JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 73-79
This paper is available online at
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0062
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
THEO KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC - HUYỀN ẢO QUA NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH VÀ ĂN MÀY DĨ VÃNG CỦA CHU LAI
Trương Thị Kim Anh
Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Đồng Nai
Tóm tắt. Nội dung bài viết muốn nói đến một khuynh hướng viết mới trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, đặc biệt là các tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh, đó là khuynh
hướng hiện thực huyền ảo. Bài viết đề cập sâu đến hai tác phẩm tiểu biểu cho phương thức
viết này là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Với hai
tác phẩm này, chúng tôi chủ yếu đi khai thác ba phương diện cơ bản viết về chiến tranh
theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo, đó là: Chiến tranh với những câu chuyện li kì và
những lời tiên tri nhuốm màu sắc tâm linh; Chiến tranh với những chấn thương tinh thần
của người lính khi trở về.
Từ khóa: Tiểu thuyết, đương đại, khuynh hướng, hiện thực, huyền ảo, chiến tranh, người
lính, phụ nữ.
1.
Mở đầu
Đề cập đến vấn đề huyền ảo trong văn học Việt Nam đương đại, tác giả Bùi Thanh Truyền
trong cơng trình Yếu tố kì ảo trong văn xi đương đại Việt Nam cho rằng: “Yếu tố kì ảo giờ đây
khơng đơn thuần chỉ là công cụ nhận thức, khám phá thế giới, một cái nhìn thế giới mang tính
nghệ thuật, hơn thế nữa, nó đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc lực để văn học tích cực nắm
bắt mọi biểu hiện của đời sống” [7;32]. Cịn trong cơng trình Vấn đề nhận và xử lí chất liệu hiện
thực tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, tác giả Biện Minh
Điền cho rằng: “Hiện thực – huyền ảo với tư cách là một phương thức hay bút pháp trong văn học
đương đại Việt Nam nói chung, trong tiểu thuyết nói riêng từng được bàn đến nhiều – nhiều nhất
trong thời gian qua, cả trên phương diện lí luận cũng như qua nghiên cứu, phê bình các tác phẩm
cụ thể [1;13]. Khi đề cập tới tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết về chiến tranh có cơng trình Tiểu
thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ
thuật, tác giả Nguyễn Thị Thanh cho rằng: “Sự gia tăng yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết về
chiến tranh đã cho thấy thái độ ứng xử tự do của nhà văn với hiện thực và tính chất năng động,
suồng sã, chơi giỡn của thể loại” [6;155]. Trong bài viết Người kể chuyện tự ý thức trong Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh tác giả Cao Kim Lan nhận định: “Tiếng nói tự ý thức về bản thân mình,
về nhân vật và hiện thực chiến tranh với những góc nhìn khủng khiếp, về tình u với đủ các cung
Ngày nhận bài: 15/1/2016. Ngày nhận đăng: 20/5/2016
Liên hệ: Trương Thị Kim Anh, e-mail:
73
Trương Thị Kim Anh
bậc huyền ảo và mê muội đến mức hoang đường của tiểu thuyết tạo ra một kênh giao tiếp riêng
trong thế giới nghệ thuật của Bảo Ninh” [5].
So với những cơng trình trên thì cái mới của chúng tôi là muốn khai thác sâu hơn khuynh
hướng hiện thực huyền ảo được biểu hiện qua cái nhìn về hiện thực chiến tranh tác động trực tiếp
tới những người lính trở về sau chiến tranh của Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh và Chu Lai với
Ăn mày dĩ vãng. Chúng tôi muốn soi chiếu chiến tranh bằng nỗi đau nhân tính hơn là ca ngợi, bởi
vì dù là chiến thắng hay là chiến bại thì cũng đều có những mất mát và đau thương nhất định mà
khơng gì bù đắp nổi.
2.
2.1.
