VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI CÁ Ở 2 HỒ CHỨA: HỒ TÂY VÀ
HỒ ĐẮK R’TANG THUỘC TỈNH ĐẮK NƠNG
Đặng Ngọc Hảo1*, Ngơ Thị Thu Hiền1, Lê Thị Tuyết Mai1, Võ Thị Thanh Nhàng1,
Nguyễn Võ Thanh Thúy1, Trần Văn Phước1
TĨM TẮT
Đắk Nơng là tỉnh có nhiều hồ chứa khơng những có nhiều chức năng quan trọng như thủy lợi, thủy
điện mà còn là nơi có nguồn lợi thủy sản khá đa dạng, phong phú, là nguồn cung cấp thực phẩm
quan trọng cho cộng đồng địa phương. Nghiên cứu thành phần loài cá ở 2 hồ chứa hồ Tây và Đắk
R’Tang (tỉnh Đắk Nông) được thực hiện từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2016, với mục tiêu lập danh
mục thành phần loài, xác định sự biến động của các loài cá ở mùa mưa và mùa khô. Thông tin được
thu thập từ phiếu điều tra, khảo sát và các lồi cá được thu thơng qua các ngư cụ như lưới rê, chài,
vó đèn, vợt và kết hợp cá được thu mua từ người dân đánh bắt trong 04 đợt thu mẫu tại 02 hồ chứa
với tần suất 1 đợt/quý. Kết quả đã ghi nhận được 25 loài cá thuộc 18 giống, 13 họ và 7 bộ, trong đó
bộ cá vược (Perciformes) là bộ chiếm ưu thế nhất ở cả 2 hồ chứa (8 loài). Biến động số lượng các
lồi khơng thay đổi nhiều giữa hai mùa (16 – 19 lồi), nhưng có sự thay đổi về thành phần loài và
tần số bắt gặp. Hồ Tây và hồ Đắk R’Tang lần lượt có 4 lồi và 10 lồi cá có giá trị kinh tế, có 3 lồi
(cá lóc, cá thát lát, cá bống tượng) vi phạm quy định về mùa vụ khai thác trong năm. Nghiên cứu đã
đề xuất một số nhóm giải pháp quản lý và bảo vệ nguồn lợi cá tự nhiên.
Từ khóa: Bảo vệ, cá nước ngọt, Đắk Nơng, hồ chứa, thành phần lồi
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong bối cảnh môi trường ngày
càng suy thoái và nguồn lợi thủy sản ngày càng
bị suy giảm nghiêm trọng, vấn đề cấp thiết đặt
ra chính là cần có những biện pháp bảo vệ và
phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản. Nguồn
lợi thủy sản trong tự nhiên rất đa dạng với
nhiều giống loài cá. Cá là một nhóm động vật
có xương sống có số lồi tương đối lớn. Theo
thống kê hiện trên thế giới có khoảng 29.000
lồi cá sống ở các thủy vực có ý nghĩa quan
trọng trong tự nhiên. Cá là một mắc xích hữu cơ
trong hệ sinh thái ở nước, góp phần làm tăng độ
đa dạng sinh học, tạo sự phát triển bền vững cho
mơi trường. Ngồi ra, cá cịn là một nguồn thực
phẩm quan trọng cho đời sống của con ngườivà
phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Việt Nam là quốc gia có diện tích bề mặt
nước ngọt lớn với 653.000 ha sơng ngòi, 394.000
ha hồ chứa (Nguyễn Hữu Quyết, 2009). Theo
kết quả điều tra khoa học, hiện nay đã xác định
1
*
được 1027 loài cá nước ngọt phân bố ở Việt
Nam (Nguyễn Văn Hảo, 2005). Vì vậy, nguồn
lợi cá nước ngọt ở Việt Nam rất phong phú và
đa dạng. Có thể thấy, hồ chứa là thủy vực rất
có tiềm năng về nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên,
cho đến nay, các nghiên cứu về động vật thủy
sinh, đặc biệt là cá ở các hồ chứa tự nhiên ở
nước ta và Tây Nguyên còn hạn chế. Đắk Nơngmột tỉnh có nhiều hồ chứa, trong đó, có hồ Tây
(116 ha), hồ Đắk R’Tang (46 ha) có chức năng
trữ nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho người
dân trên địa bàn thị trấn Đắk Mil (huyện Đắk
Mil) và Kiến Đức (huyện Đắk R’Lấp) (Trần
Văn Phước, Nguyễn Văn Quỳnh Bơi, Lê Việt
Phương, 2015).
