Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Sử dụng hình thái đá tai định loại một số loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 13 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

SỬ DỤNG HÌNH THÁI ĐÁ TAI ĐỊNH LOẠI MỘT SỐ LOÀI CÁ VÙNG
HẠ LƯU SÔNG MÊ KÔNG
Vũ Vi An1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Nguyễn Văn Phụng1

TĨM TẮT
Nghiên cứu này đánh giá tính chính xác của việc định loại tám loài cá (thuộc bảy giống, năm họ và
ba bộ) dựa trên đặc điểm hình thái của đá tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hình thái đá tai có thể được sử dụng để bổ sung cho mục đích định loại cá. Tính chính
xác đạt 91% đối với định loại tới mức loài, 95% ở mức giống và 97% ở mức họ. Trong tám loài
cá nghiên cứu, cá Lưỡi trâu (Cynoglossus lingua) được định loại chính xác 100%, các lồi cá cịn
lại (Plotosus canius, Pangasius krempfi, P. elongatus, Arius maculatus, Cephalocassis borneensis,
Osteogeneiosus militaris, và Boesemania microlepis) đạt độ chính xác thấp hơn (≥ 84%). Những
ứng dụng định loại bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này: đánh giá đa dạng sinh học, xác
định quần đàn, phổ thức ăn và khảo cổ học. Mặc dù định loại cá dựa vào đá tai khơng thể đạt chính
xác tuyệt đối, nhưng phương pháp này được sử dụng để định loại cá trong một số trường hợp khi cá
thể khơng cịn nguyên vẹn hay chỉ thu được mỗi đá tai.
Từ khóa: đá tai, hình thái, định loại cá, sơng Mê Kơng.

I. GIỚI THIỆU
Chức năng đá tai của cá là để nghe, định
hướng và giữ thăng bằng (Campana 1999;
Wright et al., 2002). Mỗi cá thể có ba cặp đá tai
(sagitta, lapilli, asterisci). Vị trí đá tai nằm trong
hốc dưới não cá, mỗi bên có ba đá tai (Hình 1).
Hình dáng và kích thước của ba cặp đá tai này
rất khác nhau trong cùng lồi. Thơng thường,
cặp đá tai lapilli có kích thước lớn nhất đối với
cá thuộc liên bộ Ostariophysi như họ cá Chép
(Cyprinidae) và họ cá Tra (Pangasiidae), trong


khi đó cặp đá tai sagitta là lớn nhất đối với loài
cá khác (Long & Stewart, 2010).
Đá tai được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực
như xác định tuổi, xác định quần đàn, di cư qua
lại giữa các thủy vực khác nhau, đánh giá biến
động về nhiệt độ và độ mặn nơi cá sinh trưởng,
ơ nhiễm, xác định cá có nguồn gốc tự nhiên hay
do cá thả bổ sung (Campana, 1999; Ranaldi &
Gagnon, 2010; Carlson et al., 2016; Hermann
et al., 2016). Nói chung, nghiên cứu về đá tai

ở vùng nhiệt đới chưa được ứng dụng phổ biến
so với vùng ơn đới vì nhiều ngun nhân khác
nhau. Ví dụ đối với việc xác định tuổi, mùa vụ
ở vùng nhiệt đới biến động không rõ rệt so với
vùng ơn đới, điều này dẫn đến vịng tuổi trong
đá tai không được thể hiện rõ ràng (Campana,
1999; Morales-Nin & Panfili, 2002; Panfili et
al., 2009). Trong khi đó, các trang thiết bị phục
vụ cho việc nghiên cứu sự di cư của cá thơng
qua thành phần hóa học của đá tai khá đắt tiền,
và cũng phức tạp trong cách sử dụng. Do đó,
chưa có cơ quan nào đầu tư các trang thiết bị
này ở Việt Nam. Cho đến nay chỉ có hai cơng
trình nghiên cứu cá di cư dựa vào đá tai, nhưng
tất cả mẫu đá tai được phân tích ở nước ngoài
(Yokouchi et al., 2018; Tran et al., 2019). Cho
nên lĩnh vực nghiên cứu này cịn có những hạn
chế nhất định.


Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email:

1

62

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 1. Vị trí đá tai trong cơ thể cá (a); hệ thống ống dẫn giữa các đá tai (b); đá tai bên trái (c); đá
tai bên phải (d) Nguồn: (Secor et al., 1992; Deng et al., 2011).
Hiện nay có một số nghiên cứu về hình
thái đá tai đã được thực hiện ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long (Nguyễn Quốc Sơn, 2011; Võ
Văn Khoan, 2011; Hà Phước Hùng & Hồ Kim
Lợi, 2013) và một số vùng biển của Việt Nam
(Cao Văn Hùng, 2012; Trần Văn Cường, 2012).
Đáng chú ý nhất là nghiên cứu của Hà Phước
Hùng & Hồ Kim Lợi (2013), theo đó nhóm tác
giả này đã nghiên cứu hình thái 26 lồi cá thuộc
họ cá Chép, và được sắp xếp thành ba nhóm có
hình dạng khác nhau. Dựa vào các đặc điểm
khác nhau này, tác giả đã xây dựng “khóa phân
loại” để định loại đến mức giống. Tương tự, một
số nghiên cứu trên thế giới cũng đã khẳng định
điều này (Wang et al., 2010; De La Cruz-Agüero
et al., 2012). Mặc dù đã có một số nghiên cứu

