13
VÊn ®Ị chđ nghÜa hiƯn thùc...
vÊn ®Ị chđ nghÜa hiƯn thực xà hội chủ nghĩa
trong văn học việt nam - nhìn từ lịch sử
phong lê(*)
ục tiêu hiện thực xà hội chủ
nghĩa (XHCN) vốn đà đợc xác
định từ Hải Triều, l ngời đÃ
nêu ra khái niệm tả thực xà hội v tả
thực XHCN (1) trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm v phái nghệ
thuật vị nghệ thuật giữa những năm 30
thế kỷ XX.
m
Nh vậy l thuật ngữ hiện thực
XHCN đà xuất hiện ở Việt Nam chỉ vi
năm sau Đại hội nh văn Liên Xô lần
thứ nhất, năm 1934, gắn với ngời khai
sáng l M. Gorki, gắn với Cách mạng
Tháng Mời v Liên bang Xô Viết- quê
hơng của cách mạng thế giíi - niỊm
ng−ìng mé vμ hy väng cđa c¶ mét dân
tộc còn chìm trong tối tăm đang đi tìm
ánh sáng.
Chỉ cần nhớ lại truyện kể Nhật ký
chìm tu của Nguyễn ái Quốc đợc
truyền tụng vo buổi đầu những năm 30,
v những bi thơ của Tố Hữu tiếp đó về
những lÃo đầy tớ ngồi mơ nớc Nga,
mới thấy thuật ngữ tả thùc XHCN” xuÊt
hiÖn ë ViÖt Nam lμ thuéc vμo mét cụm từ
thiêng liêng đối với dân tộc, v do vậy m
trở thnh huý kị đối với chính quyền
thống trị.
Rồi hiện thực XHCN chính thức vo
các văn kiện của Đảng Cộng sản, trớc
tiên l Đề cơng về văn hoá Việt Nam
1943: Nền văn hoá m cuộc cách mạng
văn hoá Đông Dơng phải thực hiện sẽ l
văn hoá XHCN... Tranh đấu về tông
phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển,
chủ nghĩa lÃng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,
chủ nghĩa tợng trng) lm cho xu hớng
tả thực XHCN thắng...; rồi vo Chủ
nghĩa Mác v văn hoá Việt Nam - năm
1948: Về sáng tác văn nghƯ lÊy chđ
nghÜa hiƯn thùc XHCN lμm gèc”. 1 Tõ đây,
nó thờng xuyên chiếm vị trí quan trọng
trong phần viết về văn hoá văn nghệ của
các Báo cáo hoặc Nghị quyết của Đảng, v
Đại hội của các giới văn học nghệ thuật.
Năm 1957, Diễn văn của Gorki tại Đại
hội nh văn Liên Xô lần thứ nhất- năm
1934, Đại hội đà thông qua Điều lệ với
định nghĩa kinh điển về hiện thực xà hội
chủ nghĩa, lần đầu tiên v chính thức
đợc dịch ra tiếng Việt, với Lời nói đầu
của ngời dịch l Hoi Thanh; trong Lời
nói đầu đó, Hoi Thanh nhắc đến Gorki,
qua bản báo cáo ny l hình ảnh một vĩ
nhân đứng trên bậc cửa rất cao của cuộc
đời mới nhìn sâu đến những chỗ tận cùng
thời tiền sử, nhìn st x−a nay, vμ chØ
®−êng ®i tíi” (2).
1 (*)
GS. ViƯn Văn học, Viện KHXH Việt Nam.
14
Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 1.2008
Råi nã vμo khu vực giáo khoa, khi sự
nghiệp giáo dục Đại học đợc mở rộng, từ
nửa sau những năm 50, bắt đầu bằng
việc dịch mấy bộ sách mang nội dung,
hoặc đợc gọi đích danh l nguyên lý lý
luận văn học để phục vụ kịp thời nhu
cầu đo tạo sinh viên ở nh trờng.
Từ đầu những năm 60, v còn kéo
di nhiều năm về sau, những bộ nguyên
lý ấy nh của Giăng Phơrêvin (Pháp),
Timôphêép, Abramôvít, rồi các chuyên
luận của P.S. Tơrôphimốp (3), V. Sécbina
(4), A. Ivasencô (4), A.I. Ôpsarencô (5)...
