợp đã gây thiệt hại lớn cho
người ni [5].
Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc nâng cao
chất lượng tơm sú giống đó là việc chưa chủ động
tạo nguồn tôm sú bố mẹ sạch bệnh [8, 16]. Đã có
một số nghiên cứu trong nước thực hiện nhằm sản

xuất đàn tôm bố mẹ sạch bệnh nhưng cho đến nay
vẫn chưa được ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn
[22]. Trong khi đó, nguồn tơm sú bố mẹ nhập khẩu
thường có chi phí rất cao, thủ tục nhập khẩu phức
tạp và chất lượng tôm bố mẹ nhiều khi khơng ổn
định [16]. Trong q trình sản xuất, do chạy đua
với lợi nhuận, nhiều trại sử dụng nguồn tôm bố mẹ
không rõ nguồn gốc và chất lượng kém. Hơn nữa,
nhiều trại cịn tiến hành cho tơm mẹ đẻ nhiều lứa,
ương nuôi với mật độ dày, lạm dụng thuốc kháng
sinh và hóa chất và xuất tơm khơng có chứng nhận
kiểm dịch của các cơ quan chức năng [18]. Hậu quả
là, nguy cơ tôm nhiễm bệnh, năng suất, sản lượng
và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm sú tại Đồng
bằng Sông Cửu Long bị ảnh hưởng rất lớn trong
thời gian gần đây [18]. Cà Mau là địa phương có
tiềm năng rất lớn để trở thành một trong những vùng
nuôi sản xuất giống và nuôi tôm lớn nhất cả nước,
tuy nhiên, cần có những giải pháp đồng bộ để thúc
đẩy tiềm năng này [14]. Chính vì vậy, nghiên cứu
được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng và đề xuất
các giải pháp nâng cao chất lượng tơm sú giống tại
Cà Mau.

90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 2/2013
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện thông qua phương
pháp điều tra thu mẫu từ tháng 1 đến tháng 6 năm

2010. Số liệu thứ cấp về tình hình sản xuất giống
tơm sú được thu từ Sở và các Phịng Nơng nghiệp
và Phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
Trong nghiên cứu này, 60 trại sản xuất tôm sú giống
trên địa bàn tỉnh được chọn ngẫu nhiên để tiến hành
điều tra bằng phương pháp đánh giá nhanh nông
thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ)
[21, 26]. Những thông tin chính được thu thập gồm:
thơng tin chung về chủ trại, hệ thống cơng trình và
trang thiết bị của trại giống, kỹ thuật xử lý nước, tôm
bố mẹ, kỹ thuật cho đẻ và ương ấu trùng, các biện
pháp phòng trị bệnh,… Các số liệu sau khi thu được
tổng hợp và phân tích bằng phần mềm Microsoft
Excel 2003 nhằm khái quát hiện trạng từ đó đề xuất
các giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống tại
tỉnh Cà Mau. Các số liệu được trình bày dưới dạng
trung bình ± độ lệch chuẩn, sai khác giữa các trung
bình được thể hiện bằng các chữ cái (a, b, c) trong
cùng một cột (P < 0,05).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Trình độ của người sản xuất tôm sú giống ở
Cà Mau
Kết quả điều tra 60 trại sản xuất tôm sú giống cho
thấy, nhân lực có trình độ chun mơn (từ trung cấp
trở lên) trong các trại tơm sú giống thường có chiếm
tỷ lệ rất thấp chỉ 12% trong khi số người khơng có
trình độ chun mơn chiếm tỷ lệ cao (88%). Những
người khơng có trình độ chun mơn thường vận
hành trại giống dựa trên kinh nghiệm của bản thân,
trao đổi với những trại xung quanh, tham gia các lớp

