Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn công nghiệp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông (Panulirus ornatus Fabricius, 1798) giai đoạn nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.53 KB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010

THÔNG BÁO KHOA HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG PROTEIN VÀ LIPID TRONG THỨC
ĂN CÔNG NGHIỆP ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA TÔM
HÙM BÔNG (Panulirus ornatus Fabricius, 1798) GIAI ĐOẠN NUÔI
THƯƠNG PHẨM
EFFECTS OF DIETARY PROTEIN AND LIPID IN PELLETED FEEDS ON GROWTH
AND SURVIVAL OF TROPICAL SPINY LOBSTER (Panulirus ornatus Fabricius, 1798)
AT GROW-OUT STAGE
Lại Văn Hùng, Phạm Đức Hùng
Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
TĨM TẮT
Mợt thí nghiệm tiến hành trong 8 tuần nhằm xác định ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong
thức ăn đến sinh trưởng của tôm hùm bông giai đoạn nuôi thương phẩm. Ba mức protein (52%, 55%
và 58%) và 3 mức lipid (7%, 9% và 11%) được tổ hợp thành 9 loại thức ăn khác nhau: 58P:7L (NT1);
58P:9L (NT2); 58P:11L (NT3); 55P:7L (NT4); 55P:9L (NT5); 55P:11L (NT6); 52P:7L (NT7);
52P:9L (NT8); 52P:11L (NT9). Tơm hùm bơng có khối lượng trung bình 192,00 ± 15,51 g được bố trí
ngẫu nhiên vào các ơ lồng ( 2 m x 2 m x 4 m) với số lượng 10 con/lồng. Mỗi nghiệm thức được lặp lại
ba lần. Kết quả thí nghiệm cho thấy khơng có sự sai khác ý nghĩa về tốc độ tăng trưởng đặc trưng
(SGR); tăng trưởng đạt được theo tuần (AWG); hệ số tăng trưởng tương đối theo ngày (DGC) và tỷ lệ
sống của tơm hùm bơng thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có hàm lượng protein và lipid khác nhau. Tôm
hùm giai đoạn nuôi thương phẩm có thể sử dụng tốt thức ăn công nghiệp với hàm lượng protein dao
động trong khoảng 52 đến 58 % và lipid từ 7 đến 11%.
ABSTRACT
An experiment was conducted in sea-cage to determine the effects of dietary protein and lipid in diets
on the growth performance of tropical spiny lobster. Three protein levels (52%, 55% and 58%) and
three lipid levels (7%, 9% and 11%) were combined into nine different diets: 58P: 7L (NT1); 58P: 9L
(NT2 ) 58P: 11L (NT3); 55P: 7L (NT4) 55P: 9L (NT5) 55P: 11L (NT6) 52P: 7L (NT7) 52P: 9L (NT8)
52P: 11L (NT9). Lobster had weight average 192,00 ± 15,51 g were randomly distributed into 27 seacages (2 m x 2 m x 4 m/cage) with 10 animals per cage. Each treatment was replicated three


times. Results showed that there was no significant difference in specific growth rate (SGR); average
weekly gain (AWG), daily growth coefficient (DGC) and the survival rate of lobsters which were fed
diets with different protein and lipid. The analytical results also showed that the tropical spiny
lobsters at grow-out stage could use pelleted feeds effectivily with protein content from 52 ÷ 58 % and
7 ÷ 11% of lipid.
Từ khóa: Tơm hùm bông, protein, lipid.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

3


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010

Trong tất cả các lồi tơm hùm tḥc họ Palinuridae, tôm hùm bông (Panulirus ornatus) là đối
tượng tốt nhất cho ni trồng thủy sản vì chúng có thời gian biến thái ấu trùng ngắn nhất (4 – 6 tháng)
và tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (1kg sau 2 năm nuôi từ ấu trùng) (Dennis et al., 1997; Butler &
Herrnkind., 2000). Đây cũng là lồi có giá trị kinh tế cao, hiện đang được nghiên cứu và nuôi nhiều ở
các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: New Zealand, Nhật Bản, Việt Nam, Úc, Philippines, Ấn
Độ, Singarpore và Đài Loan (Smith et al., 2003; Tuan & Mao., 2004; Williams et al., 2005; Barclay et
al., 2006). Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm bắt đầu từ năm 1992, đến nay nghề nuôi tôm hùm lồng
đang phát triển mạnh, số lượng lồng đã tăng lên đáng kể, năm 1999 là 7.289 lồng, năm 2000 tăng lên
17.216 lồng, năm 2005 số lồng ni đã tăng lên 43.516 lồng (trong đó có 3.061 lồng ương tôm giống),
với sản lượng 1.795 tấn (Bộ Thủy Sản, 2006). Trong nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam, cá tạp, cua sò
nhỏ được xem là nguồn thức ăn chủ yếu. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn thức ăn này có những bất lợi
như gây ơ nhiễm mơi trường, cạnh tranh nguồn cá tạp với các mục đích sử dụng khác: thực phẩm cho
con người, thức ăn cho gia súc, gia cầm... người nuôi không chủ động nguồn thức ăn nhất là mùa mưa
bão (Tuan et al., 2000).
Trong thời gian qua một số cơng trình nghiên cứu nhằm phát triển thức ăn tổng hợp dạng viên
cho tôm hùm để thay thế cho nguồn thức ăn là cá tạp hiện nay đang sử dụng đã được thực hiện bởi
một số tác giả như: Smith et al. (2003), Smith et al. (2005), William et al. (2005), Mai Như Thủy