(cùng với cuốn của Ba Nhân v Bi nói
chuyện tại Hội nghị văn nghệ Diên An
của Mao Trạch Đông) đà trở thnh chỗ
dựa cho các hoạt động lý luận văn học ở
Việt Nam, bao gồm việc soạn thảo các
giáo trình bậc Đại học v sách giáo khoa
bậc Phổ thông, cho việc vận dụng vo các
hoạt động lý luận phê bình thờng nhật
trên báo chí, v từng l cơ sở cho mấy
cuộc hội thảo lớn chuẩn bị cho Đại hội
nh văn Việt Nam lần thứ II, vo cuối
năm 1961, sau đó đợc in trong hai tập
sách: Văn nghệ- vũ khí sắc bén, v Không
ngừng nâng cao tính Đảng trong văn
nghệ - năm 1962...
Tiếp đó, vo giữa những năm 60 khi
cuộc chiến tranh xâm lợc của Mỹ leo
thang ra miền Bắc, giới học thuật Việt
Nam lại bớc vo một cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa xét lại m hớng chủ
đạo l phê phán - phê phán thuyết tính
ngời siêu giai cấp; phê phán các quan
điểm coi nhẹ tính Đảng v hiện thực
XHCN; phê phán chủ trơng phá vỡ
lôgich cuộc sống...; v đối tợng phê phán
không chỉ l một số tác giả, tác phẩm
trong nớc m còn l, v chủ yếu l một
số chuyên gia, học giả phơng Tây, từ
Lucát, Vitma, Phitsơ, đến Garôđi...
Nh sau ny sẽ sáng tỏ, việc nhận
thức lại v phê phán các quan niệm chật
chội, giáo điều về lý luận, trong đó có lý
luận về chủ nghĩa hiện thực XHCN đÃ
diễn ra ở Liên Xô, bắt đầu từ sau Đại hội
Đảng lần thứ XX - năm 1956. Nhng tất
cả sự nhận thức lại đó ở Liên Xô vo lúc
ny chỉ đợc giới thiệu vo Việt Nam một
phần, phần đó lại đợc nhìn nhận một
cách cảnh giác, v đợc gộp vo chung
một cụm từ chủ nghĩa xét lại. Không kể
Số phận một con ngời của Sôlôkhốp khi
đợc chuyển thnh phim, cùng với hai
phim Bi ca ngời lính v Đn sếu bay
qua, ngay cả bộ ba Những ngời sống v
Những ngời chết của Ximônốp l nh
văn tên tuổi, có quan hệ thân thiết với
Việt Nam, l ngời lÃnh đạo Hội nh văn
Liên Xô đà sang thăm Việt Nam nhiều
lần, cũng có những điều khiến ta e ngại.
Cố nhiên, do hon cảnh chiến tranh
v do chủ trơng chống chủ nghĩa xét lại
- về mặt chính trị l không có lợi cho sự
nghiệp chống Mỹ - giới học thuật Việt
Nam không thể no nhận rõ v có điều
kiện phân tích kỹ thực trạng lịch sử cụ
thể của đời sống chính trị v văn học
Liên Xô. Từ đầu những năm 1960 đến
năm 1975, khi cuộc chiến tranh chống
Mỹ kết thúc thắng lợi, sinh hoạt văn
chơng v học thuật ở Việt Nam vẫn
phát triển trên đờng ray cũ, cha có gì
thay đổi: vấn đề hiện thực XHCN vẫn
tiếp tục sự khẳng định các nguyên lý
quen thuộc của nó, v với ý nghĩa thiêng
liêng bất dịch của nó.
Một thời điểm quan trọng cho sự
khẳng định đó l Bi nói chuyện của
Trờng Chinh trong Đại hội văn nghệ
ton quốc lần thứ T, năm 1968 - trong
đó, có sự tổng kết về Đờng lối văn nghệ
của Đảng, gồm 10 điểm; v một điểm
then chốt trong đó l yêu cầu: Nắm
vững phơng pháp hiện thực XHCN để
sáng tác v phê bình (6, tr.171).