Tuy nhiên, theo tìm hiểu hiện nay, các cơng
trình nghiên cứu về thành phần các lồi cá và
biến động số lượng loài ở hồ chứa trên địa bàn
tỉnh Đắk Nơng cịn ít và hạn chế. Lê Việt Phương
và Nguyễn Đình Mão (2015) đã “Nghiên cứu
thành phần lồi khu hệ cá, hiện trạng khai thác
Viện Ni trồng Thủy sản, Đại học Nha Trang.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
89
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
và giải pháp quản lý nguồn lợi cá tại hồ chứa
hồ Tây, tỉnh Đắk Nơng” đề cập đến thành phần
lồi cá và hiện trạng khai thác cá. Ngồi ra, hiện
chưa tìm thấy nghiên cứu nào đề cập đến thành
phần loài và biến động thành phần loài cá ở các
hồ chứa thuộc tỉnh Đắk Nơng.
Nhằm đánh giá thành phần lồi và biến
động của các loài cá ở hai hồ chứa hồ Tây và hồ
Đắk R’Tang, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên
cứu thành phần loài cá ở hai hồ chứa hồ Tây
và Đắk R’Tang thuộc tỉnh Đắk Nơng”, nhằm
đạt được 5 mục tiêu chính là lập danh mục thành
phần các loài cá, xác định sự biến động của cá
ở mùa mưa và mùa khô, điều tra phỏng vấn
khả năng tình hình khai thác, tiêu thụ các loài
cá phân bố ở hai hồ chứa hồ Tây và hồ Đắk
R’Tang, từ đó đề xuất các giải pháp, định hướng
bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi thủy
sản ở tỉnh Đắk Nông.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các lồi cá có trong 02 hồ chứa: hồ Tây và
hồ Đắk R’Tang thuộc tỉnh Đắk Nông.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: hồ Tây, huyện Đắk
Mil và hồ Đắk R’Tang, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh
Đắk Nông.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 5 năm
2015 đến tháng 5 năm 2016.
- Tần suất thu mẫu: 1 đợt/quý (2 đợt mùa
mưa, 2 đợt mùa khơ), với 3 trạm thu mẫu/hồ.
Hình 1. Các vùng thu mẫu ở hồ chứa
(Nguồn: truy cập ngày 15/5/2016)
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định thành phần loài cá và biến động
của chúng.
- Xác định các lồi cá có giá trị kinh tế và
cần bảo vệ.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Số liệu thứ cấp đượcthu thập từ các tài liệu,
bài báo và báo cáo đã cơng bố trong nước và
ngồi nước, các cơ quan nhà nước có liên quan,
các tài liệu về khóa phân loại cá, các đặc điểm
hình thái.
Số liệu sơ cấp được thu thập thông tin trực
tiếp từ các tổ chức, cá nhân sinh sống, khai thác
thủy sản ở hai hồ chứa và trực tiếp thu mẫu thực
địa, kết hợp đặt mua mẫu do người dân đánh bắt
để phân tích, đánh giá.
