Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tải Top 5 bài cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.67 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Gợi ý làm bài cảm nhận về bà cụ Tứ trong Vợ nhặt</b>
<b>1. GIỚI THIỆU CHUNG:</b>


- Khái quát về tác giả, tác phẩm:


+ Kim Lân là cây bút truyện ngắn tài hoa. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn
xuôi hiện đại Việt Nam.


+ "Vợ nhặt" là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, được rút từ tập "Con chó xấu xí".
Truyện là bài ca về tình người, về lịng lạc quan và niềm khát sống mãnh liệt của những con
người sống trong tận cùng của đói khổ.


- Cảm nhận chung về nhân vật bà cụ Tứ: Là người phụ nữ nông dân nghèo khổ nhưng có rất
nhiều phẩm chất đáng quý.


<b>2. NÊU VÀ PHÂN TÍCH ĐƯỢC VẺ ĐẸP CỦA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT BÀ CỤ</b>
<b>TỨ:</b>


a. Bà cụ Tứ là một người mẹ nơng dân nghèo khổ:
- Dáng hình : "lọng khọng", "gầy gò".


- Cảnh ngộ: bà lão nghèo khổ, già nua lại cơ đơn vì chồng và con gái út đã chết, đứa con trai
đã lớn tuổi nhưng vì nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư nên không lấy được vợ.


- Cuộc sống nghèo khó: căn nhà rúm ró trên mảnh vườn nhỏ, sống qua ngày bằng những bữa
ăn khốn khó, khi thì lùm rau chuối thái rối, khi thì nồi cháo cám, khơng có nổi vài ba mâm
cơm cúng tổ tiên khi có nàng dâu mới.


=> Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng.
b. Bà cụ Tứ có nhiều phẩm chất đáng quý:



* Vẻ đẹp ở tấm lòng nhân hậu, bao dung:


Dù người mẹ già ấy có thân phận, hồn cảnh sống nghèo khó nhưng trong lịng vẫn ln chan
chứa tình u thương dành cho các con, có những ứng xử chân thành, đầy tình nghĩa đối với
cả con trai và con dâu:


- Vượt qua những nghi lễ thông thường, bà cụ đồng ý cho người đàn bà xa lạ làm con dâu
mình và cịn thấy thương xót, thấu hiểu cho hồn cảnh của người đàn bà ấy.


- Bà nói chuyện với con dâu nhẹ nhàng, từ tốn, nhìn con dâu với tình cảm xít thương trào
dâng: "Chúng mày lấy nhua lúc này u thương quá".


-Bà vui mừng vì các con mình đx yên bề gia thất " Các con...mừng lắm"
...


* Vẻ đẹp ở tâm hồn giàu niềm tin và hi vọng:


Người mẹ nghèo ấy trong mọi hoàn cảnh dù khắc nghiệt nhất, đáng buồn tủi nhất vẫn cố gắng
xua tan những buồn lo để vui sống, khơi lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng cho con cái, trở
thành chỗ dựa tinh thần vững chãi cho các con:


- Trong ý nghĩ: bà vui với triết lí dân gian giản dị mà sâu sắc: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"
- Trong lời nói: Bà nói tồn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này: " Tràng ạ, khi nào...đàn
gà cho mà xem".


- Trong hành động:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Nấu một nồi cháo cám bổ sung vào bữa ăn ngày đói như để ăn mừng nhân ngày con trai lấy
được vợ.



* Vẻ đẹp ở nội tâm với những nét tâm lí chân thực, phong phú, giàu sức lay động:


- Khi ai ốn xót xa (trách mình khơng làm trịn bổn phận người mẹ, không lo được cho con),
khi buồn tủi lo lắng (hiện thực cuộc sống nghèo khổ), khi vui mừng phấn chấn rạng rỡ (nghĩ
về tương lai)…


<b>3. NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA NHÂN VẬT:</b>


- Nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo, diễn biến tâm lí được miêu tả tinh tế,
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị …


<b>4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHÂN VẬT:</b>


- Bà cụ Tứ là nhân vật điển hình về những người ơng dân nghèo khổ. Song đây là người mẹ
từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung, lạc quan.