về hình thái đá tai ở Việt Nam, nhưng tính chính

xác của việc định loại này chưa được đánh giá.
Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá độ
tin cậy của việc định loại cá dựa vào hình thái đá
tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Bên
cạnh đó, những ứng dụng của việc định loại cá
bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Cá được thu từ khu vực thác Khone (Lào)
dọc theo sông Mê Kông đến cửa sơng Mê Kơng
(Hình 2). Tổng cộng tám lồi cá (đại diện cho
năm họ và ba bộ) được thu trực tiếp từ ngư dân
và các chợ địa phương (Bảng 1). Đây là những
lồi cá khá phổ biến, đa dạng về thích thước giữa
các lồi cá vùng hạ lưu sơng Mê Kơng. Mỗi loài
thu tối thiểu 30 cá thể trưởng thành. Đối với cá

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

63


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thu ở chợ, vị trí thu mẫu được ước lượng dựa
vào thơng tin từ người dân địa phương. Chiều
dài “chạc” đối với cá có đi chẻ hoặc chiều dài
tổng cộng đối với cá có dạng đi bầu được đo


trước khi lấy đá tai. Cặp đá tai to nhất được thu
thập và lưu trữ theo các hướng dẫn hiện hành
(Campana, 2005; Kerr & Campana, 2014).

Hình 2. Bản đồ thu mẫu cá vùng hạ lưu sông Mekong.
(1: Plotosus canius; 2: Pangasius krempfi; 3: Pangasius elongatus; 4: Arius maculatus;
5: Cephalocassis borneensis; 6: Osteogeneiosus militaris; 7: Boesemania microlepis; 8:
Cynoglossus lingua)
Bảng 1. Danh sách loài cá thu mẫu.

loài
1
2
3
4
5
6
7
8

64

Tên địa phương

Tên khoa học
Plotosus caniusa
Pangasius krempfib
Pangasius elongatusb
Arius maculatusb

Cephalocassis borneensisb
Osteogeneiosus militarisb
Boesemania microlepisa
Cynoglossus linguaa

Cá Ngát
Cá Bơng lau
Cá Dứa
Cá Úc chấm
Cá Úc mím
Cá Úc thép
Cá Sửu
Cá Lưỡi trâu

Số lượng cá
thể (n)
30
113
120
30
30
30
64
30

Chiều dài trung
bình±SD (cm)
37,64±20,25
36,39±27,50
16,29±3,61

14,28±2,75
14,29±2,76
21,68±5,62
24,08±13,77
29,09±3,75

Loại đá
tai
Lapilli
Lapilli
Lapilli
Lapilli
Lapilli
Lapilli
Sagitta
Sagitta

a: đo chiều dài tổng cộng; b: đo chiều dài “chạc”

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Đá tai được làm sạch trong phịng thí
nghiệm và làm khơ trước khi được cân bằng
cân điện tử (0,0001 gam; HR-250AZ, Canada).
Đồng thời, đo chiều dài, chiều cao, độ dày đá
tai bằng thước điện tử (0,01 mm; Craftright 150
mm, Úc). Đá tai bên phải được sử dụng để cân

và đo, tuy nhiên đá tai bên trái cũng được cân
và đo nếu đá tai phải khơng cịn ngun vẹn. Đo
đạc đá tai được thực hiện theo hướng dẫn của
Campana (1992); (Secor et al., 1992). Ngồi ra,
khi có các nhánh rìa ở đá tai thì sẽ đo đến nhánh
rìa dài nhất (Hình 3). Bên cạnh đó, đá tai được
chụp hình dưới kính viển vi để xem xét về mặt
hính thái.

Hình 3. Đo đá tai.
Phương pháp phân tích biệt thức
(discriminant analysis) được sử dụng để đánh
giá tính chính xác của việc định loại tám lồi
cá dựa vào đá tai. Nghiên cứu này sử dụng các
biến về hình thái đá tai để đưa vào phân tích bao

gồm: (1) trọng lượng (g); (2) chiều dài (mm);
(3) chiều cao (mm); (4) độ dày (mm); (5) chiều
dài x chiều cao (mm2); và (6) tỷ lệ giữa chiều
dài đá tai so với chiều dài cá (%). Phân tích này
được thực hiện để đánh giá định loại ở ba mức
độ: (1) mức loài (tám loài cá đã biết trước); (2)
mức giống (bảy giống đã biết trước); và (3) mức
họ: (năm họ cá đã biết trước). Sau đó, đánh giá
tính chính xác của phương pháp này bằng cách
tính tỉ lệ phần trăm giữa số mẫu định loại chính
xác so với tổng số mẫu phân tích. Phương pháp
phân tích biệt thức bậc hai được sử dụng vì tính
đồng biến (covariance) giữa các biến đá tai khác
nhau (McLachlan, 1992).