90
Mẫu được thu trực tiếp bằng cách sử dụng
các dụng cụ chài, lưới rê, vó đèn, vợt và thuyền
của người dân được sử dụng để thu các mẫu cá
ở ven bờ. Đồng thời, người dân có các ngư cụ
khai thác tại hồ như lờ, lợp, đăng, vó đèn, rọ
tôm cũng được liên hệ để thu các mẫu cá được
đánh bắt từ các ngư cụ trên. Đồng thời, mẫu
cũng được thu gián tiếp bằng cách mua cá từ
người dân khai thác tại hồ và đặt vào lọ đựng
mẫu có chứa formol 10% nhằm bổ sung thêm
nguồn mẫu. Mẫu cá thu được định hình trong
formol 10%và đem lưu giữ tại phịng thí nghiệm
Mơi trường, Viện Ni trồng Thủy sản, Trường
Đại học Nha Trang.
Định loại các loài cá bằng phương pháp so
sánh hình thái theo các khóa phân loại lưỡng
phân và mơ tả của Vương Dĩ Khang (1963),
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Mai Đình n (1978, 1992), Rainboth (1996),
Kotellat (2001), Nguyễn Văn Hảo (2001, 2005).
Mỗi loài cá được nêu tên khoa học và tên Việt
Nam.
Đối chiếu thông tư số 62/2008/TT-BNN
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn
để xác định các lồi cá kinh tế, kích thước khai
thác tối thiểu.
Tần số bắt gặp của các loài được đánh giá
dựa vào các loài thu được và khảo sát và được
chia thành 4 mức độ: thường gặp nhất (++++)
khi có tần số gặp từ 75 – 100% tổng số điểm
thu mẫu, thường gặp (+++) khi có tần số gặp 50
-74% tổng số điểm thu mẫu, ít gặp (++) khi tần
số gặp 25 – 49% tổng số điểm thu mẫu và hiếm
gặp khi tần số gặp ít hơn 25% tổng số điểm thu
mẫu.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm
Microsoft Excel 2010, thơng qua việc phân tích
và tính tốn chiều dài trung bình của các mẫu
cá, đối chiếu với quy định để đưa ra kết luận.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thành phần loài cá
Kết quả khảo sát tại hai hồ chứa hồ Tây và
Đắk R’Tang đã xác định được 25 loài cá, thuộc
18 giống, 13 họ, 07 bộ (Bảng 1). Trong đó, họ
cá chép (Cyprinidae) có số lượng loài lớn nhất,
với 06 loài chiếm 24% tổng số loài được phát
hiện.
Bảng 1. Danh mục thành phần loài cá tại hồ chứa hồ Tây và hồ Đắk R’Tang
TT
I
Tên Việt Nam
Tên khoa học
Hồ
Tây
Hồ Đắk
R’Tang
BỘ CÁ CHÉP
CYPRINIFORMES
Họ cá chép
Cyprinidae
1
Cá mè vinh*
Barbonymus gonionotus
(Bleeker, 1850)
+
+
2
Cá chép*
Cyprinus carpio
(Linnaeus, 1758)
+
+
3
Cá chép vàng ab
Cyprinus sp.