tập huấn hoặc hội thảo do các công ty hoặc Trung
tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tổ chức. Mặc dù
chiếm tỷ lệ thấp, nhưng sản lượng tôm giống sản
xuất ra từ các trại có trình độ chun mơn lại chiếm
số lượng lớn hơn 25,6±1,28 so với 21,0 ± 1,29 triệu
giống (P < 0,05).
2. Hiện trạng kỹ thuật nghề sản xuất giống tôm
sú tại Cà Mau
2.1. Hệ thống trại sản xuất
Cơ sở trang thiết bị phục vụ sản xuất giống
tôm sú ở các trại là khá đầy đủ và tùy thuộc vào
quy mô của trại giống. Nhìn chung bể ni vỗ tơm
bố mẹ và ương ni ấu trùng là các bể xi măng có
dạng hình vng và hình chữ nhật. Tổng thể tích bể
ương dao động trong khoảng 60 - 300 m3/trại. Kết
quả điều tra cũng cho thấy, sản lượng tơm sú giống
có tương quan thuận với thể tích bể ương của trại.


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2013

Trại giống có thể tích lớn hơn cho sản lượng tơm
giống cao hơn: với trại có thể tích 140 - 270 m3 cho
sản lượng 26,9 ± 1,17 triệu giống/năm trong khi các
trại có thể tích nhỏ hơn 90 - 140 m3 và 60 - 90 m3
cho sản lượng thấp hơn lần lượt là 23,2 ± 1,36 và
20,6 ± 1,68 triệu giống/năm (P<0,05).
2.2. Chuẩn bị trại sản xuất

Vệ sinh trại đóng vai trò rất quan trọng và ảnh
hưởng lớn đến sự thành cơng của đợt sản xuất.
Trước khi sử dụng, tồn bộ trại (trại, bể ương và
dụng cụ) được vệ sinh, khử trùng bằng xà phịng,
formol, chlorine và thuốc tím. Các trại sử dụng
phương pháp cơ học và hóa học để xử lý nước. Sau
khi bơm nước vào, nước được chứa trong bể chứa
2 - 3 ngày, sau đó được xử lý bằng hóa chất chlorine
(20 - 50 ppm) hay thuốc tím (0,5 - 1,5 ppm). Hàm
lượng hóa chất sử dụng tương tự với khuyến cáo
của các cơ quan chức năng 20 - 30 ppm, và thường
cao hơn trong trường hợp bị nhiễm bệnh hay nước
chứa nhiều phù sa [6,7]. Sau khi xử lý hóa học,
nước được đưa qua hệ thống lọc cát trước khi cấp
cho hoạt động ương ni của tồn bộ trại giống. Về
cơ bản, kỹ thuật xử lý nước trong các trại giống ở
Cà Mau đơn giản hơn so với các trại ở Nam Trung
Bộ nơi các kỹ thuật xử lý nước hiện đại như lưới
siêu lọc, lọc cát áp lực cao, lọc sinh học tuần hịa,
đèn cực tím và xử lý vi sinh được sử dụng nhằm tạo

môi trường an toàn nhất cho sản xuất giống [10, 19].
2.3. Hiện trạng sử dụng tôm bố mẹ
Nguồn tôm sú bố mẹ cung cấp cho các trại giống
ở Cà Mau hoàn toàn được khai thác từ tự nhiên, tại
các vùng biển xa bờ. Kích thước tơm bố mẹ dao động
từ 150 - 270 g/con. Quan sát ảnh hưởng của kích
cỡ tơm bố mẹ (150 - 220 g/con và 220 - 270 g/con)
đến sản lượng tơm giống cho thấy nhóm kích thước
lớn hơn cho sản lượng tơm giống cao hơn so với