Nội dung nghiên cứu
Chiến tranh với những câu chuyện ma quái và li kì nhuốm màu sắc tâm
linh
Khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, cảm giác đầu tiên đem đến cho người đọc đó là sự hãi, rùng
rợn, có phần nào đó xót xa nữa. Ngay khi vào những trang viết đầu tiên thì Bảo Ninh đã làm cho
người đọc phải “rùng mình” bởi những câu chuyện li kì đậm chất huyền bí về những cánh rừng
mà Kiên đã đi qua trong thời chinh chiến của anh. Những kí ức ấy đến từ giấc mơ của Kiên khi
anh nhớ đến cái ngày anh cùng đồng đội quay lại truông núi “Gọi Hồn” để tìm hài cốt sĩ tử nơi
đây. Câu chuyện về truông núi “Gọi Hồn” bắt đầu gợi cho Kiên nhớ lại những điều kì lạ đậm chất
hoang đường kì ảo nơi đây từ việc “đi đêm ở vùng này có thể nghe thấy chim chóc khóc than như
người” rồi đến “các loại măng nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ như những tảng thịt ròng rịng
máu”, rồi những “con đom đóm thì to kinh dị. . . quầng sáng đom đóm lớn tày cái mũ cối, có khi
hơn” [3;12]. Chưa hẳn đã hết, người ta còn bảo rằng buổi tối cây cối ở đây “hòa giọng với gió rên
lên những bản nhạc ma. Và khơng một ai có thể quen được vì chẳng góc rừng nào, chẳng tối nào
như tối nào” [3;13]. Và kết luận cho những câu chuyện kì lạ nơi đây người ta cho rằng: “có lẽ là
núi là rừng chứ khơng phải con người đã làm nảy sinh ra ở vùng này những huyền thoại rùng rợn,
những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy nhất về cuộc chiến tranh vừa qua” [3;13].
Ở đây người ta có thể “trơng thấy nhiều qi vật lơng lá có cả cánh lẫn vú với cái đi kì
nhơng kéo lết và họ ngửi thấy mùi tanh máu từ chúng, nghe thấy chúng gào rú và ca hát trong các
hang động tối om ở chân đèo Thăng Thiên bên kia trng Gọi Hồn. Nhiều người đã chính mắt
nom thấy những tốn lính da đen khơng đầu chơi trị rước đèn ở ven rừng. Song đặt biệt rùng rợn là
những tiếng rú man dại thường cất lên vào những buổi tinh mơ mờ mịt mưa giăng làm tái sạm mặt
mày những ai chẳng may mà nghe phải” [3;21]. Và tất cả những điều mắt thấy tai nghe đó họ điều
“quy thành điềm trời cảnh báo một thời tai họa, thảm khốc và đẫm máu” rồi bắt đầu họ “cúng tế
vong linh đồng đội. . . xin hồn thiêng phù hộ anh em vượt vòng binh lửa đánh trận rửa thù” [3;21].
Người lính đã nhìn thấy tận mắt vơ khối sự hão huyền ở những cánh rừng họ đi qua, đi kèm với
sự hão huyền đó là những lời tiên tri được dự báo trước trong nỗi sợ hãi và bất an của con người
trước “thời buổi ác nghiệt. . . cuốn đi mất bao nhiêu là con người” [3;66]. Không sợ, không lo lắng
và bất an sao được khi mà Chu Lai trong Ăn mày dĩ vãng đã trần trụi chỉ ra rằng: “Chiến tranh. . .
nó là cái gì nếu khơng phải là ngày nào cũng nhìn thấy người chết, ngày nào cũng chôn người chết
mà vẫn chưa đến lượt mình” [4;42].
Điều đáng buồn là chiến tranh đã làm cho con người chẳng còn là con người nữa khi mà
đồng loại không nhận ra đồng loại nữa, họ cho đó là “con vượn”, là “ma núi”, là “cái bóng”, là
“một hình thù lồm xồm lơng lá” chứ khơng phải là con người, khi mà nhận ra đó là “con người”
thì họ trở nên sợ hãi, đau đớn cho số phận một kiếp người trong thời buổi chiến tranh. Trong hồi
74
Hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo...
ức của Kiên về cuộc chiến tranh đã qua, anh nhớ Thịnh “con” đã bắn chết “một con vượn rất to”
nhưng “lạy Chúa tơi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch được bộ lơng thì ơi giời đất ơi, con vật hiện
ngun hình một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược” [3;14].