+
+
4
Cá trắm cỏ*
Ctenopharyngodon idella
(Valenciennes, 1844)
+
+
(1)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
Hình mẫu
91
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
5
Cá trơi mrigalab
Cirrhinus mrigala
(Hamilton, 1822)
+
+
6
Cá rầm đất
Puntius brevis
(Bleeker, 1850)
+
+
+
+
II
(2)
BỘ CÁ
BẠC ĐẦU
Họ cá khổng
tước
CYPRINODONTIFORMES
Poeciliidae
Cá muỗi
Gambusia affinis
(Baird & Girard, 1853)
III
BỘ CÁ NHEO
SILURIFORMES
(3)
Họ cá lăng
Bagridae
8
Cá lăng nhaa
Hemibagrus wyckioides
(Fang & Chaux, 1949)
9
Cá lăng vàngb
Hemibagrus filamentus
(Fang & Chaux, 1949)
(4)
Họ cá Trê
Claridae
10
Cá trê trắng*
Clariasbatrachus
(Linnaeus, 1758)
11
Cá trê vàng*ab
Clarias macrocephalus
(Gunther, 1864)
7
92
+
+
+
+
+
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
12
Cá trê đenb
Clarias fuscu
(Lacepede, 1803)
IV
BỘ CÁ
LÌM KÌM
BELONIFORMES
(5)
Họ cá lìm kìm
Hemiramphidae
13
Cá lìm kìm ao
Dermogenys siamensis
(Fowler, 1834)
V
BỘ
MANG LIỀN
SYNBRANCHIFORMES
(6)
Họ lịch đồng
Synbranchidae
14
Lươn đồng*
Monopterusalbus
(Zuiew,1793)
VI
BỘ CÁ VƯỢC
PERCIFORMES
(7)
Họ cá rô đồng
Anabantidae
15
Cá rô đồng*ab
Anabas testudineus
(Bloch, 1792)
(8)
Họ cá rô phi
Cichlidae
16
Cá rô phi vằn
17
(9)
+
+
+
+
+
Oreochromis noloticus
(Linnaeus, 1758 )
+
+
Cá rô phi đenab
Oreochromis mossambicus
(Peters, 1852)
+
+
Họ cá tai tượng
Osphronemidae
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
93
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
18
Cá sặc bướm
Trichogaster trichopterus
(Pallas, 1770)
+
19
Cá sặc điệp
Trichogaster microlepis
(Gunther, 1861)
+
20
Cá bã trầu
Trichopsis vitatus
(Cuvier, 1831)
(10) Họ cá bống đen
21
Cá bống tượng*
+
Eleotridae
Oxyeleotris marmorata
(Bleeker, 1852)
+
(11) Họ cá bống trắng Gobiidae
22
Cá bống trứng
Pseudogobiopsis oligactis
(Bleeker, 1875)
+
+
23
Cá bống
chấm đen
Acentrogobius
viridipunctatus
(Valencienes, 1837)
+
+
+
+
(12) Họ cá quả
Channidae
24
Cá lóc đồng*a
Channastriata
(Bloch, 1797)
VII
BỘ CÁ
THÁT LÁT
OSTEOGLOSSIFORMES
(13) Họ cá thát lát
94
Notopteridae
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
25
Cá thát lát*
Notopterusnotopterus
(Pallas,1769)
+
+
Ghi chú: *:loài kinh tế (Bộ NN&PTNT, 2008)
a:loài xuất hiện tại hồ Tây (Trần Văn Phước và cộng sự, 2016)
b:loài xuất hiện tại hồ Đắk R’Tang (Trần Văn Phước và cộng sự, 2016)
Hình 2. Cấu trúc taxon bậc họ, giống, lồi trong các bộ cá hồ Tây
Ghi chú: a) Cấu trúc taxon bậc họ; b) Cấu trúc taxon bậc giống; c) Cấu trúc taxon bậc loài
Thành phần các loài cá ở hồ Tây đã được
xác định gồm có 18 lồi thuộc 15 giống, 11 họ,
06 bộ. Trong đó, bộ cá Vược (Perciformes) là
bộ đa dạng và chiếm ưu thếvới 05 họ (chiếm
45,4% tổng số họ), 06 giống (chiếm 40% tổng
số giống) và 08 lồi (chiếm 44,4% tổng số lồi).
Có thể kể đến một số lồi như cá rơ phi vằn
Oreochromis noloticus (Linnaeus, 1758), cá
bống trứng Pseudogobiopsis oligactis (Bleeker,
1875), cá sặc bướm Trichogaster trichopterus
(Pallas, 1770), cá sặc điệp Trichogaster
microlepis (Gunther, 1861). Tiếp theo là bộ cá
nheo (Siluriformes), bộ cá chép (Cypriformes),
bộ cá bạc đầu (Cyprinodontiformes), bộ
cá lìm kìm (Beloniformes), bộ cá thát lát
(Osteoglossiformes) có số họ, giống, lồi ít hơn.