nhóm kích thước nhỏ (24,8 ± 1,22 và 19,9 ± 1,43
triệu giống, P < 0,05). Kết quả này là phù hợp với
các nghiên cứu trước đó khi cho rằng kích thước tôm
bố mẹ tỷ lệ thuận với sức sinh sản, số lần đẻ và sản
lượng ấu trùng thu được [11, 20, 24, 25]. Tùy theo
mức độ đầu tư và quy mô trại giống mà các trại sử
dụng nguồn tôm bố mẹ có kích thước và chất lượng
khác nhau, trong đó, nhóm tơm có kích thước lớn
(220 - 270 g/con) chiếm tỷ lệ đến 80% số trại điều tra.
Tôm bố mẹ thường được ni trong các bể có
thể tích 4 - 6 m3, mật độ nuôi 4 - 8 con/m2. Thức ăn
cho tôm mẹ thường là các loại động vật biển giàu
dinh dưỡng như: hàu, giun nhiều tơ, mực,... Đây
đều là các loại thức ăn giàu axít amin và axít béo
thiết yếu cho q trình thành thục sinh dục của tơm
mẹ [12]. Tùy loại thức ăn mà số lần cho ăn có thể
dao động 2 - 4 lần/ngày với lượng cho ăn đến no tùy
theo nhu cầu của tôm.

Bảng 1. Hiện trạng sử dụng tôm sú bố mẹ tại Cà Mau (n = 60)
Chỉ tiêu

Kích thước và tuổi tơm bố mẹ
- Tơm bố (g/con)
- Tôm mẹ (g/con)
Thức ăn và tỷ lệ cho ăn (%)
Mật độ ni (con/m2)
Số lần cho ăn (lần/ngày)

Trung bình/khoảng dao động


67,5 ± 11,1 (55 - 75)
232 ± 35,8 (150 - 270)
Giun nhiều tơ (9,7%), hàu (5,2), mực (4,4%)
5,4 ± 2,1 (4 – 8)
2–4
và tảo khô (25%) hay thức ăn tổng hợp, tảo khô và
Artemia (75%). Thức ăn tổng hợp khá đa dạng và thường
được phối trộn nhiều loại thức ăn (Frippak, Lansy, tảo
khô Spirulina,…) với nhau nhằm khắc phục nhược
điểm của mỗi loại thức ăn và giảm chi phí sản xuất.

2.4. Hiện trạng ương nuôi ấu trùng
Thức ăn sử dụng cho ương nuôi ấu trùng tôm sú
thường là sự kết hợp giữa thức ăn tổng hợp và thức
ăn sống. Hai kiểu kết hợp chủ yếu được sử dụng trong
các trại tôm sú giống hiện nay là thức ăn tổng hợp

Bảng 2. Hiện trạng ương ấu trùng tôm sú tại Cà Mau (n = 60)
Chỉ tiêu

- Thể tích bể ương
- Phương pháp xử lý Nauplius
- Mật độ ương (con/L)
- Số lần cho ăn (lần)
- Chế độ thay nước (%/ngày)
- Tỷ lệ sống đến Postlarvae 10 (%)

Trung bình/khoảng dao động


3-5m
Formol (100 - 200 ppm) hay Iodine (50 ppm)
150 - 220
6-8
15 - 40%
36,7 ± 21,2 (23 - 65)
3

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2013

Giai đoạn đầu, ấu trùng được cho ăn bằng tảo
khô, thức ăn tổng hợp được sử dụng từ giai đoạn
Mysis có thể kết hợp với Artemia tùy theo mức
độ đầu tư và quy mô từng trại. Ở tất cả các trại,
ấu trùng tôm đều được cho ăn 6 - 8 lần/ngày. Kết
quả điều tra cũng cho thấy, khi bổ sung Artemia,

sản lượng giống thu được cũng cao hơn so với
không sử dụng loại thức ăn này (25,2 ± 1,23 và
21,4 ± 1,36; P<0,05). Nguyên nhân là do Artemia
là loại thức ăn sống giàu dinh dưỡng và hiện vẫn
chưa thể có loại thức ăn tổng hợp nào thay thế
được [12].