(2005) và William (2007) trên tôm hùm bông (P. ornatus). Những nghiên cứu này tập trung vào nhu
cầu dinh dưỡng cho tôm hùm như: protein, lipid, sterol, cholesterol, lecithin, astaxanthin, và xác lập
công thức thức ăn cũng như tính ổn định của thức ăn trong môi trường nước. Tuy vậy những nghiên
cứu này phần lớn được tiến hành trong phòng thí nghiệm và chủ yếu được tiến hành trên tôm hùm
bông giai đoạn giống. Chính vì thế việc nghiên cứu sâu hơn về nhu cầu dinh dưỡng của tôm hùm bông
ở cả giai đoạn giống cũng như nuôi thương phẩm là cần thiết cho sự phát triển bền vững nghề nuôi
tôm hùm trong tương lai.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Tôm hùm bơng thí nghiệm
Đối tượng nghiên cứu là tơm hùm bông (Panulirus ornatus Fabricius, 1798) giai đoạn thương
phẩm. Tôm hùm bông được thuần cho quen với điều kiện môi trường tại đảo Bình Ba – Cam Ranh
trong 2 tuần trước khi bắt đầu thí nghiệm.
2. Bớ trí thí nghiệm
Tơm hùm bơng có khối lượng trung bình 192,00 ±15,51 g/con được bố trí ngẫu nhiên vào
trong các lồng với mật độ 10 con/lồng (kích thước lồng: 2m x 2m x 4m). Lồng ni được bố trí tại khu
vực đảo Bình Ba – Cam Ranh (Khánh Hịa). Chín nghiệm thức được bố trí ngẫu nhiên hồn tồn, mỗi
nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Tôm được cho ăn 1 lần/ngày vào lúc 18 giờ. Ngồi thức ăn thí nghiệm,
tơm hùm được cho ăn thêm thức ăn cá tạp 1 lần/tuần nhằm kích thích tính bắt mồi của tơm thí nghiệm.
Bên cạnh đó thí nghiệm bớ trí thêm 1 lờng ni tơm hùm bơng với thức ăn hồn tồn là cá tạp nhằm so
sánh tăng trưởng của tôm hùm bông khi sử dụng thức ăn công nghiệp với thức ăn cá tạp. Thời gian thí
nghiệm kéo dài trong 8 tuần. Hàng ngày tiến hành thu thức ăn thừa và vệ sinh lồng. Lồng nuôi được
che mát bằng lưới đen nhằm giảm ánh nắng mặt trời chiếu xuống.
a. Thức ăn thí nghiệm
Ba mức protein (52%, 55% và 58%) và 3 mức lipid (7%, 9% và 11%) được tổ hợp thành 9
loại thức ăn khác nhau: 58P:11L (NT1); 58P:9L (NT2); 58P:7L (NT3); 55P:11L (NT4); 55P:9L

4


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010


(NT5); 55P:7L (NT6); 52P:11L (NT7); 52P:9L (NT8); 52P:7L (NT9). Nguyên liệu được trộn bằng
máy trộn, sau đó được ép viên qua máy ép viên ở các kích cỡ khác nhau cho phù hợp với các giai đoạn
phát triển của tôm. Thức ăn được hấp trong 5 phút trước khi được làm khơ bằng máy sấy trong 24h,
sau đó cho vào các túi nylon và bảo quản trong điều kiện bình thường cho đến khi sử dụng.