III. KẾT QUẢ
Hình dáng và kích thước của tám loài cá
trong nghiên cứu này khá đa dạng. Nhìn chung
hình dáng tương đối giống nhau giữa các lồi
trong cùng họ (Hình 4 và 5). Chiều dài đá
tai chiếm 1,06 – 6,05% so với chiều dài cá.
Trong đó, đá tai cá Sửu có kích thước lớn nhất
(6,05%), kế đến là cá Úc mím (5,76%), Úc chấm
(5,70%), Dứa (4,13%), Bơng lau (2,04%), Úc
thép (1,52%), Ngát (1,48%), và nhỏ nhất là cá
Lưỡi trâu (1,06%). Mặc dù biến động về chiều
dài của cá Bông lau là lớn nhất (Bảng 1), nhưng
đá tai cá Sửu lại biến động lớn hơn (Hình 5).

Hình 4. Đá tai một số lồi cá vùng hạ lưu sơng Mekong (thang tỉ lệ = 1mm).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

65


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 5. Một số chỉ tiêu về hình thái đá tai các lồi cá vùng hạ lưu sông Mekong.
(*: Tỉ lệ chiều dài đá tai so với chiều dài cá; giá trị trong hình thể hiện giá trị trung bình và độ lệch chuẩn)

Kích thước và trọng lượng đá tai tương quan khá chặt chẽ với chiều dài cá. Kích thước đá tai
lớn dần theo sự phát triển của cá. Ví dụ đối với cá Sửu, tương quan này khá cao (r2 ≥0,94). Đáng
chú ý, chiều dài, chiều cao, và độ dày đá tai tương quan bậc một (linear) với chiều dài cá, trong khi
đó trọng lượng đá tai tương quan tương quan hệ số mũ (power) với chiều dài cá (Hình 6). Tuy nhiên
đối với các loài cá khác, chiều dài, chiều cao, độ dày, và trọng lượng đá tai đều tương quan bậc một

(linear) với chiều dài cá.

Hình 6. Tương quan giữa chiều dài cá và đá tai của cá Sửu.
66

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Chiều dài, chiều cao, và độ dày đá tai phát
triển không đều nhau ở tất cả các loài cá trong
nghiên cứu này. Trong đó, chiều dài đá tai phát

triển nhanh nhất (hệ số dốc của đường tương
quan lớn nhất), trong khi đó độ dày đá tai phát
triển chậm nhất (Hình 7).

Hình 7. Đường tương quan bậc một (Trendline) giữa chiều dài cá đối với chiều dài, chiều cao và
độ dày đá tai một số lồi cá vùng hạ lưu sơng Mekong.
Dựa vào sáu biến về hình thái của đá tai
(trọng lượng, chiều dài, chiều cao, độ dày, chiều
dài x chiều cao, tỷ lệ giữa chiều dài đá tai và
chiều dài cá), phương pháp phân tích biệt thức
(discriminant analysis) đạt kết quả có tính chính
xác khá cao. Ví dụ, tính chính xác đạt 91% đối

với việc xác định đến mức lồi. Nói cách khác,
có 9% số mẫu định loại khơng chính xác. Kết
quả định loại của từng loài được thể hiện trong

Bảng 2. Trong đó, cá Lưỡi trâu có tính chính xác
tuyệt đối 100% và cá Bơng lau có tính chính xác
thấp hơn (84%).

Pangasius
elongatus

Arius
maculatus

Cephalocassis
borneensis

Osteogeneiosus
militaris

Boesemania
microlepis

Cynoglossus
lingua

Plotosus canius
Pangasius krempfi
Pangasius elongatus
Arius maculatus
Cephalocassis borneensis
Osteogeneiosus militaris
Boesemania microlepis
Cynoglossus lingua

Tổng số mẫu (n)
Số mẫu định loại đúng
Định loại chính xác (%)

Pangasius
krempfi

Lồi cá

Plotosus
canius

Bảng 2. Kết quả định loại cá dựa vào hình thái đá tai (mức lồi).

29
1
30
29
97

2
95
16
113
95
84

1
2
117

120
117
98

26
3
1
30
26
87

4
26
30
26
87

2
28
30
28
93

7
1
56
64
56
88


30
30
30
100

Chú ý: số mẫu có kết quả định loại đúng được in đậm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

67


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Định loại dựa vào đá tai tới mức giống thì
tính chính xác đạt 95%. Trong đó, định loại
giống cá Lưỡi trâu (Cynoglossus) đạt chính
xác 100% trong khi đó giống cá Úc (Arius và
Cephalocassis) thấp nhất (Bảng 3). Tương tự
đối với việc định loại đến mức họ, tính chính
xác đạt ở mức cao hơn (97%). Trong đó, họ cá

Bơn (Cynoglossidae) có tính chính xác tuyệt đối
100%, thấp nhất thuộc họ cá Lù đù (Sciaenidae).
Các họ khác được thể hiện trong Bảng 4. Đáng
chú ý, có 8% mẫu thuộc họ cá Lù đù được phân
loại “nhầm” cho họ cá Úc (Ariidae), trong khi
đó 2% mẫu cá thuộc họ cá Tra (Pangasiidae)
phân loại sai cho họ cá Ngát (Plotosidae).