Bảng 3. Sản lượng tôm sú giống ương bằng các loại thức ăn khác nhau (n = 60)

Loại thức ăn

Số mẫu

Tỷ lệ (%)

Sản lượng tôm giống (triệu con)

Tảo khô + tổng hợp

15

25

21,4 ± 1,36a

Tảo khô + tổng hợp + Artemia

45

75

25,2 ± 1,23b

vật chất của trại... Mật độ ương ấu trùng thường
Mật độ ương ni ấu trùng cũng có sự biến
dao động từ 150 - 220 con/L. So với khuyến cáo,
động giữa các trại và bị chi phối bởi chất lượng
mật độ ương giống tôm sú ở đây là khá cao,
nước, sức sinh sản của tôm mẹ, giai đoạn ấu

tôm sú tùy theo giai đoạn nên ương ở mật độ
trùng, thức ăn, thời vụ thả giống, trình độ và
40 - 200 con/L [12].
kinh nghiệm của kỹ thuật viên, điều kiện cơ sở
Bảng 4. Sản lượng tôm sú giống thu được ở các mật độ ương khác nhau (n=60)
Mật độ ương ấu trùng (con/L)

Sản lượng tôm giống (triệu)

150 – 180

20,6 ± 1,74a

180 – 200

23,0 ± 1,22b

200 – 220

26,3 ± 1,17c

Kết quả điều tra cho thấy, mật độ ương có ảnh
hưởng đến sản lượng tơm sú giống. Các trại sản
xuất giống ương nuôi với mật độ từ 200 - 220 con/L
cho sản lượng tôm sú giống cao nhất (26,3 triệu),
các trại sản xuất giống ương nuôi với mật độ
180 - 200 con/L cho sản lượng thấp hơn (23 triệu) và
các trại sản xuất ương nuôi với mật độ 150 - 180 con/L
cho sản lượng tôm sú giống thấp nhất (20,6 triệu).
2.5. Hiện trạng quản lý môi trường và phịng trừ

dịch bệnh
Quản lý mơi trường:
Các yếu tố môi trường trong các trại sản xuất
giống tôm sú đều tương đối ổn định dao động
trong phạm vi thích hợp cho sinh trưởng và phát
triển của ấu trùng với nhiệt độ 29,1 ± 0,07, độ mặn
31,7 ± 1,99 và pH 7,8 ± 0,27 và phù hợp với khuyến
cáo [12]. Chế độ thay nước tùy thuộc vào chất lượng
nước và giai đoạn ấu trùng. Việc thay nước bắt đầu
từ giai đoạn Zoea 3 với tỷ lệ thay nước là 15 - 40%,
trong đó số trại thay nước 20 - 30% chiếm 50% tổng
số trại. Trong quá trình thay nước, tiến hành bổ
sung nước ngọt để giảm độ mặn từ 32 xuống 22‰.
Các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ mặn, pH, oxy
hòa tan và hàm lượng nitơ tổng số) được theo dõi
hàng ngày và quản lý trong phạm vi thích hợp trong
suốt q trình ương.
Bệnh và biện pháp phịng trị:
Các bệnh thường gặp trong quá trình điều tra
bao gồm: bệnh phát sáng, nấm và nguyên sinh

92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

động vật. Đây là những bệnh phổ biến và gây
thiệt hại lớn đối với nghề sản xuất tôm sú giống
sau các bệnh do vi rút [6, 23]. Tỷ lệ cảm nhiễm,
cường độ cảm nhiễm có sự khác nhau giữa các
trại. Kết quả điều tra ảnh hưởng của các loại bệnh
trên đối với sản lượng tôm giống cho thấy: bệnh
phát sáng gây thiệt hại lớn hơn, khi cùng bị nhiễm