Tại sao một con người lại biến thành “con vượn”, thời buổi chiến tranh là đây sao? Trong truyện
ngắn Người sót lại rừng cười của Võ Thị Hảo hình ảnh “con vượn” cũng xuất hiện: “hình như có
con vượn trắng vừa nhảy từ chòi canh xuống và lẩn vào đám lá. Ba người tản ra, một người chui
vào bụi đuổi theo con vượn”, nhưng anh đã bàng hoàng nhận ra rằng: “con vượn trắng ấy lại là một
người con gái hoàn tồn trần truồng, tóc xõa, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh
khách” [1;92]. Và trong cuốn nhật kí nhàu nát của người lính khi chứng kiến cảnh này sau này anh
ta đã viết: “Sẽ không bao giờ mình quên được những gì đã thấy ở Rừng Cười. Có lẽ cảnh chết chóc
cịn dễ chịu hơn! Ôi! Thế là sau chín năm ở chiến trường, nay tơi đã nhìn thấy ở Rừng Cười cái
méo mó man dại của chiến tranh” [1;95]. Bộ mặt chiến tranh là đây sao? Nó “méo mó và man dại”
trong sự chứng kiến khủng khiếp của người lính khi nghĩ về thân phận người phụ nữ trong chiến
tranh.
Ngoài việc chứng kiến cảnh con người biến thành “con vượn”, Kiên còn chứng kiến cảnh
loài “ma núi” với những tiếng “hú” rùng rợn vang vọng khắp bên kia truông núi Gọi Hồn. Vào
một hôm gần sáng “rùng mình Kiên chợt tỉnh và anh nghe thấy từ đáy giấc chiêm bao vừa tắt một
tiếng hú dài, buồn đau, ghê rợn khoan xoay qua anh, ngân vọng lên như tiếng vọng truyền giữa
hai bờ núi” [3;33]. Tiếng “hú” đó có phải là ma khơng? Khơng, khơng phải là ma mà đó là tiếng
lịng gọi bạn tình của những đơi trai gái u nhau, bởi vì mọi người nơi đây cho rằng tiếng “hú”
cất lên từ bên kia núi dội sang bên này là “tiếng hú của lồi ma núi, nhưng Kiên thì biết ấy là tiếng
gọi tình yêu” [3;34], rồi “nghe thật buồn, thê thảm, nhưng Kiên biết đấy là tiếng lòng, người nam
người nữ gọi truyền theo vách núi để tạm biệt nhau và để hẹn ước” [3;37]. Câu chuyện huyền bí về
tình u thời chiến tranh là đây. Vào những đêm Kiên không ngủ được, Kiên nghe tiếng sột soạt
những bước chân đồng đội của anh đi tìm lồi “ma núi” bên kia núi trở về trái tim anh như nghẹn
lại “trước tiếng gọi man sơ, hoang dã ấy của tuổi thanh xuân” [3;38]. Khát vọng tình u của người
lính trong chiến tranh là đây. Họ rời làng quê với một tuổi xuân đầy phơi phới, ai cũng đều ở tuổi
đôi mươi với một thực thể tràn đầy nhựa sống, với một lí tưởng ln sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì
q hương đất nước, nhưng trong họ cũng ln khát khao có được một tình u chân chính, chỉ có
điều chiến tranh cướp đi hết quyền nhu cầu cá nhân của họ, bởi vì chiến tranh là “cõi khơng đàn
ơng, khơng đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tự tuyệt khủng khiếp nhất của dịng giống con
người” [3;40].
Khơng chỉ có câu chuyện về lồi “ma núi” mà cịn có lồi “ma ỏm” - người Triêng gọi thế.
