Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghề nuôi nghêu còn nhiều trăn trở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.54 KB, 8 trang )

Nghề ni nghêu cịn
nhiều trăn trở


Cũng thời điểm này năm ngối, nghêu ni khu vực biển Tân
Thành, Tiền Giang chết hàng loạt với tổng giá trị thiệt hại lên đến
259,62 tỷ đồng. Hơn nửa tháng nay, nghêu ni ở khu vực này lại
tiếp tục có hiện tượng chết bất thường trên diện tích hơn 60 ha.
Điều đáng nói là các nhà khoa học và các cơ quan chức năng chưa
xác định được chính xác nguyên nhân nghêu chết và có biện pháp
hạn chế thiệt hại.
Nghêu chết chưa rõ nguyên nhân
Theo thống kê sơ bộ, hiện nay có 13 hộ ni nghêu tại khu vực biển
Tân Thành và Tân Điền, huyện Gị Cơng Đơng bị thiệt hại trên diện
tích khoảng 62 ha. Kích cỡ nghêu bị thiệt hại trong khoảng 250-2.000
con/kg, tỷ lệ thiệt hại trên 50%.
Theo ông Trần Quang Hải – nông dân nuôi nghêu ở xã Tân Điền,
nghêu chết là do ảnh hưởng môi trường, bởi độ mặn tăng cao và gió
chướng thổi mạnh liên tiếp. “Nếu tình hình gió chướng thổi mạnh kéo
dài cộng thời tiết nắng nóng, độ mặn tăng cao thì nghêu tiếp tục chết
nhiều”, ơng Hải dự đốn.


Hiện nay, các hộ nuôi nghêu bị thiệt hại đang tích cực thu gom nghêu
chết và chuyển ra ngồi khu nuôi nghêu để tránh làm ô nhiễm môi
trường và lây lan mầm bệnh, ảnh hưởng đến lượng nghêu ni cịn lại.

Vẫn còn thiếu sự nghiên cứu đối với con nghê (nghêu giống nhìn qua
kính hiển vi)

Ngay khi nhận được thơng tin thiệt hại nghêu, Chi cục Thủy sản Tiền


Giang phối hợp cùng với Chi cục Thú y lấy mẫu kiểm tra mầm bệnh
và thực hiện quan trắc môi trường vùng nuôi nghêu hàng ngày để theo
dõi. Tuy nhiên, kết quả đều nằm trong giới hạn sinh trưởng bình
thường của con nghêu.


Trăn trở với con nghêu
Từ khi nghề nuôi nghêu ở Tiền Giang hình thành và phát triển đến
nay, người ni nghêu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đúc kết từ thực
tiễn qua nhiều năm. Việc học tập, nghiên cứu thông qua sách báo, các
phương tiện thông tin đại chúng đối với con nghêu là rất hạn chế,
ngay cả cơ quan Khuyến nơng - Khuyến ngư địa phương cũng chưa
có tài liệu chính thức đối với con nghêu. Mặt khác, nghêu được thả
quanh năm và phụ thuộc vào nguồn giống, trước nay chưa có khuyến
cáo lịch thời vụ. Ơng Nguyễn Văn Khá – nông dân nuôi nghêu xã Tân
Thành cho biết: “Hiện nay, mỗi hộ ni nghêu có kinh nghiệm khác
nhau nên kỹ thuật nuôi cũng khác nhau - nhất là cỡ giống và mật độ
thả, mỗi người một kiểu. Thêm vào đó, việc thả giống cũng vơ chừng
có thể làm tăng độ rủi ro vì thời gian ni có thể rơi vào thời điểm bất
lợi cho nghêu (thường nghêu chết vào tháng 1-3)”. Vì vậy để nghề
ni nghêu phát triển ổn định và bền vững, theo ông Khá, các nhà
khoa học và cơ quan chức năng cần có nghiên cứu về kỹ thuật và lịch
thời vụ.
Không như các đối tượng thủy sản nuôi khác, con nghêu sinh trưởng
và phát triển phụ thuộc hồn tồn vào mơi trường tự nhiên. Người


nuôi nghêu không cần cung cấp thức ăn cũng như áp dụng các biện
pháp phòng trị bệnh cho nghêu. Do đó, việc quan trắc mơi trường để
có cơ sở so sánh các chỉ tiêu an tồn mơi trường để cảnh báo cho bà