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực...
Đầu năm 1970, các nh lý luận văn
học ở Liên Xô, đứng đầu l D. Máccốp đÃ
đặt vấn đề hiện thực XHCN nh một hệ
thống mở; nhng ở Việt Nam, phải hơn
10 năm sau, mới có sự giới thiệu (7). Còn
ở khoảng giữa đó, trớc sau thời điểm
1975 lịch sử, vẫn l các cuộc tranh luận
khá gay gắt nhằm chống các ảo tởng
hòa bình, cổ vũ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, phản đối lý thuyết đối mặt (con
ngời với sự giằng co giữa hai mặt tốt xấu, thiện-ác), tiếp tục phê phán bi kịch,
không chấp nhận nhân vật tích cực có
xung đột nội tâm...
Trong hon cảnh nh vậy, lý luận về
hiện thực XHCN không thể tách ra khỏi
quỹ đạo lý luận chung về văn nghệ. Nó
vẫn tiếp tục giữ mu sắc thiêng liêng
khả kính của nó. Nói rằng nó l phơng
pháp tốt nhất, nhng trong sáng tác v
phê bình nó cứ gần nh l ở địa vị duy
nhất, vì trong lý luận không có ai nói
khác, v trong sáng tác không dễ gì có
tìm tòi mới hoặc lạ, vẫn chỉ một xu
hớng, một âm hởng chung bao trùm.
Những gì đi chệch đờng ray hiện thực
XHCN phải coi chừng. Sau cuộc đấu
tranh chống Nhân văn - Giai phẩm hồi
1956-1958 lại tiếp tục các vụ việc nh
Mạch nớc ngầm, Những ngời thợ mỏ,
Con nai đen, Phá vây, Vo đời, Mở hầm...
rồi Cây táo ông Lnh, Cái gốc, Tình
rừng, Chuyện một đêm đợi tu... rồi
Vòng trắng, Sẹo đất, Đối mặt... cho đến
Đất trắng v một số truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu ở thời điểm cuối
những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ
XX... Tóm lại, về lý luận, vẫn phải l sự
quán triệt các nguyên tắc: miêu tả cái
mới của đời sống l chủ yếu; chủ đề t
tởng phải sáng rõ; hình tợng nghệ
thuật không thể lấp lửng, nếu có dạng
biểu tợng hai mặt (équivoque) thì khó
tránh khỏi có dụng ý xấu, v dứt khoát
15
giới phê bình, lÃnh đạo phải tìm kiếm v
vạch cho ra; sự phát triển của hiện thực
l phải đi lên, có quanh co khúc mắc mấy
thì rồi âm điệu chung phải l lạc quan,
v thắng lợi l cơ bản. ở chỗ no giới lý
luận hoặc sách giáo khoa có tham vọng
đi sâu hơn một chút vo học thuật thì
Chủ nghĩa Hiện thực phê phán phải có vị
trí cao, thậm chí l độc tôn so với các tro
lu khác - do nó đợc xem l tiền thân, l
sự chuẩn bị trực tiếp cho Chủ nghĩa Hiện
thực XHCN. Không nói Chủ nghĩa Tự
nhiên (đợc hiểu có phần đơn giản, chỉ
thấy mặt tiêu cực), v các tro lu Tiền
phong chủ nghĩa - đợc hiểu l Chủ
nghĩa Hiện đại, ngay cả Chủ nghĩa LÃng
mạn cũng phải ở vị trÝ thÊp so víi Chđ
nghÜa HiƯn thùc; vμ HiƯn thùc XHCN
dứt khoát phải l một bớc phát triển
cao hơn của Hiện thực phê phán, một
bớc chuyển về chất trong tiến trình lịch
sử văn học nhân loại. (Cho đến nửa đầu
những năm 90 vẫn còn luận điểm: Chủ
nghĩa Hiện thực XHCN ra đời trên sự
suy kiệt sinh lực của Chủ nghĩa Hiện
thực phê phán).