Loài “ma ỏm” lại có tiếng cười một cách “Rũ rượi. Sằng sặc, vọng ra dưới đồi 300 bên bờ sông
Sa Thầy” [3;117]. Tiếng cười nghe rất tinh quái, người ta không biết được là “quỷ rừng” hay con
người cười, chỉ có điều khi nghe tiếng cười ai cũng lạnh chết người. Có một người trong tổ hài cốt
của Kiên đã lần về hướng phát ra tiếng cười thì gặp một túp lều và “trước cửa lều trong ánh nhá
nhem tối thấy một hình thù lồm xồm lơng lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, cởi trần, trần truồng
đang ngồi trên một thân cây đổ nhìn thẳng về chỗ bụi cây tơi đang núp. . . Tơi bị lui. Hình như có
làm động cành cây nên con ma để ý hơn” [3;118]. Lại một lần nữa họ gọi đó là “con ma”, là “bóng
ma”. Nhưng khơng, khơng phải là “con ma” mà đó là một con người bị hóa điên trong chiến tranh
sống ẩn nấp nơi rừng sâu, đó là Tùng điên. Người ta bảo rằng ở trong rừng có những mạch suối
ma, nếu ai uống phải thì sẽ dễ hóa điên nhưng bác sĩ trong trung đoàn bảo Tùng bị điên là “do bị
một viên bom bi lọt vào não” [3;119]. Kiên đã tìm đến cái lều và hỏi to “anh là ai?” nhưng đáp lại
lời Kiên là “một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy. . . Và dường như khơng phải chỉ có một
giọng cười. Bên dưới cái giọng khan khan là một giọng run run nho nhỏ cười nương theo” “họ 75
Trương Thị Kim Anh
nghĩa là khơng phải chỉ có một cái bóng, vút lao đi bay biến và vơ hình vào triền cỏ tranh cao lút
đầu” [3;120]. Và trong một phút chốc người ta thấy trong bãi gianh tiếp giáp rừng tre “hiện thống
lên chỉ trong tích tắc một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng
rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay. Cịn một bóng ma nữa nhưng do rạp cúi xuống chạy nên
chỉ lộ cho mọi người vụt thấy một cái sống lưng đen cháy như lưng vượn. Ảo giác và cảnh thực
đan xen lẫn vào nhau như hai vịng sóng giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng” [3;121].
“Họ” nghĩa là trong túp lều này khơng chỉ có một tiếng cười mà là hai tiếng cười, hai “cái bóng”,
một đàn ơng và một đàn bà cùng sống hạnh phúc trong một túp lều với một thế giới mà chỉ họ mới
hiểu nhau, chỉ có rừng mới hiểu được tại sao hết chiến tranh rồi họ vẫn quay về rừng để ẩn núp
dưới một hình hài khác lạ với những tiếng cười nghe man dại, tiếng cười hay là tiếng khóc, hay là
những tiếng hơ hú điên loạn mất trí ở họ, hay xa hơn là tiếng kêu thảm khóc của lồi “ma ỏm” về
cuộc chiến tranh đã đi qua đến não lòng.
2.2.
Chiến tranh với những ám ảnh khi người lính trở về
Đi ra khỏi cuộc chiến tranh, Kiên là người may mắn sống sót tới ngày hịa bình nhưng cũng
từ đây bắt đầu kiếp sống với những tháng ngày u buồn của thời hậu chiến. Nỗi ám ảnh của Kiên
bắt đầu sau một năm sau chiến tranh khi anh gia nhập đội quân đi tìm hài cốt, đi tìm những người
đồng đội của anh, đi tìm một thời đã qua, cái thời mà sau này luôn ám ảnh vào cả giấc mơ của anh.
Kiên bảo rằng: “Từ dạo về đội hài cốt đêm nào cũng hoảng loạn vì mộng” [3;51], nhất là từ khi
anh trở lại trng núi Gọi Hồn thì trong giấc mơ, những cơn ú ớ hoảng loạn của anh có “Đủ loại.
Lính cũ. Lính mới. Lính sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, qn cơ động 320, đồn 559. Thỉnh thoảng có
cả các “mộng” tóc dài. . . Đơi khi chen vào vài anh ngụy” [3;51]. Cuộc sống của Kiên từ ngày trở
về sau chiến tranh là chuỗi ngày với những kí ức đau buồn, với Kiên tương lai là một cái gì đó xa
mờ và tăm tối, cuộc sống hiện tại của Kiên bây giờ chỉ còn lại những hồi ức đau thương của chiến
tranh. Anh ln nghĩ rằng: “chút lịng tin và lịng ham sống cịn lại trong tơi khơng phải do những
ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của những hồi tưởng” [3;59]. Kiên may mắn sống sót trở về với một
thân thể lành lặn, đó có thể là một điều kì diệu đối với người lính nhưng đâu ai biết được rằng
những ngày tháng sống trong hịa bình cịn đau khổ hơn đối với Kiên, vì anh ln bị ám ảnh bởi sự
khốc liệt của chiến tranh – nơi mà nhân tính và tình người bị phá hủy một cách chẳng thương tiếc,
nơi chỉ có lịng thù hận chống ngợp cả tâm hồn con người, vì thế có thể nói chiến tranh là một cái
gì đó phi lí và khốc liệt nhất đối với con người. Nỗi ám ảnh về chiến tranh không phải chỉ kéo dài
một đêm, một ngày hay một tháng, một năm trong lòng Kiên, mà nỗi ám ảnh đó kéo dài năm này
hết năm khác, có thể hết cả cuộc đời cịn lại của anh.