Hình 1: Tôm hùm bông thí nghiệm

Hình 2: Hệ thống lồng thí nghiệm

b. Phương pháp thu mẫu và xử lý số liệu
Trước và sau khi thí nghiệm tiến hành cân khối lượng của tơm. Trước khi kết thúc, tơm thí
nghiệm được ngừng cho ăn trong 24 giờ. Sau đó tiến hành cân khối lượng của tụm.
Cỏc ch tiờu ỏnh giỏ:
ã

ã

Nt
ì 100%
N0

T l sng:

Sur % =

Trong đó:

Nt: Số tơm tại thời điểm kết thúc thí nghiệm
N0: Số tôm thả ban đầu


Tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR%/ngày)

SGR =


Hệ số tăng trưởng tương đối theo ngày (DGC %)

Trong đó:

1/ 3

1/ 3

− Ws
× 100 %
d
We: Khối lượng của tơm lúc kết thúc thí nghiệm
Ws: Khối lượng của tơm lúc bắt đầu thí nghiệm
d: Số ngày thí nghiệm (ngày)
DGC (%) =

ã

Ln(We ) Ln(Ws )
ì 100%
d
We

Tng trng trung bỡnh đạt được theo tuần (AWG gam/tuần)


AWG =

(We − Ws )
wk

We: Khối lượng tơm khi kết thúc thí nghiệm (g)
Ws: Khối lượng tơm lúc bắt đầu thí nghiệm (g)
wk: Số tuần thí nghiệm
Số liệu được trình bày ở dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (SD). Sử dụng phương pháp
ANOVA 2 nhân tố để đánh giá tác động của protein, lipid và tương tác protein x lipid. Sự sai khác
giữa các nghiệm thức được phân tích bằng ANOVA một nhân tố và so sánh theo phương pháp
Trong đó:

5


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010

Duncan’s multiple range test trên phần mềm SPSS Version 17.0. Sự sai khác có ý nghĩa được xem xét
khi P < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của tỷ lệ protein/lipid đến sinh trưởng của tôm hùm bơng giai đoạn ni thương
phẩm
Tất cả tơm hùm thí nghiệm đều thích ứng nhanh với thức ăn thí nghiệm. Tơm có biểu hiện
sinh trưởng tốt và khơng có hiện tương tơm bị bệnh trong suốt q trình thí nghiệm. Kết quả sinh
trưởng của tơm hùm bơng được trình bày trong bảng 1.
Kết thúc thí nghiệm khối lượng tơm hùm bơng trung bình đạt từ 251,85 ÷ 286,67 g/con. Kết
quả phân tích các chỉ tiêu tăng trưởng cho thấy khơng có sự sai khác về tốc độ tăng trưởng đặc trưng
(SGR), hệ số tăng trưởng theo ngày (DGC) và tăng trưởng trung bình đạt được theo tuần (AWG) của

tơm hùm bơng khi sử dụng thức ăn có hàm lượng protein và lipid khác nhau (P > 0,05). Tỷ lệ sống cao
đạt được ở tất cả các nghiệm thức thí nghiệm (83,33 – 100 %) và khơng có sự sai khác ý nghĩa (P >
0,05). Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy tơm hùm bơng sử dụng thức ăn thí nghiệm có tăng trưởng đạt
trên 87 % so với tôm hùm bông cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn cá tạp. Điều này cho thấy, tôm hùm
bông trong giai đoạn nuôi thương phẩm có thể sử dụng tốt thức ăn cơng nghiệp gần bằng với cá tạp.
Bảng 1: Kết quả sinh trưởng của tôm hùm bông giai đoạn nuôi thương phẩm
Nghiệm
thức

Wbắt đầu
(g/con)

Wcuối
(g/con)

AWG
(g/tuần)

DGC
(%/ngày)

SGR
(%/ngày)

Tỷ lệ sống
(S %)

NT1

192,00 ± 15,51


286,57 ± 13,91

11,82 ± 1,74

1,47 ± 0,19

0,71 ± 0,09

86,67 ± 5,77

NT2
NT3
NT4
NT5
NT6
NT7
NT8
NT9
Cá tạp

192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51
192,00 ± 15,51


282,22 ± 5,88
286,67 ± 23,09
265,00 ± 8,66
278,52 ± 33,36
280,00 ± 10,00
256,67 ± 20,82
251,85 ± 10,50
281,43 ± 32,17

11,28 ± 0,73
11,83 ± 2,89
9,13 ± 1,08
10,81 ± 4,17
11,00 ± 1,25
8,08 ± 2,60
7,48 ± 1,31
11,18 ± 4,02

1,41 ± 0,08
1,47 ± 0,32
1,17 ± 0,12
1,35 ± 0,47
1,38 ± 0,14
1,04 ± 0,30
0,97 ± 0,16
1,39 ± 0,45