- Nhân vật này góp phần vào việc thể hiện tình cảm nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn đã giúp
người đọc thấu hiểu: dù hoàn cảnh bi thảm đến đâu con người vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ
và luôn hướng về ánh sáng, sự sống, không ngừng khao khát sống.


<b>2. Cảm nhận của anh chị về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt</b>


Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn quá, đời quá và
“gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật, cùng nhân vật đi qua
những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh
nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình u thương con vơ bờ bến.


Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn


Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân
mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái hiện khơng khí tiêu
điều, ảm đạm của nơng thơn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời
kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ nên chồng” (1955), “Làng”
(1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962)…


Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và
bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến
cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống,
vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Nhân vật bà
cụ Tứ chính là điển hình cho “những con người ấy”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, ln
mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu
cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ
qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một
người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người
đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu
ra mọi chuyện, mắt bà nhoèn đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói
khủng khiếp này, ăn cịn chẳng đủ làm sao mà nuổi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát
có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng khơng cho Tràng có cơ hội
có một đám cưới đàng hồng như bao người. Của hồi mơn là vài câu hị với mấy bát bánh
đúc, cơ vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính,
bà cụ Tứ cũng “mừng lịng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc
gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ khơng chỉ thương con, mà cịn là người giàu lịng
nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có
ni nổi nhau khơng”.



Cuối cùng, bà cụ Tứ cịn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia đình cùng nhau
sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm cháo cám “đắng chát”
mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước mắt”. Ba con người, ba mảnh đời.
Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế
nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới


Như vậy, thơng qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp từ đó
bày tỏ lịng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính là biểu hiện của
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại thành công trong xây dựng
diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của
riêng mình.


Tơi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này làm gì
có đường mịn. Người ta đi mãi thì thành đường thơi…” Cũng đi trên “con đường mòn” phê
phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Cống
Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.


<b>3. Cảm nhận nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt</b>


Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là khắc họa đậm nét các nhân
vật điển hình: Tràng, Bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là bài ca thấm đẫm tình người,
trong hoàn cảnh khốn khổ nhất, con người vẫn cưu mang nhau, dìu dắt nhau đi tới. khơng
phải nhân vạt Tràng hay người “vợ nhặt”, chính hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ mới là người đã
để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng nhất về tấm lòng của người mẹ, về tình người,
tình đời trong cuộc đời này.


<b>Thân bài:</b>


Kim Lân là nhà văn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Ơm mộng trở thành họa sĩ nhưng vì nhà


nghèo khơng có tiền ăn học nên ơng đã đến với văn chương như một duyên nợ. Chính cuộc
sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn rưng rưng, thấu cảm với những kiếp nhân sinh
nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành công nhân vật người mẹ bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo
khổ trên bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Khó có thể hình dung truyện ngắn
Vợ nhặt sẽ thế nào nếu thiếu đi nhân vật người mẹ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tràng ngóng mẹ với trạng thái nơn nóng, sốt ruột. Người con trai bồn chồn đứng ngồi không
yên mong mẹ về bởi anh đang lo lắng, sợ hãi vì tự ý dẫn người đàn bà về làm vợ – điều mà
trước anh chưa nghĩ đến. Giống như Tràng, bạn đọc hẳn cũng hồi hộp, mong chờ sự xuất hiện
của người mẹ. Kim Lân không tả nhiều, chỉ bằng mấy câu “Ngồi ngõ có tiếng người húng
hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm, tính
tốn gì trong miệng” cũng đủ để nhân vật nhanh chóng đi vào tâm trí của người đọc.


Từ láy “lọng khọng” gợi hình ảnh một bà lão già yếu, hẳn là cịng lưng. Đồng thời, nó cũng
đánh thức trong lịng người đọc bao xót thương. Người mẹ ấy đến già vẫn chưa hết lo toan,
chưa có lúc nào được thanh thản qua dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính tốn”. Cuộc sống
mưu sinh vất vả hiện lên qua dáng đi, đậm nét trên khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà. Suốt
cả đời cực khổ kiếm miếng ăn, bà cụ Tứ chưa lúc nào thoát khỏi nỗi lo về đói nghèo. Do vậy,
trước tình cảnh con trai “nhặt” được vợ vào lúc đói, người mẹ ấy lại một lần nữa chua xót
nghĩ đến đời mình “Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình” .