các bệnh trên với tỷ lệ cảm nhiễm 50% thì sản
lượng tơm giống thu được ở trại bị nhiễm nấm và
nguyên sinh động vật cao hơn so với bệnh phát
sáng (24,6±1,58 và 25,6±1,54 so với 19,6±1,56
triệu giống; P < 0,05). Để trị bệnh phát sáng và
nấm, các trại thường sử dụng các loại kháng sinh
Oxytetraciline, Erythomicine, Amoxciline, Treflan,...
tuy nhiên, hiệu quả trị bệnh không thật sự cao.
Khi bị nhiễm nguyên sinh động vật, các trại sử
dụng formol và thay nước để diệt và giảm mật độ
nguyên sinh động vật.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú
giống tại Cà Mau
Hiện nay, Cà Mau có hơn 819 trại sản xuất giống
tơm sú, trong đó có đến gần 1/3 (253 trại) nằm ngoài
sự quản lý của tỉnh [5]. Thực tiễn điều tra hiện trạng
kỹ thuật nghề sản xuất tôm sú giống tại Cà Mau cho
thấy, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp về mặt
kỹ thuật và quản lý nhằm nâng cao chất lượng tôm
giống tương ứng với tiềm năng phát triển và nhu
cầu tôm giống tại địa phương [14].


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
3.1. Các giải pháp về kỹ thuật
Trước hết cần quy hoạch vùng sản xuất giống
tập trung (Gành Hào, Bồ Đề và Rạch Gốc), đặc biệt
là hệ thống cấp và thoát nước, tuân thủ quy định về
quy trình xử lý nước trước khi thải ra môi trường.
Cần áp dụng các kỹ thuật xử lý nước tiên tiến trong

quá trình sản xuất giống, tăng cường việc sử dụng
hệ thống lọc sinh học tuần hoàn (xử lý nước bằng
vi sinh) và hệ thống lọc nước nên kết hợp theo mơ
hình: lắng nước, lọc cơ học, đèn cực tím và xử lý
vi sinh.
Cần có các biện pháp kiểm sốt chặt chẽ chất
lượng nguồn tơm bố mẹ [1]. Nên chọn mua nguồn
tôm bố mẹ đạt tiêu chuẩn kích thước 180 - 250 g/con.
Tiến hành các giải pháp vệ sinh, khử trùng và xét
nghiệm bệnh tôm bố mẹ chặt chẽ trước khi tiến
hành thả ni. Trong q trình sinh sản, không nên
cho tôm mẹ đẻ quá 4 lần, các loại thức ăn giàu dinh
dưỡng như giun nhiều tơ, mực và hàu cần được
cung cấp đầy đủ trong suốt q trình ni vỗ tái
phát dục tơm bố mẹ. Tăng cường sử dụng tảo tươi,
chế phẩm vi sinh, hạn chế sử dụng hóa chất và
kháng sinh trong q trình sản xuất giống và ương
ấu trùng.
Về lâu dài, cần đầu tư một số trung tâm sản
xuất giống trọng điểm, kết hợp với các trường, viện
hay cơng ty lớn trong và ngồi nước để nghiên cứu
gia hóa, chọn lọc di truyền và sản xuất tôm sú bố
mẹ chất lượng cao, sạch bệnh và kháng bệnh. Tuy
nhiên, để rút ngắn thời gian nghiên cứu có thể tiến
hành hợp tác với các nước Mỹ, Úc, Thái Lan,… để
sản xuất tôm sú bố mẹ sạch bệnh và kháng bệnh
[16]. Các cán bộ khuyến ngư cần phối hợp với các
trường, viện và trung tâm mở các lớp tập huấn kỹ
thuật về quy trình sản xuất giống đạt tiêu chuẩn như
VietGAP và BMP [17] và các biện pháp quản lý mơi

trường và phịng trị bệnh có hiệu quả.
3.2. Các giải pháp về quản lý
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực
thi các quy định của ngành về hoạt động sản xuất
và kinh doanh tôm giống. Kiên quyết xử lý các trại
tôm giống không đạt tiêu chuẩn theo quy định [1, 2].
Đồng thời, cần xây dựng các trung tâm xét nghiệm