0,69 ± 0,04
0,71 ± 0,15

0,57 ± 0,06
0,66 ± 0,22
0,67 ± 0,06
0,51 ± 0,14
0,48 ± 0,08
0,68 ± 0,20

93,33 ± 5,77
86,67 ± 15,28
93,33 ± 11,55
93,33 ± 5,77
100
100
96,67 ± 5,77
83,33 ± 15,28

300,00

13,50

1,65

0,80

90,00

Số liệu trung bình ± SD. Các ký tự khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác ý nghĩa (P<0.05)

ANOVA – Two Factor with Replication
Chỉ tiêu


PProtein

PLipid

PProtein x Lipid

AWG (g/tuần)
DGC (%/ngày)
SGR (%/ngày)

0,097
0,091
0,082

0,328
0,327
0,320

0,651
0,668
0,681

Tỷ lệ sớng (%)

0,178

0,886

0,171


Kết quả phân tích phương sai hai nhân tố cho thấy, khơng có sự ảnh hưởng của hàm lượng
protein, lipid cũng như tương tác giữa protein x lipid đến sinh trưởng của tôm hùm bông giai đoạn
ni thương phẩm. Dựa vào bảng phân tích kết quả sinh trưởng trên cho thấy, thức ăn có hàm lượng
protein từ 52 ÷ 58% và lipid từ 7 ÷ 11% tốt cho sinh trưởng của tôm hùm bông giai đoạn nuôi thương
phẩm. Tuy nhiên sử dụng thức ăn với hàm lượng protein và lipid cao sẽ kéo theo tăng giá thành sản

6


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010

phẩm, do đó hàm lượng protein và lipid tương ứng trong thức ăn là 52 % và 7 % là thích hợp cho tơm
hùm bơng giai đoạn này.
Một trong những khó khăn khi sử dụng thức ăn cơng nghiệp trong nuôi tôm hùm của các
nghiên cứu trước đây là vấn đề tỷ lệ sống thấp. Một số nghiên cứu khi sử dụng thức ăn công nghiệp
trong nuôi tôm hùm đều cho tỷ lệ sống thấp, dao động trong khoảng 32 ÷ 79 % (Jones et al., 2001;
Smith et al., 2003; Cox & Davis, 2008). Nhiều tác giả cho rằng hiện tượng ăn nhau trong q trình lột
xác, tính hấp dẫn của thức ăn cơng nghiệp chính là những ngun nhân chính dẫn đến tỷ lệ sống thấp ở
tơm hùm ni (Jones et al., 2001; Smith et al., 2003). Tuy vậy những kết quả về tỷ lệ sống của tôm
hùm bông khi sử dụng thức ăn cơng nghiệp trong thí nghiệm ở trên cho thấy, tơm hùm bơng hồn tồn
có thể sử dụng thức ăn công nghiệp với tỷ lệ sống cao nếu những biện pháp kỹ thuật sử dụng như tăng
kích cỡ lồng ni và bổ sung các chất làm tăng tính bắt mồi của tơm hùm vào trong thức ăn.
Sử dụng thức ăn cơng nghiệp có bổ sung thêm nguyên liệu từ thức ăn tươi như vẹm xanh, thịt
tôm có thể giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm nuôi (Jones et al., 2001; Crear
et al., 2002). Tuy vậy phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy, sinh trưởng của tôm hùm nuôi khơng thể
đạt bằng với sử dụng thức ăn hồn tồn là thức ăn tươi. Có nhiều lý do đã được minh chứng để giải
thích tại sao thức ăn viên khơng thể hiệu quả trong cải thiện tăng trưởng của tôm hùm như thức ăn tự
nhiên. Theo William (2007), những hiểu biết không đầy đủ về nhu cầu dinh dưỡng của từng lồi tơm
hùm cụ thể có thể là lý do, bên cạnh đó những khía cạnh khác có thể quan trọng và khơng được nhận