Bà cụ Tứ là người mẹ giàu đức hi sinh, vị tha và hết sức bao dung. Qua tác phẩm Vợ nhặt,
nhà văn Kim Lân đã để lại trong lòng bạn đọc một ấn tượng sâu đậm bằng một tình huống éo
le, cảm động: Tràng “nhặt” được vợ vào nạn đói khủng khiếp. Cái tài của nhà văn chính là
trong tình huống ấy phẩm giá của con người được bộc lộ rõ nét nhất. Nhân vật người mẹ bà
cụ Tứ trong tác phẩm cho thấy điều đó. Trước việc con trai dẫn về nhà một người đàn bà
đồng nghĩa với việc thêm một miệng ăn trong cảnh “tối sầm vì đói khát”, người mẹ già ấy đã
chấp nhận người đàn bà đói, bỏ qua những việc tối cần thiết vào lúc dựng vợ gả chồng cho
con. Bà có trái tim nhân hậu khi vượt qua nỗi ám ảnh của cái đói để cưu mang, đùm bọc, xót
thương người “vợ nhặt” với suy nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta


mới lấy đến con mình” .


Người mẹ chồng ấy nhìn con dâu với ánh mắt xót xa và ái ngại. Bằng tình thương của mình,
bà đã xua đi cái cảm giác mặc cảm của người con dâu qua câu nói: “Ừ thơi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” . Mừng lịng chứ khơng phải bằng lịng,
bà Tứ nhân hậu là ở chữ ấy, Kim Lân sâu sắc cũng là chữ đấy.


Người mẹ nghèo khổ trong tác phẩm đã khơng vì cái đói, cái cực của kiếp người tha hương
cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dửng dưng, vô cảm với tình cảnh khốn cùng của người khác.
Bà nói với người con dâu mới với giọng “thân mật”, chân tình biết bao khi mời người đàn
khốn khổ theo khơng con trai bà “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” .
Đọc đến đây người đọc hẳn thấy mình rưng rưng xúc động cũng như cảm phục tấm lòng nhân
ái của người mẹ trong truyện. Đồng thời, ta cảm nhận được tình người thật ấm áp bởi trong
cái đói thê thảm, những người nghèo vẫn giang rộng vòng tay, che chở, yêu thương nhau. Giá
trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ ở nhân vật này là vì thế.


Bên cạnh tình yêu thương với người cùng cảnh ngộ, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ có
lịng u thương con vơ bờ. Con trai có vợ vào lúc đói kém, người chết vì đói “như ngả rạ” đã
tác động mạnh đến tâm lí của người mẹ. Bà cụ Tứ có những cảm xúc đan xen phức tạp, bà
vui vì con có được vợ nhưng buồn, lo lắng “Biết rằng chúng có ni nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này khơng.” Hơn nữa, nỗi tủi của người mẹ không lo được chuyện trăm năm cho
con cứ đầy lên uất nghẹn: “Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”.
Người đọc nhận thấy sự thay đổi của người mẹ ấy vào sáng hơm sau. Khơng cịn khn mặt
bủng beo u ám mà thay vào đó là nét “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường” “rạng rỡ hẳn
lên”, vượt lên cả cái mệt mỏi của dáng đi “lọng khọng” là hàng động hoạt bát “xăm xắn thu
dọn, quét tước nhà cửa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

xa trời. Phải chăng người mẹ muốn gieo vào lòng con trai, con dâu niềm tin vào sự đổi thay,
vào sự sống bất diệt? Cũng trong buổi sáng hơm ấy, bà cụ nấu nồi chè khốn để đãi nàng dâu
mới. Cái dáng lật đật, lễ mễ và hành động vừa khuấy khuấy vừa tươi cười đon đả mới đáng


kính và xúc động làm sao.