Số 2/2013
bệnh tôm đạt tiêu chuẩn quốc gia tại địa phương.
Tránh để việc xét nghiệm tôm giống một cách tràn
lan, thiếu chuẩn xác như thời gian vừa qua, gây
hoang mang cho người nuôi và ảnh hưởng đến
uy tín của doanh nghiệp [16]. Ngồi ra, cần có các
chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn, thuế và sử dụng
đất đai để thúc đẩy sản xuất. Tăng cường vai trị
hoạt động của hội những người sản xuất tơm giống
tại địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm, thông tin
và thống nhất trong quản lý và hoạt động.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Về cơ bản, điều kiện trang thiết bị phục vụ cho
sản xuất giống tôm sú tại Cà Mau đáp ứng được
yêu cần sản xuất. Nguồn tôm bố mẹ được khai thác
từ tự nhiên, tôm bố mẹ và ấu trùng được xử lý hóa
chất trước khi tiến hành ương ni.
Trình độ của người sản xuất, cỡ tơm mẹ, loại
thức ăn sử dụng, mật độ ương ấu trùng và tác nhân
gây bệnh là những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể
đến sản lượng tôm giống sản xuất trong các trại

(P < 0,05). Cỡ tôm giống xuất thường ở Postlarvae
8 - 12 với tỷ lệ sống dao động 23 - 65%. Sản lượng
tôm giống hàng năm đạt 5 - 7 tỷ con đáp ứng được
khoảng 1/3 nhu cầu tôm giống trong tỉnh.
2. Kiến nghị
Cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật
và quản lý trong các hoạt động sản xuất và kinh
doanh tôm giống. Đồng thời, tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực thi các quy định điều
kiện sản xuất tôm giống và các quy định về xét
nghiệm bệnh tơm tại địa phương.
Cần có những giải pháp quy hoạch hợp lý vùng
sản xuất tôm giống, các chính sách hỗ trợ về đào tạo
cán bộ kỹ thuật, sử dụng đất đai và vốn giúp người
nuôi cải tiến kỹ thuật và mở rộng quy mô sản xuất.
Tăng cường tập huấn kỹ thuật và áp dụng các
quy trình sản xuất hiệu quả và thân thiện với môi
trường nhằm nâng cao chất lượng tôm giống và
phát triển bền vững nghề sản xuất giống tôm sú tại
Cà Mau.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:

1.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008a. Chỉ thị số 1415/CT-BNN-NTTS ngày 22/05/2008 về việc tăng cường quản
lý chất lượng tôm sú, tôm he giống và điều kiện vùng nuôi tôm. Hà Nội.

2.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008b. Quyết định số 456/QĐ-BNN-NTTS ngày 04/02/2008 về việc Ban hành một
số quy định về điều kiện sản xuất giống, nuôi tôm chân trắng. Hà Nội.

3.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009. Tuyển tập Nghề cá Sông Cửu Long. NXB Nông nghiệp, trang
101 - 108

4.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản. 2011. Tôm thẻ chân trắng và vấn đề
quy hoạch.

5.

Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Cà Mau, 2010. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2006 - 2010 và kế hoạch đến năm
2015 của tỉnh Cà Mau, 14 trang.

6.

Đỗ Thị Hòa, 1996. Nghiên cứu một số bệnh chủ yếu trên tôm giống sú, và đề ra biện pháp phòng trị bệnh thích hợp. Báo cáo
đề tài cấp Bộ. Khoa học Cơng nghệ Thủy sản tập III, trang 208 - 219.


7.

Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Muội, 2006. Bệnh học Thủy sản. NXB Nông nghiệp. Hà Nội

8.

Nguyễn Quốc Hưng. 2006. Các khía cạnh kỹ thuật trong cơng nghệ sản xuất tôm sú giống (Penaeus monodon Fabricius,
1789) chất lượng cao.