Những đêm mộng mị hoảng loạn giữa tranh tối tranh sáng, giữa quá khứ và hiện tại cứ ùa
về trong Kiên, nỗi khủng khiếp bởi những âm thanh của tiếng súng, tiếng máy bay, pháo đạn trong
chiến tranh cứ bám riết lấy anh, “có đêm anh giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành
tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang” rồi trong anh như “sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh
lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát.
Máu hung tàn. Tâm lí thú rừng. Ý chí tối tăm và lịng dạ gỗ đá” [3;59]. Trong cơn mộng mị hoảng
loạn với những kí ức khủng khiếp của chiến tranh Kiên tưởng tượng “khơng khí trong căn phịng
này khi đấy thật kì lạ, như thể bị hút vào tường hấp dẫn của quá khứ: cũng rên lên, xơ giật, đập
thình thình vì sóng xung kích của hàng trăm trái đạn pháo dội cấp tập xuống lịng trng Gọi Hồn.
Và tường vách căn phịng rầm rầm rung lên trong tiếng động cơ máy bay bổ nhào. Kiên giật mình
bật lùi khỏi cửa sổ” [3;103]. Và khi đó “anh có cảm giác giống như khi bị thương mất nhiều máu,
ngất đi, vừa hồi tỉnh lại ngay trên bãi chiến trường. Thế giới trước mắt anh cơ hồ đã đổi khác”
[3;104]. Tất cả như kéo anh về với cuộc chiến năm xưa, để rồi khi “Kiên choàng tỉnh bắt gặp mình
76
Hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo...
không phải đang ở trên giường mà vật vã, dụi dọ dưới sàn nhà nước mắt ướt mặt, run lên vì lạnh,
vì khiếp đảm, vì tê dại trong lịng một niềm thương thân não nùng và vô duyên cớ” [3;86]. Những
ám ảnh từ đời nảo đời nào trong chiến tranh những tưởng rằng đã ngủ yên từ lâu nhưng dường như
có một phép màu ma quái nào đó hùa nhau thức dậy cả làm cho tâm hồn Kiên “mỗi ngày một thêm
hoang phế, tranh tối tranh sáng, vật vờ toàn những hồn ma bóng quỷ” [3;86].
Khơng chỉ ám ảnh bởi cảnh chém giết, chết chóc, bởi những âm thanh rùng rợn nơi chiến
trận mà Kiên cịn một ám ảnh khác, đó là mối tình giữa anh và Phương trước thềm chiến tranh.
Hịa bình trở về anh gặp Phương, người con gái anh yêu trước khi gia nhập quân ngũ, cứ nghĩ rằng
Phương sẽ kéo vớt cuộc đời còn lại của anh nhưng Phương đã không thể và cô đã ra đi với một
người đàn ông khác, bỏ lại anh trong nỗi cô đơn và tuyệt vọng. Vì sao lại như vậy? Phải chăng
với Kiên “mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của
tình u xéo nát” [3;101]. Kí ức về chuyến tàu định mệnh năm xưa chẳng buông tha cho anh và
Phương. Kiên nhớ lại đoàn tàu chiến tranh năm ấy với một nỗi niềm đau xót cho cả anh và Phương,
chính đồn tàu đau thương đó đã giúp anh nhận ra rằng “chiến tranh trong phút chốc đã không như
anh tưởng. Nỗi đau đầu tiên trong đời lính, hầu như mơ hồ, hầu như khơng có thật, bám riết lấy
Kiên” [3;240]. Trên đoàn tàu chiến tranh ấy trong phút chốc những kẻ man rợn đã cướp đi đời con
gái của Phương, cướp đi tình yêu trong trắng giữa anh và Phương, kể từ đây cuộc đời của anh và
Phương trở thành hai lối rẽ khác nhau, anh có cuộc chiến của anh, cịn Phương có cuộc đời riêng
của cơ. Điều cịn lại trong anh bây giờ khi nghĩ về đồn tàu định mệnh năm ấy chỉ “có nỗi buồn,
mênh mang nỗi buồn – nỗi buồn chiến tranh” [3;257].