Hình 3. Cấu trúc taxon bậc họ, giống, loài trong các bộ cá hồ Đắk R’Tang
Ghi chú: a) Cấu trúc taxon bậc họ; b) Cấu trúc taxon bậc giống; c) Cấu trúc taxon bậc loài
Kết quả nghiên cứu thành phần các loài cá
ở hồ Đắk R’Tang đã xác định được 21 loài thuộc
17 giống, 12 họ, 06 bộ. Trong đó, bộ cá vược
(Perciformes) là bộ đa dạng và chiếm ưu thế với
06 họ (chiếm 50% tổng số họ), 07 giống (chiếm
41,1% tổng số giống), 08 lồi (chiếm 38,1% tổng
số lồi) như cá rơ phi vằn Oreochromis noloticus
(Linnaeus, 1758), cá bã trầu Trichopsis vitatus
(Cuvier, 1831), cá bống chấm đen Acentrgobius
viridipunctatus (Valencienes, 1837), cá lóc
đồng Channa striata (Bloch, 1797).
Như vậy, hồ Đắk R‘Tang có thành phần loài
cá đa dạng hơn ở hồ Tây. Các loài cá có giá trị
kinh tế như cá chép, cá rơ đồng, cá trê vàng đều
có mặt ở hai hồ chứa.
3.2. Biến động thành phần loài cá
Qua khảo sát và thu thập thơng tin tại hồ
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
95
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Tây và hồ Đắk R’Tang, thành phần lồi cá ở
hai hồ có sự thay đổi giữa hai mùa (thay đổi về
thành phần loài và tần số bắt gặp). Hồ Tây có
số lồi bắt gặp tại mùa khơ và mùa mưa gồm
17 lồi. Hồ Đắk R’Tang có số lồi bắt gặp là 19
lồi ở mùa khơ và 16 lồi ở mùa mưa (Hình 4).
Hình 4. Biến động số lượng loài cá theo mùa ở hồ Tây và hồ Đắk R’Tang
Hồ Tây và hồ Đắk R’Tang là hồ kép kín,
lượng nước cấp vào chủ yếu dựa vào lượng
mưa. Vì vậy, ở mùa mưa số mẫu bắt gặp sẽ ít
hơn theo cơ chế “lỗng mẫu”. Ở mùa mưa, nhiệt
độ nước sẽ giảm, một số yếu tố về thủy sinh
khơng thích hợp cho một số lồi phát triển, từ
đó có sự biến động về thành phần lồi giữa hai
mùa mùa mưa và mùa khô ở hai hồ chứa kể trên.
Bảng 2. Tần số bắt gặp các loài cá theo mùa ở hồ Tây
STT
Tên Việt Nam
Tên khoa học
Tần số bắt gặp
Mùa khô
Mùa mưa
1
Cá mè vinh
Barbonymus gonionotus (Bleeker, 1850)
+
2
Cá chép
Cyprinus carpio (Linnaeus, 1758)
+
++
3
Cá rầm đất
Puntius brevis (Bleeker, 1850)
+
++
4
Cá muỗi
Gambusia affinis (Baird & Girard, 1853)
++++
+
5
Cá lìm kìm ao
Dermogenys siamensis (Fowler, 1834)
+++
+
6
Cá rô phi vằn
Oreochromis noloticus (Linnaeus, 1758)
++++
++
7
Cá sặc bướm
Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770)
+
++
8
Cá sặc điệp
Trichogaster microlepis (Gunther, 1861)
+
++
9
Cá bống trứng
Pseudogobiopsis oligactis (Bleeker, 1875)
+++
++
10
Cá thát lát
Notopterusnotopterus (Pallas,1769)
+
Ghi chú: Mùa khô: thu mẫu đợt 1,2;Mùa mưa: thu mẫu đợt 3,4
96
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 3. Tần số bắt gặp các loài cá theo mùa ở hồ Đắk R’Tang