9.

Nguyên Khải, 2011. Chỉ đạo sản xuất tôm năm 2011: cịn lúng túng. Tạp chí Thương Mại Thủy sản - Số 134.

10. Nguyễn Văn Khương, 2011. Hiện trạng và giải pháp phát triển công nghệ sản xuất giống tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei Boone, 1931) sạch bệnh tại Tuy Phong - Bình Thuận. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nha Trang.
11. Nguyễn Khắc Lâm, 2000. Thử nghiệm nuôi phát dục tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798), đánh giá chất lượng tôm bố
mẹ và ấu trùng trong điều kiện nuôi lồng trên biển tại Ninh Thuận. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Thủy Sản.
12. Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006. Kỹ thuật nuôi giáp xác, NXB Nông nghiệp, 235 trang.
13. Trần Văn Nhường, Đinh Văn Thành, Bùi Thu Hà, Trịnh Quang Tú, Lê Văn Khôi, Tưởng Phi Lai, 2004. Nghành nuôi tôm việt
nam: hiện trạng, cơ hội và thách thức. Dự án VIE/97/030
14. Phân viện Qui hoạch Thủy sản phía Nam, 2009. Qui hoạch nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo tỉnh Cà Mau đến năm
2015 và định hướng đến 2020.
15. Nguyễn Thanh Phương, Huỳnh Hàn Châu và Châu Tài Tảo, 2006. Tình hình sản xuất tơm sú giống (Penaeus monodon) ở tỉnh
Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, trang 178-186.
16. Lê Văn Quang, 2011. Thực trạng ngành tôm Việt Nam và những đề xuất. Tạp chí Thương mại Thủy sản - Số 139.
17. Vũ Dũng Tiến và Don Griffiths, 2009. GAP và BMP trong ni tơm tại Việt Nam: Chính sách, hiện trạng và phương phướng
thực hiện, 20 trang, Hà Nội.
18. Tổng cục thủy sản, 2011. Báo cáo tóm tắt tình hình ni tơm nước lợ năm 2010, kế hoạch năm 2011 và một số giải pháp thực
hiện, Hà Nội.
19. Dương Ngọc Tân, 2007. Đánh giá hiệu quả quy trình sản xuất tôm sú giống (Penaeus monodon Fabricius, 1798) không dùng

kháng sinh tại cơng ty TNHH thủy sản Hồn Vũ - Ninh Thuận, trang 53 - 54, Luận văn Thạc sĩ ngành Nuôi trồng thủy sản.
Trường Đại học Nha Trang.
20. Ngô Anh Tuấn, 1995. Nghiên cứu nuôi tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1789) phát dục nhân tạo. Luận văn Thạc sĩ.
Trường Đại học Thủy Sản.
Tiếng Anh:
21. Groves, R., F. Fowler, M. Couper, J. Lepkowski, E. Singer and R. Tourangeau, 2004. Survey Methodology. Wiley Series in
Survey Methodology.14
22. Hoa, N.D., 2009. Domestication of black tiger shrimp (Penaeus monodon) in recirculation systems in Vietnam. PhD thesis,
Ghent University, Belgium.
23. Lightner, D.V, 1988. Diseases of cultured penaeid shrimp and prawns. In: C.J. Sindermann and D.V. Lightner (eds.) Disease
Diagnosis and Control in North American Marine Aquaculture, 2nd. ed. Elsevier, New York. 8-127
24. Marsden, G., 2008. Factors affecting reproductive performance of the prawn, Penaeus monodon. Doctor of Philosophy,
Queensland University of Technonogy.
25. Racotta, I.S., Palacios, E., Ibarra, A. M., 2003. Shrimp larval quality in relation to broodstock condition. Aquaculture, 227:
107–130.
26. Townsley, P., 1996. Rapid rural appraisal, participatory rural appraisal and aquaculture. Fao Fisheries Technical 358.

94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×