Khơng chỉ có Kiên, nhân vật Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai cũng bị ám ảnh
bởi chiến tranh. Nỗi ám ảnh lớn nhất trong cuộc đời của Hai Hùng khi trở về sau chiến tranh đó là
cái chết của người con gái anh yêu có tên là Ba Sương. Cái ngày Hai Hùng trở lại miền Tây, đi tìm
một cái gì đó của thời dĩ vãng đã xa thì vơ tình anh đã nghe được âm thanh một giọng nói mà cách
đó gần hai chục năm trước nó rất đỗi quen thuộc đối với anh, đó là giọng nói của Ba Sương. Nhưng
trong sâu thẳm tâm hồn anh luôn khẳng định rằng: “cô ấy chết ở miền Đông, đây lại là chót cùng
miền Tây, hồn ma bóng quế có vật vờ thì nơi âm phủ lấy đâu ra phương tiện hiện đại như kiểu cái
Toyota của thằng cha Quân để vật vờ xa xôi đến thế. Vớ vẩn! Láo tt! Chết rồi. Chơn rồi. Chính
tay mình cướp xác rồi cũng chính tay mình chơn chứ ai chơn mà cịn ám ảnh bệnh hoạn?” [4;18].
Thế nhưng Hai Hùng đâu biết được rằng cuộc đời Ba Sương trong chiến tranh và sau chiến tranh
là một sự “đổi trắng thay đen”, vì tên gọi Ba Sương bây giờ khơng cịn nữa mà bây giờ là Tư Lan
– một giám đốc sở nông nghiệp.
Kết thúc chiến tranh Hai Hùng trở về quê nhà và cũng lấy vợ xây dựng tổ ấm gia đình như
bao nhiêu người lính khác nhưng ối ăm thay cái nhát cắt tình u năm xưa nơi chiến trường ln
bao quanh phủ kín lấy tâm trạng anh, anh khơng thể nào thoát ra khỏi cái dư âm về một buổi sáng
định mệnh giữa anh và Ba Sương năm ấy. Để rồi cuộc sống còn lại của anh bây giờ là: “không vợ,
không con, không tương lai, không hiện tại, không cắc bạc dính túi, chỉ có mảnh q khứ phập
phồng đập trong lồng ngực. . . Tôi là kẻ không cịn gì để mất mà lại đang đi tìm cái để cịn” [4;54].
Đúng là Hai Hùng khơng cịn gì để mất nhưng lại đi tìm cái để cịn – đó là sự thật về cái chết năm
xưa. Bởi vì sau cái đêm nghe giọng nói người đàn bà có tên mà hiện tại mọi người vẫn thường gọi
là Tư Lan kia trong con người Hai Hùng “bỗng trở thành ám ảnh. Cái ám ảnh về người đàn bà chết
bỗng lột xác thành bà Giám đốc sở” [4;51]. Những kỉ niệm đau buồn cứ lởn vởn trong lòng anh
khi trở lại “bưng biền” quen thuộc năm xưa, cuộc đời xô đẩy để anh gặp lại người phụ nữ năm xưa
anh yêu, đó là định mệnh giữa hai người chăng hay đó chỉ là trò đùa của cuộc đời dành cho anh và
Ba Sương của quá khứ và Tư Lan của ngày hơm nay.