Ngời viết bi ny cũng đà góp phần
hởng ứng mục tiêu đó trong một tên
sách đợc chuẩn bị ngay từ sau năm
1975, có tên: Văn xuôi Việt Nam trên con
đờng hiện thực XHCN với sự triển khai
các ý tởng chính, căn cứ vo các nguyên
tắc cơ bản của phơng pháp sáng tác
hiện thực XHCN, v với một Lời nói đầu
rất chân thnh: Nghĩ về văn xuôi nh l
một hình thức có khả năng đáp ứng tốt
cho những đòi hỏi của cách mạng, v
nghĩ về hiện thực XHCN nh l phơng
pháp sáng tác có hiệu quả nhất, m mỗi
ngời viết nên nắm vững - những trang
sau đây muốn đợc xem nh l một ít
căn cứ, nhằm khẳng định sự đúng đắn
của con đờng chúng ta đà đi, dới ánh
sáng những nguyên lý mỹ học Marx -
16
Lenin v đờng lối văn nghệ của Đảng
(8, tr.8).
Tóm lại, trên từng giai đoạn của quá
trình văn học suốt nửa thế kỷ qua, sự
lÃnh đạo của Đảng v hoạt động của lý
luận - phê bình (đợc xem nh l một
phơng thức chỉ đạo của Đảng trên mặt
trận văn nghệ), v d luận của bạn đọc
chính thống nói chung đà dnh sự hồ hởi
v nhiệt tình đón đợi, ca ngợi những
sáng tác thật sự có thnh công, có sức
hấp dẫn trên phơng hớng phát hiện
cái mới, v khẳng định chủ nghĩa anh
hùng của dân tộc. Trên số lợng khá lớn
các tác phẩm nằm trong bản danh sách
ny, có thể kể Đôi mắt, Lng, Truyện
Tây Bắc, Đất nớc đứng lên, Sống mÃi
với thủ đô, Mùa lạc, Rẻo cao, Sông Đ,
Hòn Đất, Gia đình má Bảy, Xung đột,
BÃo biển, Ngời mẹ cầm súng, Dấu chân
ngời lính, Ký sự miền đất lửa... Còn về
thơ l cả một danh sách di những bi,
những tập, những quyển gắn với tên tuổi
của vi ba thế hệ viết, tính từ Xuân
Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên...
qua Hong Trung Thông, Vũ Cao, Chính
Hữu... đến Thu Bồn, Phạm Tiến Duật,
Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân, Bằng Việt...
Thế nhng ngay cả ở thời điểm nền văn
nghệ ta đầy sinh sắc, vo đầu những
năm 60 thế kỷ XX, với nhận định đầy cổ
vũ của Đảng, sau Đại hội lần thứ Ba1960: Một nền văn nghệ XHCN, tuy còn
trẻ tuổi nhng nó ®· tá ra cã søc sèng dåi
dμo vμ ®Çy høa hẹn (9, tr.22), thời điểm
m phơng pháp hiện thực XHCN ở độ
cao sức hấp dẫn của nó, thì dấu hiệu của
những căn bệnh ấu trĩ, công thức v sơ
lợc, của những quan niệm giản đơn về
ý thức chính trị trong giới sáng tác v
các giới có trách nhiệm thẩm định, nh
cách nói của Nh Phong, cũng đà hạn
chế nh văn phản ánh trung thực cuộc
sống hiện thực. Nh Phong - một cây
bút phê bình tin cậy của Đảng, trong
Thông tin Khoa học xà hội, số 1.2008
cuộc thảo luận chuẩn bị cho Đại hội nh
văn lần thứ II, vo cuối 1961, đà nêu ý
kiến: Đứng trớc một tác phẩm văn
nghệ, đánh giá nó trớc tiên về mặt
chính trị l đúng, nhng thờng ngời ta
hiểu chính trị một cách thiển cận...
Phản ánh hiện thực bây giờ nhiều khi
phải đề cập đến những tác phẩm trong
nội bộ chúng ta không tốt đẹp gì. Những
cán bộ quan liêu, tham ô, lÃng phí,
những đảng viên không gơng mẫu,
quần chúng cách mạng còn phức tạp...