biết cũng là lý do khó phát triển hiệu quả thức ăn viên cho tôm hùm. Trong nghiên cứu ở trên, thành
phần nguyên liệu được bổ sung thêm thịt vẹm xanh, bên cạnh đó dầu mực cũng được sử dụng cùng với
dầu cá để sản xuất thức ăn thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, việc bổ sung này làm tăng tính
bắt mồi của tơm qua đó giúp tăng tỷ lệ sống của tơm hùm bơng thí nghiệm.
IV.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Khơng có sự ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn thí nghiệm đến tăng
trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông thương phẩm cỡ 192 g/con. Tôm hùm bơng giai đoạn này có
thể sử dụng tốt thức ăn công nghiệp với hàm lượng protein dao động trong khoảng 52 đến 58 % và
lipid từ 7 đến 11 %. Tuy nhiên các mức protein và lipid trong nghiên cứu trên cịn ít, do đó cần có
những nghiên cứu sâu hơn về nhu cầu protein và lipid của tôm hùm bơng ở các mức khác nhằm xác
định chính xác ảnh hưởng protein và lipid đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông giai đoạn
nuôi thương phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thủy sản (2006). Báo cáo: Đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển ni
trồng thủy sản giai đoạn 2000 – 2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010. Hà Nội, tháng
3/2006.
2. Lê Anh Tuấn. (2005). Nguồn lợi cá tạp ở biển Việt Nam: thành phần, sản lượng, các
hướng sử dụng chính và tính bền vững khi làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản. Kỷ yếu
hội thảo tồn quốc về bảo vệ mơi trường và nguồn lợi thủy sản. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội, 379 – 387.
3. Mai Như Thủy. (2005). Thức ăn cho tơm Hùm bơng (Panulirus ornatus) tại Khánh Hịa
và bước đầu thử nghiệm sản xuất thức ăn viên phục vụ ương tôm giống giai đoạn 10-20

7


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3/2010


gam. Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Nuôi trồng Thủy sản. Trường Đại học Nha Trang,
53 trang.
4. Barclay M.C, Irvin S.J., Williams K.C. & Smith D.M. (2006). Comparison of diets for the
tropical spiny lobster Panulirus ornatus: astaxanthin-supplemented feeds and mussel
flesh. Aquaculture Nutrition 12; 117-125.
5. Cox, S.L., Davis, M., 2008. An evaluation of potential diets for the culture of postpueruli
spiny lobster Panulirus argus. Aquaculture Nutrition 15; 152 – 159.
6. Crear, B., Hart, P., Thomas, C., Barclay, M., 2002. Evaluation of commercial shrimp
grow-out pellets as diets for juvenile southern rock lobster Jasus edwardsii. Influence on
growth, survival, color and biochemical composition. J. Apply. Aquac., 12, 43 – 57.
7. Dennis, D.M., Skewes, T.D., Pitcher, C.R., 1997. Habitat use and growth of juvenile
ornate rock lobster Panulirus ornatus Fabricius, 1798, in Tores Straint, Australia. Mar.
Freshwater Res., 48, 663 – 670.
8. Jones, C.M., Linton, L., Horton, D & Bowman, W. (2001). Effects of density on growth
and survival of ornate spiny lobster Panulirus ornatus in a flow – through raceway
system. Mar. Freshwar. Res., 52, 1425 – 1429.
9. Smith D.M., Williams K.C. and Irvin S.J. (2005). Response of the tropical spiny lobster
Panulirus ornatus to protein content of pelleted feed and to a diet of mussel flesh.
Aquaculture Nutrition 11, 209–217.
10. Smith D.M., Williams K.C., Irvin S., Barclay M. and Tabrett S. (2003). Development of a
pelleted feed for juvenile tropical spiny lobster (Panulirus ornatus): response to dietary
protein and lipid. Aquaculture Nutrition 9, 231–237.
11. Tuan L.A. & Mao N.D. (2004). Present status of lobster cage culture in Vietnam. In:
Williams, K.C. (ed). Spiny lobster ecology and exploitation in the South China Sea
Region. ACIAR Proceeding, Vol. 120. Australian Centre for International Agriculture
Research, Canberra, Australia, pp. 21 – 25.
12. Tuan L.A., Nho N.T. & Hambrey J. (2000). Status of cage mariculture in Vietnam. In:
Cage Aquaculture in Asia (Liao, I.C & Lin, C.K.eds), pp 111- 123. Proceedings of the
first International symposium on cage Aquaculture in Asia, 318p. Asian Fisheries Society,

Mannila, and World Aquaculture Society – Southeast Asian Chapter, Bangkok, Thailand.

13. Williams K.C. (2007). Nutritional requirements and feeds development for post-larval
spiny lobster: A review. Aquaculture 263, 1 – 14.

14. Williams K.C., Smith D.M., Irvin S.J., Barclay M.C. and Tabrett S.J. (2005). Water
immersion time reduces the preference of juvenile tropical spiny lobster Panulirus ornatus
for pelleted dry feeds and mussel flesh. Aquaculture Nutrition 11, 415–426.

8



×