con nuôi nghêu là vô cùng cần thiết. Ông Lê Văn Mánh xã Tân Thành
đề nghị: “Cơ quan chức năng cần hỗ trợ nông dân quan trắc môi
trường vùng nuôi nghêu, nhất là đầu vụ và những thời điểm bất lợi
cho nghêu, để kịp thời có giải pháp hạn chế thiệt hại”. Bởi việc tự
theo dõi các chỉ tiêu mơi trường có ảnh hưởng đến nghêu ni nằm
ngồi khả năng của nơng dân.
Ơng Nguyễn Văn Vinh – người đầu tiên thành cơng với quy trình sản
xuất nghêu giống ở ĐBSCL cho rằng: Hiện nay, cơ quan chức năng
dường như thả nổi chất lượng nghêu giống, việc kiểm dịch lồi thủy
sản này cịn lỏng lẻo. Các nhà khoa học giúp nơng dân nghiên cứu
xem nước thải cơng nghiệp có ảnh hưởng tới vùng nuôi nghêu
không?”. Theo ông Vinh, từ năm 2000 trở về trước, nghêu ni khơng
chết dù gió thổi mạnh, nhưng thời điểm này thì nghêu chết nhiều.
Trao đổi về những vấn đề trên, ông Phan Hữu Hội – Chi cục phó Chi
cục Thủy sản cho biết: Nghêu là đối tượng thủy sản nuôi chủ lực ở địa
phương với diện tích lên đến 2.150 ha, sản lượng 17.000 tấn/năm. Ba
năm trở lại đây, Chi cục Thủy sản đều thực hiện quan trắc môi trường


vùng nuôi nghêu định kỳ hàng tháng, kết quả quan trắc được gửi về
địa phương và thông báo trên Đài Truyền hình tỉnh để bà con tiện theo
dõi. Năm 2011, Chi cục Thủy sản phối hợp cùng với Chi cục Thú y
thực hiện quan trắc môi trường và mầm bệnh tại vùng nuôi nghêu
định kỳ 1 lần/tháng và quan trắc tăng cường 2 lần/tháng vào các tháng
thường có nghêu chết nhiều (tháng 1-3 âm lịch). Ngoài ra, Sở
NN&PTNT tỉnh vừa có khuyến cáo kỹ thuật để hạn chế thiệt hại trong
nuôi nghêu.

Nghêu là đối tượng chủ lực ở Tiền Giang


Cần sự hỗ trợ từ các nhà nghiên cứu

Ảnh: Thanh Nhã


Theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, tiềm năng của con nghêu là
rất lớn và có vai trị quan trọng, góp phần đáng kể trong kim ngạch
xuất khẩu của ngành thủy sản và đem lại công ăn việc làm cho hàng
chục ngàn lao động, nhưng đến nay, loài thủy sản này vẫn chưa được
quan tâm đầu tư đúng mức. Lâu nay, các địa phương chỉ tập trung vào
khai thác từ con giống tự nhiên, thả nuôi trong tự nhiên, trường hợp
bỏ vốn đầu tư, nghiên cứu con nghêu là rất ít.
Hiện nay, tài liệu nghiên cứu về con nghêu rất khiêm tốn. Đối với các
viện, trường ở nước ta, chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào cho
con nghêu về các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng như mơi trường,
mầm bệnh, cách phịng trị bệnh… Do đó, đến khi dịch bệnh phát sinh,
thiệt hại xảy ra là rất lớn.
Đã đến lúc cần tái tạo đầu tư cho con nghêu từ quy hoạch vùng ni,
duy trì nguồn giống tự nhiên, sản xuất giống nghêu nhân tạo, chăm
sóc, thu hoạch, chế biến cho đến xuất khẩu một cách bài bản. Phải hài
hòa giữa đầu tư, nghiên cứu và khai thác thì nghề ni nghêu mới
phát huy hết tiềm năng và phát triển bền vững được.
>> Ông Phan Hữu Hội - Chi cục phó Chi cục Thủy sản Tiền
Giang: Việc khuyến cáo kỹ thuật trong nuôi nghêu của cơ quan
quản lý địa phương gặp nhiều khó khăn. Do hiện nay, các nghiên


cứu, tài liệu kỹ thuật rất hạn chế. Để nghề nuôi nghêu phát triển
bền vững hơn, bên cạnh nỗ lực của cơ quan quản lý địa phương, sự
hợp tác của nơng dân thì rất cần sự hỗ trợ về khoa học, kỹ thuật

của các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước.



×