Tần số bắt gặp
STT
Tên Việt Nam
Tên khoa học
Mùa
khô
Mùa
mưa
1
Cá mè vinh
Barbonymus gonionotus (Bleeker, 1850)
+
2
Cá trắm cỏ
Ctenopharyngodon idella (Valenciennes, 1844)
+
3
Cá muỗi
Gambusia affinis (Baird & Girard, 1853)
+++
4
Cá trê trắng
Clariasbatrachus (Linnaeus, 1758)
++
5
Lươn đồng
Monopterusalbus (Zuiew,1793)
++
6
Cá rô phi vằn
Oreochromis noloticus (Linnaeus, 1758 )
+++
+
7
Cá bã trầu
Trichopsis vitatus (Cuvier, 1831)
++++
+
8
Cá bống tượng
Oxyeleotris marmorata (Bleeker, 1852)
+
9
Cá bống trứng
Pseudogobiopsis oligactis (Bleeker, 1875)
+
10
Cá bống chấm đen Acentrgobius viridipunctatus (Valencienes, 1837)
11
Cá lóc đồng
Channastriata (Bloch,1797)
++
+
12
Cá thát lát
Notopterusnotopterus (Pallas, 1769)
++
+
+
+++
Ghi chú: Mùa khơ: thu mẫu đợt 1,2;Mùa mưa: thu mẫu đợt 3,4
3.3. Các lồi cá có giá trị kinh tế và cần
bảo vệ
(Pallas,1769), lươn đồng Monopterusalbus
(Zuiew,1793).
Qua quá trình thu mẫu, điều tra và phỏng
vấn tại hồ Tây kết hợp đối chiếu thông tư số
62/2008/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thông, chúng tơi đã xác định được 04
lồi có giá trị kinh tế thuộc 04 giống, 03 họ, 03
bộ. Tương tự, tại hồ Đắk R’Tang, xác định được
10 lồi có giá trị kinh tế thuộc 09 giống, 07 họ,
05 bộ (được trình bày ở Bảng 1).
Chúng tơi đề xuất một số nhóm biện pháp
nhằm bảo vệ nguồn lợi cá tự nhiên như mùa vụ
khai thác, kích thước khai thác, thả và tái tạo bổ
sung, tuyên truyền, tập huấn, khuyến ngư, khoa
học công nghệ, chính sách. Cụ thể, một số biện
pháp phù hợp với 2 hồ như sau:
Hồ Tây và hồ Đắk R’Tang có 05 lồi cá
có giá trị kinh tế cần bảo vệ vì vi phạm kích
thước khai thác tổi thiểu và mùa vụ khai thác,
gồm cá chép Cyprinus carpio (Linnaeus,
1758), cá bống tượng Oxyeleotris marmorata
(Bleeker, 1852), cá lóc đồng Channastriata
(Bloch,1797), cá thát lát Notopterusnotopterus
- Xây dựng kế hoạch về mùa vụ khai thác
cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa
bàn, thực hiện giám sát, kiểm tra và xử lý về các
hành vi vi phạm về mùa vụ khai thác, kích cỡ
mắt lưới khai thác khơng đúng theo quy định để
bảo vệ các loài cá nhỏ và cá con.
- Nghiêm cấm sử dụng các loại ngư cụ có
tính hủy diệt như xiệt điện, vó đèn, lờ.
- Các cơ quan, ban ngành và tổ chức của địa
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
97
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
phương cần tăng cường công tác tuyên truyền,
tập huấn và khuyến ngư vào thực tế cuộc sống
người dân thông qua khuyến ngư, tập huấn, hội
thảo, báo chí, loa đài, tờ rơi, băng rơn.