Arius

Cephalocassis

Osteogeneiosus

Boesemania

Cynoglossus

Plotosus
Pangasius
Arius
Cephalocassis
Osteogeneiosus
Boesemania
Cynoglossus
Tổng số mẫu (n)
Số mẫu định loại đúng
Định loại chính xác (%)

Pangasius

Giống cá

Plotosus

Bảng 3. Kết quả định loại cá dựa vào hình thái đá tai (mức giống).

29

1
30
29
97

5
228
233
228
98

26
3
1
30
26
87

4
26
30
26
87

2
28
30
28
93


7
1
56
64
56
88

30
30
30
100

Chú ý: số mẫu có kết quả định loại đúng được in đậm.

Sciaenidae

Cynoglossidae

-

-

-

-

-

89


-

-

-

1

5
59

Cynoglossidae

-

-

-

-

30

Tổng số mẫu (n)

30

233

90


64

30

Số mẫu định loại đúng

29

228

89

59

30

Định loại chính xác (%)

97

98

99

92

100

Pangasiidae


-

Họ cá

Plotosidae

Ariidae

Bảng 4. Kết quả định loại cá dựa vào hình thái đá tai (mức họ).

Plotosidae

29

Pangasiidae

1

5
228

Ariidae

-

Sciaenidae

Chú ý: số mẫu có kết quả định loại đúng được in đậm


68

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

IV. THẢO LUẬN
4.1. Tính khả thi của việc định loại cá
dựa vào đá tai
Kết quả định loại cá dựa vào đá tai đạt độ
chính xác 91% tới mức lồi, 95% tới mức giống,
và 97% tới mức họ. Đối với việc định loại đến
mức loài, sai số ở mức 9%. Sai số này chủ yếu
thuộc về những loài cá trong cùng họ. Cụ thể,
định loại của ba lồi cá có sai số cao nhất là: cá
Dứa, Bông lau, và cá Ngát (Bảng 2). Xét về mặt
hình thái, đá tai của ba lồi cá này khá giống
nhau (Hình 4). Reichenbacher et al., (2007) đề
xuất một phương pháp có thể định loại cá dựa
vào hình thái đá tai đạt độ chính xác 86-96%.
Do đó, phương pháp phân tích này khơng
thể phân biệt được sự khác biệt giữa ba loài này
với nhau một cách tuyệt đối. Tương tự, đá tai
của ba lồi cá khác cũng có hình dáng tương đối
giống nhau gồm: cá Úc chấm, Úc mím, và cá
Sửu. Vì vậy, sai số cũng xảy ra đối với những
lồi cá trong nhóm này. Kết quả của một số
nghiên cứu trước đây cũng đạt độ chính xác khá
cao (≥ 90%) (Tuset et al., 2011; De La CruzAgüero et al., 2012; Bani et al., 2013; Salimi et

al., 2016).
Những sai số trong nghiên cứu này có thể
được giải thích rõ hơn thơng qua Hình 4 và 5.
Theo đó, đá tai có thể chia thành hai nhóm: nhóm
có kích thước nhỏ (cá Bơng lau, Dứa, Ngát, và
Lưỡi trâu) và nhóm có kích thước lớn (cá Úc
chấm, Úc mím, Úc thép, và Sửu). Kết quả định
loại trong cùng nhóm sẽ khó khăn hơn do có sự
giống nhau về mặt hình thái. Nghiên cứu này
sử dụng sáu biến để đưa vào phân tích, trong
đó biến về chiều dài và chiều cao đá tai được
xem là rất quan trọng trong việc định loại, trong
khi đó độ dày đá tai ít quan trọng hơn. Một số
nghiên cứu gần đây sử dụng rất nhiều biến trong
phân tích, bao gồm các biến giống như nghiên
cứu này, và nhiều biến khác thơng qua sử dụng
phần phềm phân tích hình ảnh đá tai, do đó có
độ chính xác cao hơn. Ví dụ, Wang et al., (2010)

đã sử dụng 35 chỉ số hình thái đá tai để định
loại hai lồi cá Đục (Sillago sihama và Sillago
maculata). Mặc dù hai loài cá này khá giống
nhau về mặt hình thái (cùng giống), nhưng kết
quả định loại đạt tính chính xác rất cao: 100%
chính xác đối với lồi cá Sillago sihama và 98%
đối với Sillago maculata.
Một số lồi cá có kích thước tối đa khá lớn
nhưng kích thước đá tai lại khá nhỏ (ví dụ như
cá Chình và cá Kiếm), ngược lại một số lồi cá
có kích thước tương đối nhỏ nhưng lại có kích