Tình cảm của người mẹ được Kim Lân diễn tả đầy đủ và tinh tế qua những từ láy đó. Phải
chăng bà vội vã để níu kéo niềm hạnh phúc mong manh mà bà cảm nhận đang mất đi trước
thực tại đói khổ? Có thể thấy, mọi suy nghĩ, hành động của bà cụ Tứ đều xuất phát từ lịng
thương con vơ bờ. Người mẹ già ít nghĩ đến mình. Bà lo, thương, trĩu nặng, trăn trở vì con.
Đức hi sinh của bà thật cao cả.


Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khơng chỉ là người mẹ có trái tim
nhân hậu mà còn là người sắc sảo, trải đời và hiểu đời. Bà ngạc nhiên, “phấp phỏng” trước
thái độ vồn vã, trang trọng của người con trai và cịn ngạc nhiên hơn khi trong nhà mình có
một người đàn bà, lại chào bà “U đã về ạ”. Bao suy đoán làm cho bà mẹ cứ phân vân, băn
khoăn, điều bà không bao giờ dám nghĩ tới – con trai bà có vợ, lại đến vào lúc bà khơng ngờ
nhất. Do vậy, bà cụ Tứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tuy nhiên, chỉ nghe mấy
câu nói của người con trai “Nhà tơi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên
phải kiếp với nhau…


Chẳng qua nó cũng là cái số cả…” , bà mẹ ấy “cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu biết bao cơ sự”. Cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ hàm chứa tất cả
những éo le mà bà đã đốn ra. Bà khơng hỏi con trai về điều Tràng đang tránh nói, khơng
dám kể và người phụ nữ lạ kia đang bẽ bàng, tủi hổ. Bằng sự từng trải, người mẹ đã khơng tra
xét mà bà nhìn, nghe và thấu thị những uẩn khúc trong câu chuyện “nhặt” vợ để con trai đỡ
căng thẳng và người đàn bà theo con trai mình khơng bị tổn thương. Cách ứng xử của bà cụ
Tứ vừa thông minh, vừa nhân ái vô cùng.


Kim Lân xây dựng nhân vật người mẹ trong tác phẩm của mình bằng một tình huống truyện
độc đáo. Việc Tràng dẫn người vợ “nhặt” về nhà giữa cảnh người chết như ngả rạ vì đói đã
tác động mạnh mẽ đến tâm lí của nhân vật người mẹ. Những cảm xúc vui, buồn, âu lo,
thương xót… đan xen nhau trong nội tâm của người mẹ bà cụ Tứ. Nhờ có tình huống truyện
mà tâm lí nhân vật được diễn tả thật tự nhiên, sống động. Vì thế, hình ảnh bà mẹ nhân hậu


đọng lại trong trí nhớ và để lại ấn tượng khó phai trong lịng bạn đọc.


Để miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn cịn dùng phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba của
người trần thuật giấu mình nhưng lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật (lời nửa trực tiếp)
“Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? …”. Những suy nghĩ thầm kín của bà cụ
Tứ đã cho thấy sự tinh tế của nhà văn trong khắc họa phẩm chất của nhân vật. Tìm hiểu nhân
vật này khó có thể bỏ qua những lời độc thoại nội tâm cảm động như thế.