- Cần có chính sách để thu hút, khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ
và phát triển nguồn lợi thủy sản, nghiên cứu
thử nghiệm, chuyển giao công nghệ trong nuôi
trồng thủy sản đặc biệt là các đối tượng truyền
thống và đặc sản của địa phương.
IV. THẢO LUẬN
Kết quả nghiên cứu thành phần loài cá ở hồ
Tây khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Trần Văn Phước và ctv., (2016) với 23 lồi, Lê
Việt Phương và Nguyễn Đình Mão (2015) với
18 loài cá. Ở hồ Đắk R’Tang, kết quả này tương
tự với kết quả nghiên cứu của Trần Văn Phước
và ctv., (2016) về cấu trúc thành phần loài cá ở
hồ Đắk R’Tang với 16 lồi cá.
Với tính chất là hồ khép kín và có chức
năng phục vụ nước sinh hoạt cho người dân, nên
tại hai hồ chứa Tây và hồ Đắk R’Tang khơng có
các hoạt động ni trồng thủy sản.
Theo khảo sát, đa số các hộ khai thác tại hai
hồ chứa đều là các hộ khai thác nhỏ lẻ nên hầu
hết các loài đều được ngư dân khai thác ở đủ
mọi kích thước.
Trần Văn Phước và ctv., (2016) đã xác
định sự có mặt của lồi ngoại lai cá lau kính
Hypostomus punctatus (Valenciennes, 1840) ở
hồ thủy điện Đồng Nai 3 (huyện Đắk Giong,
tỉnh Đắk Nông). Tuy nhiên, ở hai hồ chứa hồ
Tây và hồ Đắk R’Tang chưa xuất hiện loài
ngoại lai kể trên.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Đã xác định được thành phần các loài cá
tại hồ chứa hồ Tây và hồ Đắk R’Tang (tỉnh Đắk
Nông) gồm 25 lồi, thuộc 18 giống, 13 họ, 07
bộ, trong đó, hồ Tây có 18 lồi thuộc 15 giống,
11 họ, 06 bộ, hồ Đắk R’Tang có 21 lồi thuộc 17
giống, 12 họ,06 bộ.
Hai hồ khơng có sự biến động lớn về số
98
lượng lồi giữa mùa mưa và mùa khơ. Bộ cá
vược (Perciformes) là bộ chiếm ưu thế ở cả hai
hồ về thành phần loài và tần số bắt gặp.
Hồ Tây và hồ Đắk R’Tang lần lượt có 04
lồi và 10 lồi cá có giá trị kinh tế. Số lồi cá
cần bảo vệ tại hồ Tây và hồ Đắk R’Tang lần lượt
là 02 và 03 loài.
5.2. Đề nghị
Cần nghiên cứu bổ sung, tái tạo nguồn cá
tự nhiên thơng qua các hình thức thả con giống,
nuôi quảng canh, kết hợp tuyên truyền cho
người dân về kiến thức bảo vệ nguồn lợi thủy
sản.
Cần tiến hành nghiên cứu đánh giá trữ lượng
cá trong hai hồ chứa Tây và hồ Đắk R’Tang. Từ
đó, đưa ra những chính sách quản lý nghề cá tại
địa phương.
Để đảm bảo nguồn lợi cá tự nhiên và kích
cỡ khai thác, cần thực hiện một số nhóm biện
pháp mà chúng tơi đã đã đề xuất kể trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, 2008.
Thông tư số 62/2008/TT/BNN về việc sửa
đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số
02/2006/TT-BTS ngày 20 tháng 3 năm 2006
của Bộ Thủy sản hướng dẫn thi hành Nghị
định số 59/2005/NĐ - CP ngày 4 tháng 5 năm
2005 của Chính phủ về điều kiện sản xuất, kinh
doanh một số ngành nghề thủy sản.