Cái đó tỏ ra không có hại gì. Nhng
trong tâm lý chung, vẫn có cái sợ l
không có chính trị v tả sù thËt nh−
thÕ lμ lμm mÊt uy tÝn cđa c¸n bộ, của
đảng viên, của quần chúng cách mạng.
Đi xem Platôn Krêset nhiều đồng chí cán
bộ phản ứng tại sao anh giám đốc bệnh
viện, một cán bộ phụ trách lại có thể xấu
xa nh vậy. Chính vì những ý thức chính
trị giản đơn nh thế m ngời viết non
gan nhiều khi phải cắt xén hiện thực,
mi mòn cạnh cho nó khuôn, nó hợp theo
một công thức no đó. Điều đó không thể
đổ lỗi cho Đảng ta, Đảng ta không bao
giờ sợ sự thật, đờng lối văn nghệ của
Đảng ta không bao giờ bắt phải tô hồng
cuộc sống. Nhng trong thực tiễn chỉ đạo
văn nghệ, phê bình văn nghệ hoặc
thởng thức văn nghệ, vẫn còn tình
trạng hiểu chính trị một cách máy móc
gò bó nh vậy, cha thừa nhận cho văn
nghệ cái quyền đợc mạnh dạn đề cập,
phản ánh bất cứ vấn đề no trong hiện
thực m nh văn thấy l cần thiết phải
nói đến (10, tr.153).
Tìm nguyên nhân của bệnh sơ lợc,
về phía nh văn, Nh Phong xét nó ở cái
thói quan liêu v thiếu dũng khí: ... ở
nh văn ta, đầu óc quan liêu cũng nhiều
chứ không ít, hay lấy cái công thức sẵn
có, nhận định sẵn có, thay cho việc
nghiên cứu cuộc sống, rất ít tự mình đi
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực...
vo cuộc sống để phát hiện vấn đề. Đi
đến đâu cũng chỉ chăm chăm lấy tμi liƯu
cđa cÊp ủ, cđa c¸n bé c¸c ngμnh råi
xng đối chiếu để tìm... Thứ ba l cái
thiếu dũng khí. Quả l có nh vậy. Nếu
nh văn sát cuộc sống, phát hiện đợc
trong cuộc sống những sự thật cần phải
nói lên, những vấn đề cần phải giải
quyết, dù l những gì gai góc khó nói thì
ai có thể tớc đợc cái quyền của nh
văn phát biểu với Đảng (10, tr.154).
Bây giờ sau quÃng lùi của nhiều
chục năm v trong tầm cao của công cuộc
Đổi mới m nhìn lại, điều rõ rng l, bên
cạnh những thnh tựu, những cái đợc
trong mô tả một hiện thực đang đi vo
công cuộc xây dựng mới, cũng còn có một
sự thật khác còn mờ nhạt trong văn học,
một sự thật, phải cho đến Đại hội VI của
Đảng - Đại hội đà nêu phơng châm Lấy
Dân lm gốc, v Nhìn thẳng vo sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, vo cuối năm 1986 - chúng ta mới
dám có dũng cảm nói lên: đó l sự thật về
những thiếu sót v thất bại, về những
mất mát v nỗi đau, về những gì gây lo
âu v cảnh giác, về cả những tai hoạ
không phải chỉ do kẻ thù dân tộc v giai
cấp gây ra, m còn do chính chúng ta gây
ra, trong đó có bệnh duy ý chÝ vμ t− duy
bao cÊp, gåm c¶ sù “dèt nát - theo Marx,
cũng l nguyên nhân gây bi kịch - cùng
biết bao tệ bệnh... Một sự thật tuy không
phải lμ chÝnh, lμ chđ u, nh−ng cịng lμ
quan träng, lμ lớn, cùng đi kèm, cùng
song song tồn tại để lm nên bộ mặt cuộc
sống nh chính nó, nhng do nhiều
nguyên nhân, không ít ngời viết đÃ
đnh lòng hoặc nén lòng quay lng v bỏ
qua. Một sự thật lâu lâu lại thấy lấp ló
hé ra trên một vệt sáng tác, v nhanh
chóng bị vùi vo quên lÃng; trong số đó,
cho đến bây giờ nhìn lại, không phải
không có những cái thật sự có giá trị tiên
17
đoán m không ít ngời viết đà phải trả
giá đắt cho sự dũng cảm của mình.