Mặt khác, trong sáng tác truyện ngắn, Kim Lân luôn coi trọng chi tiết. Miêu tả nhân vật
người mẹ bà cụ Tứ, nhà văn đã tạo dựng được những chi tiết đắt giá như chi tiết về ngoại
hình nhân vật, chi tiết nụ cười chua chát, giọt nước mắt hạnh phúc, chi tiết về nồi chè khốn.
Chính những chi tiết ấy gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại âm vang êm dịu, gợi dây sự cảm
thương, trân trọng trong lòng người đọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nhân vật người mẹ bà cụ Tứ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ
Việt Nam: giàu đức hi sinh, vị tha, tình mẫu tử cao đẹp, trí tuệ… Khi miêu tả, phát hiện và
tơn vinh những vẻ đẹp đó của nhân vật người mẹ, nhà văn đã đem lại cho tác phẩm giá trị
nhân đạo sâu sắc, gợi trong lòng độc giả những rung cảm thẩm mĩ có sức ám ảnh và lan tỏa.
Tuy nhiên, văn chương không bao giờ chấp nhận lối mòn, bất cứ sự lặp lại nào (người khác
hay chính mình) sẽ dẫn đến con đường khai tử cho nghệ thuật. Thấu hiểu điều đó, Kim Lân
có những khám phá riêng ở hình tượng người mẹ. Bà cụ Tứ trong truyện ngắn của Kim Lân
được đặt vào bối cảnh của nạn đói 1945. Từ đó nhà văn làm nổi bật lên chủ đề “Những người
đói họ khơng nghĩ đến cái chết mà họ nghĩ đến cái sống”. Lòng nhân ái, tình mẫu tử cao đẹp,
sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của các nhân vật chính là tình người ấm
áp mà nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc.


<b>4. Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ ngắn gọn</b>


Truyện ngắn “ Vợ nhặt” của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối


cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên
tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ.
Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành cơng ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ” –
mẹ anh Tràng- người “nhặt vợ”.


Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khịng”, khẽ mắt
“lèm nhèm “,”khn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai
con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một
người đã già, khơng cịn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy cịn bị đặt trong hồn cảnh
nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.


Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng
nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính
cách.


Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ
thương người con trai của mình “cảm thấy ai ốn xót thương cho số phận đứa con mình”.
Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống
tương lai của đứa con mình” khơng biết chúng nó có ni nổi nhau sống qua cơn đói này
khơng”. Bà cịn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị
nghĩ :”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới
có vợ được”. Đó là tấm lịng người mẹ khơng khinh rẻ mà tỏ ra thơng cảm thấu hiểu hồn
cảnh con dâu, thậm chí bà cịn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có
con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình u thương cịn thể
hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm
ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà
nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời
động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi
sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể
hiện tấm long thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm


trọn vẹn, sáng hôm sau cụ” xăm xắn quét tước nhà cửa”. Hành động giản dị thơi nhưng thể
hiện tấm lịng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới khơng
nghi lễ, khơng đón đưa của đơi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long
lo lắng của người mẹ nghèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói
về tương lai nhiều nhất” cụ nói tồn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó khơng đơn
thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi
sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng
vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào
ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn qt dọn nhà cửa,
đó là những cơng việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét
dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những
tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười
đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám
mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị
mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên
đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong
long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái khơng khí ảm đạm bằng thái độ
lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng
ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những
con người nghèo khổ cất cánh lên được.


Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và
cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật
bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngồi ra, qua
những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu
thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thống hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ
chồng Dần ( Nam Cao) những người nơng dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu
thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến


đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh
động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của
cụ, nụ cười trên khn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái
bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con
người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá
trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào
tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể
hiện thành cơng điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.


<b>5. Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh nhân vật người mẹ bà cụ Tứ</b>
Mở bài:


Bà cụ tứ là nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa truyện, bà cụ Tứ vẫn đóng một vai trị đặc biệt
quan trọng giúp Kim Lân thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn của
mình. Đây là nhân vật được nhà văn miêu tả khá chi tiết, sinh động từ ngoại hình, dáng vẻ
đến những cử chỉ, hành động, từ những lời đối thoại đến những dòng độc thoại nội tâm.
Thân bài:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Khi thấy Tràng ra tận ngõ đón mẹ, lại thấy anh ta reo lên như một đứa trẻ, thái độ vồn vã,
trang trọng khác thường của con trai đã khiến bà cụ Tứ phấp phỏng. Có lẽ, tấm lịng người
mẹ của bà cụ Tứ đã linh cảm thấy có một cái gì đó quan trọng và bất thường đang chờ đợi.
Nhìn thấy có một người đàn bà lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình….lại chào mình là
u…., vẻ khép nép lạ lùng của thị khiến bà ngạc nhiên tột cùng. Sự ngạc nhiên được thể hiện
qua những câu hỏi dồn dập trong dòng độc thoại nội tâm, qua bước chân lập cập, run rẩy, qua
việc bà đứng sững lại, rồi thậm chí như khơng tin nổi vào mắt mình, bà thấy mắt mình nhn
ra thì phải… Chính sự ngạc nhiên tột cùng của bà cụ Tứ càng cho thấy cái nhìn tinh tường và
trái tim nhạy cảm của người mẹ lập tức đã nhận ra có một điều gì đó thiêng liêng, lớn lao
đang đến nỗi xót xa cho thân phận con người khi chỉ vì nạn đói và cảnh ngộ gia đình mà
người mẹ tội nghiệp không thể tin được những điều bà đang phỏng đoán.