thước đá tai khá to (như cá Úc và cá Sửu trong
nghiên cứu này). Một số nghiên cứu khác cũng
xác định tương tự (Campana & Jones, 1992).
Những loài cá có kích thước đá tai khá nhỏ
thuộc bộ Anguilliformes, Notacanthiformes,
Tetraodontiformes,
Gasterosteiformes,
Scombriformes, và Stomiiformes, trong khi
những loài cá thuộc những bộ khác lại có đá
tai khá to như Beryciformes và Perciformes
(Paxton, 2000).
4.2. Ứng dụng của việc định loại cá dựa
vào đá tai
Định loại cá dựa vào đá tai rất ít khi đạt
được tính chính xác tuyệt đối như đã thảo luận
ở trên. Do đó, phương pháp này khơng thể thay
thế hồn tồn các phương pháp khác (phương
pháp hình thái cá hay di truyền phân tử) mà chỉ
mang tính bổ sung. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp đặc biệt phương pháp này tỏ ra hữu
dụng. Ví dụ như cá khơng cịn ngun vẹn hay
đã bị phân hủy hồn tồn chỉ cịn lại đá tai. Dựa
vào hình thái đá tai có thể xác định đến mức
giống của một số loài cá (Hà Phước Hùng &
Hồ Kim Lợi, 2013), thậm chí có thể xác định
đến mức lồi như trong nghiên cứu này. Nhìn
chung, định loại cá dựa vào hình thái đá tai được
ứng dụng ít nhất vào 4 lĩnh vực sau: đánh giá
tính đa dạng sinh học, xác định quần đàn, phổ
thức ăn, và khảo cổ học. Đối với ứng dụng thứ

nhất, nghiên cứu mới đây kết luận rằng đá tai
phản ánh được sự thay đổi về tính đa dạng sinh

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

69


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

học theo thời gian (Tuset et al., 2016). Đây là
một nghiên cứu rất có ý nghĩa về mặt khoa học
vì có thể so sánh được tính đa dạng giữa hiện tại
với quá khứ. Ví dụ, một nghiên cứu thu thập đá
tai đã vùi sâu trong lịng đất để đánh giá tính đa
dạng sinh học trong thời gian trước đây (Lin et
al., 2019). Kết quả nghiên cứu này đã thu được
5.400 đá tai ở các rạn san hô, 81% số đá tai này
được định loại tới mức giống và mức họ. Do đó,
đánh giá được tính đa dạng sinh học thay đổi
theo khơng gian và thời gian.
Mặc dù đá tai cùng loài thường rất giống
nhau về mặt hình thái, nhưng đá tai một số lồi
cá vẫn có thể sử dụng để phân biệt quần đàn
(Mapp et al., 2017). Tuy nhiên, kết quả một số
nghiên cứu cho thấy tính chính xác khơng cao.
Ví dụ, đá tai cá Hồi nâu (Salmo trutta) và cá Lựu
xanh (Macruronus novaezelandiae) được thu ở
nhiều thủy vực khác nhau để xem xét sự khác
biệt về hình thái đá tai giữa các vùng nghiên

cứu, kết quả của nghiên cứu này khẳng định:
hình thái một số mẫu đá tai có sự khác nhau
giữa các khu vực thu mẫu, do đó có thể phân
biệt được quần đàn của các lồi cá này nhưng
khơng đạt kết quả cao (25-86%) (Hamer et al.,
2012; Rashidabadi et al., 2020). Tác giả này
giải thích thêm tính chính xác được cải thiện khi
sử dụng đá tai những cá thể chưa trưởng thành.
Tương tự đối với cá Kiếm (Xiphias gladius),
tính chính xác chỉ đạt ở mức 30% (Mahé et al.,
2016). Cá kiếm là một lồi cá có kích thước rất
lớn, nhưng lại có đá tai rất nhỏ. Có lẽ đây là lý
do mà nghiên cứu này khơng thể đạt được độ
chính xác cao.
Ứng dụng thứ ba là về nghiên cứu phổ thức
ăn. Thơng thường đá tai khơng bị tiêu hóa và
tồn tại trong bao tử cá trong một thời gian nhất
định. Do đó, một số nghiên cứu thu thập đá tai
trong bao tử cá để định loại những loài cá làm
thức ăn cho chúng (Curcio et al., 2014). Ví dụ
nghiên cứu những loài cá làm thức ăn cho hải
cẩu (Pierce et al., 1991). Tuy nhiên, đối với cá
70

Mập (Lamna nasus), mặc dù đá tai được tìm
thấy trong bao tử cá Mập (39% số mẫu), nhưng
hầu hết đá tai này bị phân hủy một phần, do
đó, định loại các mẫu đá tai này gặp nhiều khó
khăn (Jawad, 2018) . Tương tự đối với một loài
động vật bậc cao như chim Cánh cụt có thể tiêu