Nguyễn Văn Hảo, 2001. Cá nước ngọt Việt Nam,
Tập 1, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam,
Tập 2 và Tập 3, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Vương Dĩ Khang, 1963. Ngư loại phân loại học
(Nguyễn Bá Mão dịch), Nxb Nông thôn, Hà
Nội.
Trần Văn Phước, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi, Lê Việt
Phương, 2015. Sinh kế cộng đồng và hoạt động
khai thác nguồn lợi thủy sản tại Hồ Tây và Hồ
Đắk R’Tang, tỉnh Đắk Nông, Tạp chí Khoa học
- Cơng nghệ Thủy sản, số 2/2015, trang 49-55.
Trần Văn Phước, Nguyễn Đình Mão, Phạm Quốc
Hùng, Nguyễn Văn Quỳnh Bơi, Trương Thị
Bích Hồng và Nguyễn Thị Thúy, 2016. Nghiên
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
cứu đánh giá và đề xuất các giải pháp phát
triển, quản lý nguồn lợi thủy sản hồ chứa tỉnh
Đắk Nông - đã nghiệm thu, Báo cáo tổng kết
đề tài cấp tỉnh, Trường Đại học Nha Trang.
Lê Việt Phương và Nguyễn Đình Mão, 2015.
Nghiên cứu thành phần loài khu hệ cá, hiện
trạng khai thác và giải pháp quản lý nguồn lợi
cá tại hồ chứa hồ Tây, tỉnh Đắk Nông, Luận
văn thạc sĩ–Trường Đại học Nha Trang.
Nguyễn Hữu Quyết, 2009. Nghiên cứu đặc điểm
sinh học, sinh thái học và đề xuất phát triển
loài cá dầy (Cyprius centralus Nguyen et Mai,
1994) ở Thừa Thiên Huế.: Luận văn tiến sĩ –
Trường Đại học Huế.
Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các
tỉnh miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
Mai Đình Yên, 1992. Định loại cá nước ngọt Nam
Bộ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
Kottelat M., 2001. Freshwater fishes of Northern
Vietnam, The World Bank.
Rainboth W. J, 1996. Fishes of the Cambodian
Mekong, FAO.
truy cập
ngày 15/5/2016
STUDYING OF FISH SPECIES COMPOSITION IN 2
RESERVOIRS OF TAY AND DAK RTANG IN
DAK NONG PROVINCE
Dang Ngoc Hao1*, Ngo Thi Thu Hien1, Le Thi Tuyet Mai1, Vo Thi Thanh Nhang1,
Nguyen Vo Thanh Thuy1, Tran Van Phuoc1
ABSTRACT
Dak Nong province has a lot of important reservoirs functionating not only irrigation and hydropower but also providing abundant freshwater resourses for local community. The study of fish
species composition in Tay and Dak R’Tang reservoir in Dak Nong province was conducted from
May 2015 to May 2016 with the aim of cataloging fish species and identifying fluctuation of them in
rainy and dry season. The information was collected from questionnaires, surveys and the sample of
fishes were catched by fishing gears such as gillnet, thrownet, liftnet-light, scoopnet and collected
together with fishes were purchased from fishermen in total 4 collecting times (with frequency of 1
time per quarter) in 2 reservoirs. The results showed that fish composition of 2 reservoirs included
25 species belonging to 18 genera in 13 families and 7 orders, in which, Perciformes order is the
most dominance with 8 species. Fluctuation in the number of species did not change so much from
dry season to rainy one (16 species compared with 19 ones, respectively), but changed in species
composition and frequency of encounter. Tay reservoir and DakR’Tang reservoir have 4 and 10
species of economic value respectively, and 3 species (Snakehead, Knifefish, Marble sleeper) were
fishing with violating regulation of annual fishing season. The study has suggested some solutions
to management and protection of natural fish resources.
Keywords: fluctuation, protection, Dak Nong, reservoir, species composition
Người phản biện: ThS. Vũ Vi An
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
1
*
Institute of Aquaculture, Nha Trang University
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
99