Khi đi tìm lại q khứ để biết được liệu Tư Lan bây giờ có phải là Ba Sương ngày xưa của
77
Trương Thị Kim Anh
anh khơng thì trong lịng Hai Hùng luôn nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Anh ta nghĩ rằng: “nếu đúng
cơ ấy khơng chết thì tơi sẽ được cứu rỗi. Cịn cơ ấy đúng là chết thật rồi thì tôi sẽ tiếp tục bị ám
ảnh như đã từng bị ám ảnh vì chính tơi, dù có biện minh thế nào đi chăng nữa, cũng là kẻ phần
lớn gây nên cái chết ấy” [4;93]. Khi Hai Hùng tìm đến Tuấn, người đồng đội đã từng cùng anh
cướp xác Ba Sương ngay sau khi cô ấy bị giặc giết chết anh đã ln lo sợ nếu như nó bảo cơ ấy
đã chết nhưng cũng “càng lo sợ khi nó nói cơ ấy cịn sống” [4;157]. Nhưng một đằng khác thì Hai
Hùng ln khẳng định với chính mình rằng: “rõ ràng cơ ấy chết rồi, chết ngay trước mắt tơi, chính
tay tơi đã cướp xác và chơn cất cơ mà?” [4;91]. Thì ra càng đi tìm kiếm bao nhiêu thì trong lịng
anh càng nổi lên nhiều nỗi giằng xé bấy nhiêu không biết đâu là sự thật, đâu là sự dối trá lừa lọc
của người đời. Một nửa thì anh mong cái chết năm xưa là thật, nhưng một nửa thì anh lại mong
rằng đó khơng phải là sự thật, rằng Ba Sương vẫn còn sống, để tâm hồn anh được cứu rỗi khỏi nỗi
đau mà bao nhiêu năm qua anh cho rằng tại anh mà cô ấy chết. Anh đã trở lại quê hương, nơi Ba
Sương sinh ra và lớn lên để tìm nhưng “ở đây khơng ai biết thêm gì về Sương ngồi sự hi sinh cực
kì anh dũng đã được ghi vào sử đồn, sử Đảng hơm đó” [4;165], và người dân nơi đây cịn khẳng
định: “chúng tơi đã tìm kiếm, đã bốc cốt, đã đưa về nghĩa trang, đã làm đúng thủ tục, đã cho vào
danh sách” [4;164]. Ba Sương đã chết thật rồi sao hay dưới nấm mồ kia chỉ là một cái xác khác
thay thế cô ấy chứ không phải là cô ấy. Khi Hai Hùng tìm lần ra nghĩa trang, nơi có hàng ngàn
liệt sĩ anh dũng ngã xuống trong chiến tranh đã nằm lại nơi đây, nơi có đồng đội của anh năm xưa
yên nghỉ nơi đây, trong bóng tối nhạt nhịa cái thế giới vơ hình và hữu hình của người chết anh chỉ
thấy những cái bóng của đồng đội anh năm xưa đuổi theo anh, vây bủa anh nào là “cái bóng của
Viên” rồi đến “cái bóng Bảo”, “cái bóng của Khiển”, vậy cái bóng của người con gái anh yêu năm
xưa đâu sao chẳng thấy mà chỉ thấy một nấm mồ có ghi tên “Phạm Thị Thanh Sương”. Tấm bia đá
giống như một sự trêu ngươi phũ phàng, thật hư, nóng lạnh đan xen kẽ trong con người anh nhưng
“dù sao dưới đó, dưới tấm bia câm lặng này cũng có một nửa, một nửa sự thật và cả một đời trận
mạc của tơi trong đó” [4;170].