hóa đá tai trong 24 giờ (Van Heezik & Seddon,
1989). Bên cạnh đó, kích thước của đá tai cịn
có thể sử dụng để xác định kích thước con mồi,
tuy nhiên kích thước của đá tai bị bào mịn một
phần trong bao tử kẻ ăn mồi, do đó ước tính kích
thước con mồi khơng chính xác cao (Jobling &
Breiby, 1986).
Ứng dụng cuối cùng là về khảo cổ học. Đá
tai có thể tồn tại trong lịng đất rất lâu, thu thập
đá tai để xác định loài cá cũng được ứng dụng
trong các nghiên cứu khảo cổ học. Ví dụ đá tai
của một số lồi cá được tìm thấy ở khu di tích
lịch sử ở Kuwait, các nhà khoa học so sánh hình
thái các mẫu đá tai này với đá tai các lồi cá
trong khu vực bằng phương pháp phân tích biệt
thức như trong nghiên cứu này. Kết quả cho
thấy đá tai thu ở khu di tích lịch sử trên thuộc về
hai loài cá Úc (Netuma bilineata và Plicofollis
tenuispinis) (Chen et al., 2011).
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Tính chính xác của việc định loại một số
loài cá dựa vào đá tai đạt 91% ở mức loài, 95%
ở mức giống và 97% ở mức họ. Trong đó, cá
Lưỡi trâu (Cynoglossus lingua) đạt tính chính
xác tuyệt đối, các lồi cá khác có độ chính xác
thấp hơn (≥84%). Do đó, phương pháp này
khơng thể thay thế hồn tồn các phương pháp
khác (phương pháp hình thái cá hay di truyền
phân tử) mà chỉ mang tính bổ sung. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp đặc biệt phương pháp

này tỏ ra hữu dụng khi cá thu được khơng cịn
ngun vẹn hay đã bị phân hủy hồn tồn chỉ
còn lại đá tai. Định loại cá dựa vào đá tai được
ứng dụng vào việc nghiên cứu và đánh giá đa
dạng sinh học, xác định quần đàn, phổ thức ăn

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

và khảo cổ học. Nghiên cứu này chỉ sử dụng
một số đặc điểm hình thái liên quan đến chiều
dài, chiều cao, độ dày và trọng lượng của đá tai
để định loại. Những nghiên cứu sắp tới nên sử
dụng nhiều chỉ số hình thái bằng cách phân tích
hình ảnh của đá tai để cải thiện độ chính xác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt
Trần Văn Cường, 2012. Tuổi và sinh trưởng của cá
Miễn sành gai (Enynnis cardinalis Lacepède,
1802) ở vùng biển phía Tây vịnh Bắc bộ, Tạp chí
Khoa học Cơng nghệ biển, T12(2), tr.64-76.
Hà Phước Hùng, và Hồ Kim Lợi, 2013. Nghiên cứu
hình thái đá tai của họ cá chép (Cyprinidae) phân
bố ở An Giang và Cần Thơ, Tạp Chí Khoa Học
Trường Đại Học Cần Thơ, 26, tr.50-54.
Cao Văn Hùng, 2012. Tìm hiểu đặc điểm sinh học
cá tráo mắt to (Selar crumenolphthalmus Block,

1793) ở vùng biển Đông nam bộ, Đại Học Nha
Trang, Nha Trang.
Võ Văn Khoan, 2011. Đặc điểm hình thái đá tai và
tương quan chiều dài, trọng lượng của các loài
thuộc họ cá chép (Cyprinidae) phân bố dọc tuyến
sông hậu, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường
Đại Học Cần Thơ, Cần Thơ.
Nguyễn Quốc Sơn, 2011. Hình thái đá tai và một số
đặc điểm sinh học của cá lóc (Channa), Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại Học Cần Thơ, Cần Thơ.
Tài liệu tiếng Anh
Bani, A., Poursaeid, S., and Tuset, V. M., 2013.
Comparative morphology of the sagittal otolith
in three species of south Caspian gobies, Journal
of Fish Biology, 82(4), tr.1321-1332.
Campana, Steven E., 1992. Measurement and
interpretation of the microstructure of fish
otoliths. In ‘Otolith microstructure examination
and analysis’. (Eds David K. Stevenson and S.
E. Campana.) Vol. Canadian Special Publication
of Fisheries and Aquatic Sciences 117, tr. 59-71.
(Canada Communication Group: Ottawa.)
Campana, Steven E., 1999. Chemistry and
composition of fish otoliths: Pathways,
mechanisms and applications”, Marine Ecology
Progress Series, 188, tr.263-297.
Campana, Steven E., 2005. Otolith Elemental
Composition as a Natural Marker of Fish
Stocks. In ‘Stock Identification Methods’. (Eds
Steven X. Cadrin, Kevin D. Friedland and John

R. Waldman.) tr. 227-245. (Academic Press:

Burlington.)
Campana, Steven E., and Jones, Cynthia M.,
1992. Analysis of otolith microstructure data.
In ‘Otolith microstructure examination and
analysis’. (Eds David K. Stevenson and Steven
E. Campana.) Vol. Canadian Special Publication
of Fisheries and Aquatic Sciences 117, tr. 73100. (Canada Communication Group: Ottawa.)
Carlson, Andrew, J., Ward, Matthew, and D.S.,
Graeb, Brian, 2016. Using otolith microchemistry
to classify yellow perch as stocked or naturally
produced, The Prairie Naturalist, 47, tr.52-55.
Chen, Weizhong, Al-Husaini, Mohsen, Beech, Mark,
Al-Enezi, Khlood, Rajab, Sara, and Husain,
Hanan, 2011. Discriminant analysis as a tool to
identify catfish (Ariidae) species of the excavated
archaeological otoliths, Environmental Biology
of Fishes, 90(3), tr.287-299.
Curcio, Nadia, Tombari, Andrea, and Capitanio,
Fabiana, 2014. Otolith morphology and
feeding ecology of an Antarctic nototheniid,
Lepidonotothen larseni, 26(2), tr.124-132.
De La Cruz-Agüero, José, García-Rodríguez,
Francisco, De La Cruz-Agüero, Gustavo, and
Díaz-Murillo, Bertha 2012. Identification of
gerreid species (actinopterygii: Perciformes:
Gerreidae) from the pacific coast of mexico
based on sagittal otolith morphology analysis,
Acta Ichthyologica et Piscatoria, 42(4), tr.297306.