Nh vậy l bên cạnh sự thật lớn, ho
hùng về hai cuộc kháng chiến chống
Pháp v chống Mỹ vĩ đại trên cả tiền
tuyến v hậu phơng còn một sự thật
khác của sự nghiệp xây dựng - sự thật đó
đà sớm có bộ mặt trong văn học miền Bắc
từ đầu những năm 60 m âm điệu chung
l phơi phới, lạc quan, v rng rng một
cảm xúc trữ tình nh đợc ghi nhận
trong ánh sáng v phù sa của Chế Lan
Viên, Bi thơ cuộc đời của Huy Cận, Bi
ca mùa Xuân 61 của Tố Hữu: Cho 61,
đỉnh cao muôn trợng... Sự thật đó l
đúng, nhng cha đủ, nếu theo dõi sát
diễn biến của sự nghiệp xây dựng CNXH
từ giữa những năm 60 gối sang những
năm 70 thế kỷ XX, khi các mặt tiêu cực
trong đời sống kinh tế- xà hội ở miền Bắc
bắt đầu bộc lộ v phát triển. Nói cách
khác, sự thật đó đà không đợc nhìn
nhận ton diện, bên cạnh lý do chính
đáng l hon cảnh chiến tranh, cũng có
mặt bởi cái quan niệm tồn tại trong các
giới quản lý lÃnh đạo v trong bản thân
nh văn, cho rằng: hiện thực XHCN với
t cách một phơng pháp sáng tác u
việt hơn tất cả, phải l sự khẳng định
những mặt tốt đẹp v đi lên của hiện
thực, v rộng hơn, bởi cái niềm tin công
cuộc xây dựng CNXH do Đảng lÃnh đạo
l mét sù nghiƯp hoμn toμn tèt ®Đp, nÕu
cã thiÕu sãt, sai lầm thì chỉ l bộ phận v
nhanh chóng đợc khắc phục; v thắng
lợi, thnh công l cơ bản. Nhận thức v
niềm tin ny chi phối suốt mấy chục năm
qua gắn với niềm tin vo Đảng, v gắn
với ý thức nắm vững tính Đảng đợc xem
nh l linh hồn của phơng pháp sáng
tác hiện thực XHCN. Đồng chí Nguyễn
Văn Linh, Tổng bí th của Đảng, trong
cuộc gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, vo tháng
10-1987, cũng có nhận xét v tâm sù trªn
18
hiện tợng có thật ny: Trớc đây ta
thờng có quan niệm giản đơn: hễ đà nói
tới xà hội XHCN l chỉ có những điều tốt
đẹp. Quan niệm nh vậy rõ rng l ảo
tởng, ngây thơ. Trớc đây, có lúc tôi
cũng đà từng nghĩ nh vậy (...). Một cái
khó nữa m tôi có cảm giác l khi có
chính quyền rồi bắt tay vo xây dựng
CNXH thì có t tởng cho rằng mọi việc
đều tốt đẹp cả. Vì vậy trong sáng tác
thờng thiên về hớng ca ngợi một chiều,
tô hồng. Ai viết về ngời không tốt, việc
không tốt thờng bị mang tiếng l bôi
đen (11). Một cây bút trẻ, Dạ Ngân,
thuộc lớp ngời viết mới sau ny cũng
cảm nhận đợc hiện tợng tâm lý mang
tính phổ biến ấy: ĐÃ có một thời, không
riêng gì lớp trẻ, m cả những ngời
không còn khả năng mơ mộng cũng
tởng sẵn độc lập, sẵn ho bình thì mọi
thứ kể cả no ấm v công bằng cũng sẵn
theo (...). Tôi lại nhớ hồi mới ho bình,
những ngời đn b goá kiên cờng quê
tôi réo cán bộ xÃ: - Nè, sao không lập hợp
tác xà lẹ lẹ đi, dân ngời ta đang chờ
kìa. Với họ, lúc ấy miền Bắc l thiên
đờng thật mặc dù họ không thuộc câu
thơ Miền Bắc thiên đờng của các con
tôi nh chúng tôi đà từng thuộc qua Đi.