Sau khi nghe lời giới thiệu của con trai: Nhà tơi nó mới về làm bạn với tơi…, bà lão cúi đầu
nín lặng… bà đã hiểu ra bao nhiêu là cơ sự. Có biết bao nhiêu thấu hiểu, bao nhiêu nỗi niềm
trong cái cúi đầu nín lặng, trong sự chấp nhận ngậm ngùi của bà. Người mẹ từng trải đã hiểu
tất cả những uẩn khúc, những éo le trong việc nhặt vợ của con, hình dung được cảnh ngộ của
người vợ nhặt, đó là những cơ sự bà đã đốn ra mà khơng nỡ hỏi, những điều con bà đang
nghĩ tới mà khơng nỡ nói, những điều đang làm người đàn bà xa lạ, đói rách kia sợ hãi, tủi
hổ, bẽ bàng. Trong hai chữ cơ sự ấy là tất cả những oái oăm, bi hài của cảnh ngộ, những cay
đắng, trớ trêu của duyên kiếp – sự nín lặng của bà cụ Tứ khơng chỉ cho thấy sự từng trải mà
con là biểu hiện rõ nhất của trái tim nhân hậu.


Khác với anh con trai vô tâm, sự kiện Tràng nhặt vợ khiến bà cụ Tứ chìm đắm trong những
nồi niềm, vừa ai ốn vừa xót thương, vừa tủi phận. Bà mừng vì con có được vợ mà vẫn trăn
trở về bổn phận làm mẹ, vần buồn tủi vì số kiếp đứa con mình thật bất hạnh khi chẳng được
cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho đàng hoàng tử tế, mở mặt mở mày, phải đi nhặt vợ một cách
éo le, chua xót; lại càng lo lắng vì cảnh con lấy vợ giữa những ngày đói quay đói quắt, biết
rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng. Trong lòng bà ngổn
ngang với dòng hồi tưởng về những năm tháng dài dằng dặc của quá khứ, với những cay
đắng chồng chất trong cuộc đời của bà, của người chồng và đứa con gái đã mất; những buồn
tủi về tình cảnh của mẹ con bà trong hiện tại, những lo lắng về tương lai…..; nhưng dù mừng
hay tủi, buồn bã hay lo lắng, mọi ý nghĩ và nỗi niềm cho con trai, bà cũng đồng thời thơng
cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà đều chỉ xuất phát từ tấm lịng thương u vơ
bờ bến.


Từ chỗ xót xa cho con trai, bà cũng đồng thời thơng cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người
đàn bà xa lạ nay đã trở thành con dâu của mình. Khơng một lời phản đối hay tra xét, cũng
không hề rẻ rúng hay coi thường người đàn bà đói rách tả tơi theo khơng con trai mình, bà chỉ
đăm đăm nhìn đứa con dâu đang bối rối vân vê tà áo đã rách bợt.. lịng đầy thương xót, ngay
trong tâm tư, bà đã mặc nhiên cơng nhận nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Sự chấp nhận
ấy cho thấy bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả gánh nặng sẽ chồng chất
thêm của sự đói khát, nỗi ám ảnh ghê gớm của chết chóc để đùm bọc cưu mang một con


người khốn khổ, nhất là để vun đắp cho hạnh phúc của con trai. Giống như Tràng, ý nghĩ của
bà không chỉ là cảm thông, thấu hiểu mà còn gần như một sự hàm ơn với người vợ nhặt của
Tràng: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có được vợ….- ngơn ngữ độc thoại nội tâm như đã hàm chứa sắc thái đối thoại,
vừa như để bênh vực cho con dâu, vừa như cố an ủi chính mình!