Deng, Xiaohong, Wagner, Hans-Joachim, and
Popper, Arthur N., 2011. The inner ear and its
coupling to the swim bladder in the deep-sea fish
Antimora rostrata (Teleostei: Moridae), Deep
Sea Research Part I: Oceanographic Research
Papers, 58(1), tr.27-37.
Hamer, Paul A., Kemp, Jodie, Robertson, Simon,
and Hindell, Jeremy S., 2012. Multiple otolith
techniques aid stock discrimination of a
broadly distributed deepwater fishery species,
blue grenadier, Macruronus novaezelandiae,
Fisheries Research, 113(1), tr.21-34.
Hermann, Theodore W., Stewart, Donald J.,
Limburg, Karin E., and Castello, Leandro, 2016.
Unravelling the life history of Amazonian fishes
through otolith microchemistry, Royal Society
Open Science, 3(6), tr.1-16.
Jawad, Laith A., 2018. A comparative morphological
investigation of otoliths of six parrotfish species
(Scaridae) from the Solomon Islands, Journal of
Fish Biology, 93(6), tr.1046.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

71


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Jobling, Malcolm, and Breiby, Anne, 1986. The use
and abuse of fish otoliths in studies of feeding

habits of marine piscivores, Sarsia, 71(3-4),
tr.265-274.
Kerr, Lisa A., and Campana, Steven E., 2014.
Chemical composition of fish hard parts as
a natural marker of fish stocks. In ‘Stock
Identifcation Methods’. 2nd edn. (Eds Steven X.
Cadrin, Lisa A. Kerr and Stefano Mariani.) tr.
205–234. (Academic Press: San Diego.)
Lin, Chien-Hsiang, De Gracia, Brigida, Pierotti,
Michele E. R., Andrews, Allen H., Griswold,
Katie, and O’Dea, Aaron, 2019. Reconstructing
reef fish communities using fish otoliths in coral
reef sediments, PLoS ONE, 14(6), tr.e0218413.
Long, James M., and Stewart, David R., 2010.
Verification of otolith identity used by fisheries
scientists for aging channel catfish, Transactions
of the American Fisheries Society, 139(6),
tr.1775-1779.
Mahé, K., Evano, H., Mille, T., Muths, D., and
Bourjea, J., 2016. Otolith shape as a valuable
tool to evaluate the stock structure of swordfish
Xiphias gladius in the Indian Ocean, African
Journal of Marine Science, 38(4), tr.457-464.
Mapp, James, Hunter, Ewan, Van Der Kooij, Jeroen,
Songer, Sally, and Fisher, Mark, 2017. Otolith
shape and size: The importance of age when
determining indices for fish-stock separation,
Fisheries Research, 190, tr.43-52.
McLachlan, Geoffrey J., 1992. Discriminant analysis
and statistical pattern recognition (Wiley: New

York.)
Morales-Nin, B., and Panfili, J., 2002. Age
estimation. In ‘Manual of fish sclerochronology’.
(Eds J. Panfili, H. de Pontual, H. Troadec and P.
J. Wright.) tr. 91-98. (IFREMER‐IRD: Brest,
France.)
Panfili, Jacques, Tomás, Javier, and Morales-Nin,
Beatriz, 2009. Otolith microstructure in tropical
fish. In ‘Tropical fish otoliths: Information
for assessment, management and ecology’.
(Eds Bridget S. Green, Bruce D. Mapstone,
Gary Carlos and Gavin A. Begg.) tr. 212-248.
(Springer: London.)
Paxton, John R., 2000. Fish otoliths: do sizes
correlate with taxonomic group, habitat and/
or luminescence?, Philosophical Transactions
of the Royal Society B: Biological Sciences,
355(1401), tr.1299-1303.
Pierce, G. J., Boyle, P. R., and Diack, J. S. W., 1991.