Sau ny, cũng chính những ngời vợ liệt
sĩ kiên cờng ấy siêng đi biểu tình hơn ai
hết để ủng hộ Đảng, ủng hộ Bác Hồ, đòi
bỏ tù bọn cờng ho mới đội danh Đảng
v Nh nớc nhân dân, đòi công bằng
ruộng đất (12). Vậy l sự thật đà diễn ra
có những phần không nh mơ ớc, v đÃ
đợc nhận thức sớm, nhng quyền v
trách nhiệm đợc nói ra, trong cuộc đời v
trong văn học đà diễn ra không dễ dng.
Phải cho đến Đại hội VI, cuối năm 1986,
tình hình trên mới thật sự có chuyển đổi,
khi chính Đảng nhận ra sai lầm v đề ra
đờng lối Đổi mới. Tình trạng khủng
hoảng v sự tan rà của Liên Xô v các
nớc XHCN Đông Âu cũng có tác ®éng
Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 1.2008
gióp ta ®èi chiếu v nhìn sâu hơn vo các
vấn đề không chỉ riêng của nớc ta, m
còn l chung cho ton phe; các vấn đề có
ý nghĩa phổ quát, không chỉ gắn với giai
cấp, với dân tộc, m còn l chung cho
nhân loại, để trên cơ sở đó chúng ta kiên
trì con đờng xây dựng đất nớc theo
định hớng Đổi mới.
Kể cũng l muộn, nhng còn hơn
không, sự giác ngộ ny ở một nền văn
học, qua tất cả các kỳ Đại hội hoặc các
dịp tổng kết, luôn luôn đợc khẳng định
l liên tục có những bớc phát triển để
tiến tới một nền văn học lớn, v khuyết
điểm hoặc nhợc điểm gần nh không
thay đổi l cha theo kịp cuộc sống, cha
vơn kịp tầm cao của dân tộc v thời đại.
Tầm cao trong chiến đấu v chiến thắng
của dân tộc đó l sự thật hiển nhiên, dẫu
cái giá của chiến thắng thì cho đến bây
giờ vẫn cha phải l đà nói đợc đến độ
cần thiết, cng không thể nói l tận
cùng. Nhng tầm cao trong xây dựng
CNXH thì quả cha tìm đợc sự chøng
minh thËt hïng hån trong thùc tiƠn; cã
®iỊu sù thËt đó không dễ đợc chấp
nhận, v cng khó trong việc phát hiện
v nói lên, nhất l nói lên bằng nghệ
thuật. Nh−ng sù thËt sím mn råi ®· cã
tiÕng nãi cđa nó, v đà diễn ra nh một
phản biện bất ngờ. Một sự thật không chỉ
gây ngơ ngác m còn lm đảo lộn nhiều
chân lý cũ. Nguyễn Khải từng đợc tiếng
l nh văn sắc sảo trong việc phát hiện
sự thật, trong việc nhìn vo mặt trái của
cuộc sống, thế m cũng mÃi đến công
cuộc Đổi mới, khi tâm sự về cái thời lÃng
mạn (13) của mình đà nói lên cái điều
hẳn từ lâu anh biết cách đo sâu chôn
chặt rằng: phải có Đảng cho cởi trói thì
nh văn mới đợc phép nói; rằng: phải có
sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xớng
thì văn học mới đổi đợc: Lm sao m
dám viết. Gan to bằng trời cũng không
dám viết. M có viết thì Nh xuất bản
19
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực...
no dám in. Vì chúng ta không có quyền
phê bình một chủ trơng, một chính sách
trớc khi Đảng tự nhận cần phải sửa đổi.
Sai thì cùng sai, đúng thì cùng đúng, tác
phẩm văn học đà mất dần cái khả năng
phát hiện, dự báo, đà xa cách hoặc đi
ngợc lại nhân tâm, dùng cái văn chơng
phù phiếm để che đậy lên bao nhiêu điều
giả dối (14). Ngời đà từng kêu gọi: Văn
học phải cắt nghĩa v ®Ị cËp tíi nh÷ng
vÊn ®Ị nãng hỉi nhÊt cđa ®êi sống (10),
tác giả của những Xung đột, Tầm nhìn
xa, Chủ tịch huyện, Đối mặt... còn đi xa
hơn trong sự than trách v phủ định:
Lắm lúc ngẫm lại, tôi thấy mình l một
đảng viên không đến nỗi kém cỏi gì. Thế
m hình nh bao giờ cũng cứ bị chê trách.