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đỡ mỏi chân….- đó là những cách cư xử cho thấy sự tinh tế và nhân hậu trong lòng người mẹ
nghèo, bà muốn bằng thái độ, giọng nói và cả cách xưng hơ để làm vợi đi những căng thẳng,
lo lắng của con cái, nhất là những tủi hổ bẽ bàng của người đàn bà gặp cảnh éo le đói khát mà
phải theo khơng con trai mình. Tới ba lần, Kim Lân miêu tả dòng nước mắt của người mẹ bà
cụ Tứ – những dịng nước mắt của buồn vui, thương xót, tủi cực, nước mắt của tình người
nhân hậu, vị tha.


Trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, người mẹ bà cụ Tứ cũng là người thể hiện rõ nhất
niềm tin niềm hi vọng vào tương lai. Khốn khổ vì gánh nặng cuộc sống, khơng thể né được
tiếng thở dài chua xót trước việc nhặt vợ của con, thậm chí, hơn một lần bà đã khóc vì tủi
cực, lo lắng…, vậy mà bà vẫn đồng tình với việc làm có vẻ hoang phí, bốc đồng của con trai
khi thấy Tràng mua dầu thắp đèn. Với câu nói: thắp lên một tí cho sáng sủa, bà đã không chỉ
thể hiện sự trân trọng với hạnh phúc của con cái mà có lẽ cịn bộc lộ một niềm tin dẫu là vu
vơ, mơ hồ về sự sáng sủa hơn trong cuộc đời. Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ và dáng
vẻ xăm xắn của bà trong sáng ngày hôm sau khi cùng con dâu mới thu dọn, quét tước sân
vườn, nhà cửa đã cho thấy ý thức vun đắp cuộc sống gia đình cùng niềm hi vọng cho cuộc
đời của mấy mẹ con.


Bà cũng là người chủ động, nhiệt tình mang lại nhiều nhất niềm vui cho bữa ăn ngày đói.
Mâm cơm lúc đầu, dù trông thật thảm hại khi giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối và một đĩa muối ăn với cháo nhưng dù sao vẫn là mâm cơm của con người, và bữa ăn của
mấy mẹ con vẫn thật vui vẻ, đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung
sướng về sau – từ cách nói dân đã quen thuộc về việc ngoảnh đi ngoảnh lại, chẳng mấy chốc
có gà mà ăn ! đến cách bà dựa vào một triết lí dân gian đầy sức thuyết phục để gieo vào lòng


các con niềm tin về sự đổi đời bởi theo lẽ vần xoay của trời đất thì Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời! Bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai cũng biết là viển vơng, xa vời trong
lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà, vẫn thấy dũng cảm khi cái đói hiện ra thê thảm đau đớn
ở nồi cháo cám.


Kim Lân đã miêu tả hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chát này bằng rất nhiều
động từ: bà lật đật chạy xuống bếp lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút….đặt cái nồi
xuống…. cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười…rồi múc và đưa cho các con những bát
cháo cám! Tất cả những việc này, bà làm bừng thái độ ân cần, đon đả, với nét mặt tươi cười,
với những lời nói cố tỏ ra vui vẻ: chè khốn đấy, ngon đáo để…. Rồi đến khi khơng thể kéo
dài cảnh đầm ấm ở nửa đầu bữa ăn, không thể tiếp tục giữ cho các con cảm giác vui vẻ hạnh
phúc trong ngày đầu tiên của cuộc sống chồng vợ, cũng khơng thể trì hỗn giây phút cay
đắng nhất của bữa ăn, không thể che giấu sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám
đắng chát, bà lại gắn gượng an ủi những đứa con đang tủi hổ.. cắm đầu ăn cho xong lần: cháo
cám đấy…làng nhiều nhà cịn khơng có cám mà ăn.


Kết bài:


</div>

<!--links-->

×