Một nỗi niềm ẩn uất dấy lên trong Hai Hùng khi biết được có sự tồn tại của một nấm mồ có
tên là Sương, nhưng đi cùng với đó lại là sự tồn tại hiện giờ của Tư Lan. Giá như buổi sáng năm
xưa khi bị địch vây ráp trên hầm bí mật của hai người thì anh nên đẩy cơ ấy lên trước chứ không
phải anh nhảy lên trước rồi cứ thế mà vùng chạy phó mặc cho cơ ấy ở đằng sau để rồi bị địch vây
bắt. Rồi còn “giá như. . . Vâng, cả cái giá như ba đêm sau lấy được xác, tơi tĩnh trí vượt qua cái mặc
cảm sợ hãi tồi tệ để nhìn kỹ vào mặt em, vào bàn tay thiếu ngón của em thì giờ đây, tơi đâu có đến
nỗi lịng dạ phải ngược xi chia nửa bên mộ em! Mộ em hay mộ của. . . ” [4;170 -171]. Và khi đã
tìm ra được sự thật là người nằm dưới nấm mồ kia là Hai Hợi, chị em họ với Ba Sương chứ không
phải là Ba Sương, cịn Tư Lan bây giờ mới chính là Ba Sương, anh như cởi bỏ được gánh nặng cái
quá khứ mà anh luôn bị ám ảnh sau chiến tranh: “như thế em không chết. Tức là tôi không giết em,
tôi vô tội, tơi trắng án trong tịa án lương tâm” [4;253]. Anh đã trắng án trong tịa án lương tâm
của mình nhưng dường như anh nhận ra một điều rằng bây giờ tất cả mới hết thật sự “hết quá khứ,
hết những năm tháng trận mạc khổ mà vui, hết tình u, tình đồng đội và cả tình đồng chí. Hết
nhẵn! Tựu trung mọi sự chỉ là trò đùa của quỷ” [4;258]. Sau cái chiến thắng oai hùng này, dường
như mỗi người lính trở về đều mang trong mình một nỗi đau riêng, khơng chỉ có Kiên, Hai Hùng
mà cịn có cả những người lính khác nữa.
3.
Kết luận
Dù rằng cuộc chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng nhưng những tàn dư của nó để lại cho con
người thì khơng bao giờ xóa hết được. Và khi viết về chiến tranh với một phương thức mới dựa
trên những hồi ức đang xen của chính những người lính trở về từ cuộc chiến thì bộ mặt của chiến
78
Hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo...
tranh hiện lên càng rõ nét và chân thực hơn bao giờ. Từ những câu chuyện đậm chất huyền thoại
có một chút gì đó nhuốm màu sắc tâm linh ở những cánh rừng từng phải hứng chịu hàng tấn bom
đạn dội xuống mỗi ngày, rồi đến những câu chuyện tình yêu của những người trong cuộc, những
thay đổi của con người trước chiến tranh, trong chiến tranh và sau chiến tranh như thế nào đều hiện
rõ trên từng trang viết của các nhà văn. Qua từng trang viết chúng ta càng thấu hiểu hơn về nỗi
trăn trở trong quá trình nhận thức về quá khứ, về cuộc chiến tranh, về những gì được và mất của
con người trong cuộc chiến ở Bảo Ninh và Chu Lai. Đây được xem như là một bước tiến trên con
đường hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam đương đại thời kì hội nhập, ở đó nhà văn được nâng cao
vai trò chủ thể sáng tạo của mình một cách triệt để. Vì thế dù viết về chiến tranh, về những mất
mát đau thương của con người nhưng ở Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của
Chu Lai lại là tiếng nói phản kháng chiến tranh một cách mạnh mẽ nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đoàn Ánh Dương, 2014. Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam từ 1986 đến nay (Tuyển chọn và giới
thiệu). Nxb Phụ nữ.
[2] Biện Minh Điền, 2015. Vấn đề nhận và xử lí chất liệu hiện thực tiểu thuyết Việt Nam đương đại
trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gịn (Số 1), tr.5-17.
[3] Bảo Ninh, 2011 Nỗi buồn chiến tranh. Nxb Trẻ.
[4] Chu Lai, 2013. Ăn mày dĩ vãng. Nxb Văn học.
[5] Cao Kim Lan. Người kể chuyện tự ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
/>[6] Nguyễn Thị Thanh, 2012. Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – Những
khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
[7] Bùi Thanh Truyền, 2014. Yếu tố kì ảo trong văn xi đương đại Việt Nam. Nxb Văn học.
ABSTRACT
The tendency war in Vietnam contemporary novels about tendency magic realism
in The Sorrow of War by Bao Ninh and Bum past of Chu Lai
The contents of the article refers to a tendency to write new in Vietnam contemporary
novels, especially novels written on the subject of war, there is a tendency magic realism. The
article mentions two works deep to typical methods of this writing is The Sorrow of War by Bao
Ninh and Bum past of Chu Lai. With these two works, we mainly go exploited three basic aspects
to write about war-oriented magic realism, that is: War with thrilling stories and prophecies color
tinged spirituality; War with the mental trauma of soldiers when they return.
Keywords: Fiction, contemporary, trend, realism, fantasy, war, soldiers, women.
79