72

Identification of fish otoliths and bones in faeces
and digestive tracts of seals, Journal of Zoology,
224(2), tr.320-328.
Ranaldi, Melinda Marie, and Gagnon, Marthe
Monique, 2010. Trace metal incorporation
in otoliths of pink snapper (Pagrus auratus)
as an environmental monitor, Comparative
Biochemistry and Physiology, Part C, 152(3),

tr.248-255.
Rashidabadi, Fahimeh, Abdoli, Asghar, Tajbakhsh,
Fatemeh, Nejat, Farshad, and Avigliano, Esteban,
2020. Unravelling the stock structure of the
Persian brown trout by otolith and scale shape,
Journal of Fish Biology, 96(2), tr.307-315.
Reichenbacher, Bettina, Sienknecht, Ulrike,
Küchenhoff, Helmut, and Fenske, Nora, 2007.
Combined otolith morphology and morphometry
for assessing taxonomy and diversity in fossil and
extant killifish (Aphanius, †Prolebias), Journal
of Morphology, 268(10), tr.898-915.
Salimi, Nima, Loh, Kar Hoe, Kaur Dhillon, Sarinder,
Chong, Ving Ching, and Esteban, María Ángeles,
2016. Fully-automated identification of fish
species based on otolith contour: using shorttime Fourier transform and discriminant analysis
(STFT-DA), PeerJ, 4(2)
Secor, David H., Dean, John Mark, and Laban,
Elisabeth H., 1992. Otolith removal and
preparation for microstructural examination.
In ‘Otolith microstructure examination and
analysis’. (Eds David K. Stevenson and Steven
E. Campana.) tr. 19-57. (Canadian Special
Publication of Fisheries and Aquatic Sciences
117: Ottawa.)
Tran, Ngan T., Labonne, Maylis, Hoang, Huy D., and
Panfili, Jacques, 2019. Changes in environmental
salinity during the life of Pangasius krempfi in the
Mekong Delta (Vietnam) estimated from otolith
Sr:Ca ratios, Marine and Freshwater Research,

70, tr.1734–1746.
Tuset, V. M., Farr, eacute, M., Otero-Ferrer, J. L.,
Vilar, A., Morales-Nin, B., and Lombarte, A.,
2016. Testing otolith morphology for measuring
marine fish biodiversity, Marine and Freshwater
Research, 67(7), tr.1037-1048.
Tuset, Víctor Manuel, Azzurro, Ernesto, and
Lombarte, Antoni, 2011. Identification of
Lessepsian fish species using the sagittal otolith,
Scientia Marina, 76(2), tr.289-299.
Van Heezik, Yolanda, and Seddon, Philip, 1989.
Stomach Sampling in the Yellow-Eyed Penguin:

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Erosion of Otoliths and Squid Beaks (Erosión de
otolitos y picos de calamares en el estómago de
Pingüinos (Megadyptes antipodes)), Journal of
Field Ornithology, 60(4), tr.451-458.
Wang, Yingjun, Ye, Zhenjiang, and Liu, Qun, 2010.
Use of otolith shape for the identification of
trumpeter sillago (Sillago maculata) and silver
sillago (Sillago sihama), Journal of Ocean
University of China, 9(3), tr.286-291.
Wright, P.J., Panfili, J., Morales-Nin, B., and
Geffen, A.J., 2002. Otoliths. In ‘Manual of
fish sclerochronology’. (Eds J. Panfili, H. de


Pontual, H. Troadec and P. J. Wright.) tr. 31-29.
(IFREMER-IRD: Brest, France.)
Yokouchi, Kazuki, Mai, Hieu Van, Vo, Toan Thanh,
Wakiya, Ryoshiro, Kawakami, Tatsuya, Tanaka,
Chikaya, Yoshinaga, Tatsuki, Wada, Minoru,
Tran, Dinh Dac, Ha, Hung Phuoc, Takita,
Toru, and Ishimatsu, Atsushi, 2018. Early life
history of oxudercine goby Pseudapocryptes
elongatus in the Mekong Delta, Vietnam, Marine
Biological Association of the United Kingdom,
98(3), tr.597-604.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

73


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

OTOLITHS USED FOR FISH IDENTIFICATION IN THE LOWER
MEKONG BASIN
Vu Vi An1*, Nguyen Nguyen Du1, Nguyen Van Phung1
ABSTRACT
This study identified eight Mekong fish species (belonging to seven genera, five families, and
three orders) based solely on the morphological characteristics of otoliths. The results showed that
accuracy of this analysis was 91% at species level, 95% at genus level, and 97% at family level.
Classification of one fish species (Cynoglossus lingua) was absolutely correct (100%), accuracy for
other fish species (Plotosus canius, Pangasius krempfi, P. elongatus, Arius maculatus, Cephalocassis
borneensis, Osteogeneiosus militaris, và Boesemania microlepis) is lower (≥ 84%). Applications
of fish identification based on otolith morphology was discussed in this paper: biodiversity

assessment, fish stock identification, feeding ecology, and archeology. Although using otoliths for
fish identification cannot replace conventional methods, it is used to identified fish individuals that
are damaged or only otoliths left.
Keywords: otolith, morphology, fish identification, Mekong River.

Người phản biện: TS. Hà Phước Hùng

Người phản biện: PGS.TS. Hoàng Đức Huy

Ngày nhận bài: 22/5/2020

Ngày nhận bài: 28/5/2020

Ngày thông qua phản biện: 18/6/2020

Ngày thông qua phản biện: 16/6/2020

Ngày duyệt đăng: 20/6/2020

Ngày duyệt đăng: 20/6/2020

Research Institute for Aquaculture No. II
* Email:

1

74

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020




×