Sa Nhân Tím
Cơng dụng:
Quả sa nhân là thuốc kích thích và giúp tiêu hố, chữa đau bụng,
đầy trướng, tiêu chảy, nơn mửa, kiết lỵ thuộc hàn, động thai. Ngày dùng: 3 6 g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán; thường dùng phối hợp với các vị
thuốc khác. Hiện đã thống kê được trên 60 bài thuốc có vị sa nhân (Nguyễn
Chiều, 1993; Nguyễn Tập và cộng sự, 1995).
Hình thái:
Cây thảo, sống lâu năm, cao 1,5 - 2,5 m hoặc hơn. Thân rễ có các lá
bẹ, mọc bị lan chằng chịt trên mặt đất. Lá mọc so le thành hai dãy, hình
mác, dài 20 - 30 cm, rộng 5 - 6 cm, gốc hình nêm, đầu thn nhọn, mép
ngun, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt; cuống lá dài 5 - 10
mm; bẹ lá to, dài, có khía, lưỡi bẹ mỏng, dài 1,5 - 3,0 cm, phần gốc ôm lấy
thân. cụm hoa mọc từ thân rễ thành bông ngắn.
Hoa 5 - 7, tổng bao gồm lá bắc ngồi hình bầu dục, màu nâu, lá bắc
trong dạng ống; đài nhỏ dài 1.5 cm, có 3 răng nhọn; tràng hình ống dài 1,3 1,5 cm, màu trắng, chia 3 thuỳ, mặt ngồi có lơng thưa, thuỳ giữa hình trứng
ngược, hai thuỳ bên hẹp; cánh mơi gần trịn, đường kính 2,0 - 2,6 cm, mép
màu vàng, có sọc đỏ ở giữa, đầu cánh mơi xẻ hai thuỳ nhỏ gập ra phía sau,
khơng có nhị lép, chỉ nhị dài hơn bao phấn; bầu hình trụ trịn, hơi phình ở
giữa, có lơng trắng. Quả hình cầu hoặc hơi hình trứng, đường kính 1,3 - 2
cm, dài 1,5 - 2,5 cm, mặt ngồi có gai ngắn, mềm, màu tím, chia 3 ơ, hạt đa
dạng, có áo hạt nếm có vị ngọt, đường kính 3 - 4 mm. Tồn cây và quả vị
nát có mùi thơm.
Phân bố:
- Việt Nam: Quảng Nam (các huyện Đông Giang, Tây Giang, Trà
My); Quảng Ngãi (Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Đức Phổ); Bình
Định (Vĩnh Sơn, Vân Canh); Phú n (Sơng Hinh, Sơn Hồ); Khánh Hồ
(Khánh Sơn, Khánh Vĩnh); Kon Tum (Sa Thầy); Gia Lai (K' Bang, An Khê);
Đắk Lắk (M' Đrắk, Krông Bông, Krông Năng); Thuộc miền Bắc mới chỉ
thấy ở Thanh Hoá (Quan Hoá); Phú Thọ (Yên Lập). Ngoài ra, cây được
trồng ở một vài địa phương khác.
- Thế giới: Trung Quốc (Hải Nam) và Lào.
Đặc điểm sinh học:
Sa nhân tím là cây ưa ẩm, hơi chịu bóng hoặc có thể trở nên ưa sáng
khi đã phát triển thành các quần thể nhỏ, dày đặc trên các nương rẫy cũ. Cây
thường mọc thành đám ở ven rừng kín thường xanh nguyên sinh hay đã thứ
sinh, nhất là dọc theo hành lang các khe suối; độ cao 450 - 700 m. Nhìn vào
phân bố sa nhân tím ở Việt Nam cho thấy, cây mọc tự nhiên chủ yếu ở các
tỉnh phía Nam, từ Quảng Nam trở vào đến Bình Thuận. Những tỉnh tập trung
nhiều sa nhân tím phải kể đến: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai và
Đắk Lắk. Sa nhân tím thuộc loại cây có biên độ sinh thái rộng, cây thích
nghi cao với điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở các tỉnh phía Nam, với
hai mùa mưa và khơ rõ rệt, nhiệt độ khơng khí trung bình năm khoảng 22 –
240C.
Khi đem sa nhân tím ra trồng ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, nhiệt độ
trung bình hàng năm thấp hơn phía Nam, lại có mùa đơng lạnh kéo dài,
nhưng cây vẫn sinh trưởng phát triển tốt. Mùa sinh trưởng mạnh của cây
trùng với mùa mưa ẩm.
Cây có khả năng đẻ nhánh khoẻ từ thân rễ. Vụ chồi đầu ra nhiều vào
mùa xuân - hè; vụ sau là hè - thu. Nhánh cây chồi khi được 1 năm tuổi trở
lên có thể ra hoa quả. Mùa hoa chủ yếu tập trung vào tháng 4 - 5, quả già
vào khoảng tháng 7.
Ngoài ra, ngay khi chưa kết thúc vụ hoa quả này, từ tháng 6 đến tháng
7 cây lại ra thêm lứa hoa nữa, quả già vào tháng 10 (11). Tuy nhiên, lứa hoa
quả thứ hai thường ít hơn nhiều so với lứa đầu. Hiện tượng này có thể phù
hợp với tập tính đẻ nhánh 2 lần trong năm đã nói trên.
Khả năng ra hoa kết quả nhiều và đều đặn hàng năm của sa nhân tím
là một ưu thế hơn hẳn so với các loài sa nhân khác ở Việt Nam (Nguyễn Tập
và cộng sự, 1995). Song cần lưu ý rằng, quả chín của các lồi sa nhân
thường bị các lồi bị sát (Rùa) hay động vật gặm nhấm (Sóc, Chuột) ăn.
Bên cạnh khả năng tái sinh chồi nhánh, sa nhân tím cịn có khả năng tái sinh
tự nhiên từ hạt.