Ví nh trớc đây trớc khi đi nông thôn,
thế no tôi cũng phải nắm chắc những
nhận định chủ trơng trong các nghị
quyết. Nhng đến nông thôn thì thấy
khác. Thế l trong đầu nẩy sinh thắc mắc.
Tôi gắng đa những điều ấy vo sáng tác,
chỉ đến đoạn kết thì mới uốn éo đi (...).
Nhiều khi, tôi cảm thấy cái hiện thực
XHCN cứ lm hại mình, vì hiện thực
XHCN l không đợc phê phán, l cuối
cùng phải tốt đẹp, cứ đến đoạn kết thì
mình lại phải lÃng mạn. Cả một mảng
viết nông nghiệp của tôi coi nh bỏ đi
(15). Đây l một phủ định dũng cảm, tuy
có quá đ một chút, bởi một số sáng tác
về nông thôn của ông cho đến nay vẫn
còn giá trị. Dẫu vậy vẫn có một sự thật,
do chính Nguyễn Khải nói, cho nên đáng
tin, l sự gò bó, sự trói buộc đâu đó, bên
trong hoặc bên ngoi, hoặc cả trong v
ngoi nó cản trở nh văn phải tránh né,
không đi đợc đến cùng sự thật. Từ tâm
sự trên đây của Nguyễn Khải, có lẽ cũng
l tâm sự của không ít ngời viết, ta
hiểu vì sao, trong bầu không khí cũ, quả
khó m chấp nhận đợc những gì đi khác
hoặc đi chệch với các kết luận đà đợc ghi
vo Nghị quyết, thậm chí với sự chỉ dẫn
của các cấp lÃnh đạo. Quả khó có ai trong
giới nh văn dám dũng cảm nói lên các
mặt trái, những gì sai quy luật, những
nỗi nhức nhối, oan khiên, tóm lại l một
sự thật đầy đủ, hoặc tơng đối đầy đủ,
để trong công cuộc Đổi mới hôm nay đa
ra hoặc khẳng định lại một luận thuyết
có ý nghĩa soi sáng hoặc mở đờng cho
thực tiễn.
*
*
*
Trở lại lịch sử hình thnh khái niệm
hiện thực XHCN gắn với thời đại cách
mạng vô sản ở Việt Nam đà có độ di lịch
sử hơn nửa thế kỷ - tính đến công cuộc
Đổi mới, ta thấy sự tất yếu có tính quy
luật của nó, ở thời kỳ đầu hình thnh. Đó
l thời kỳ giai cấp vô sản còn ®ang trong
mét cc chiÕn qut liƯt ®Ĩ giμnh vμ gi÷
chÝnh quyền; v tơng lai l cái cha
thuộc tầm tay hoặc chỉ mới đợc hình
dung sơ bộ; dẫu thế no mặc lòng, tơng
lai đó dứt khoát phải khác với cái cũ, phải
l sự phủ định cái cũ. Tất cả những gì
đang còn l mong muốn hoặc mới chỉ l
định hớng ấy đều nằm trong phạm trù
cái mới, cái cách mạng, cái đang vơn tới;
chính yêu cầu mới ny Gorki đà nói đến
hùng hồn trong bi diễn văn năm 1934;
v dễ hiểu vì sao nó đà đến với các giới
công chúng ở n−íc ta trong mét ¸nh hμo
quang rùc rì.
Nh−ng toμn bé sự phát triển của văn
học trên định hớng hiện thực XHCN mμ
ta mn lμ −u viƯt Êy, kĨ c¶ trong nớc
v trên thế giới, rồi ra nh ta đà thấy, sẽ
không thể l một cái gì cô lập, biệt lập,
m vẫn phải gắn với ton bộ di sản văn
hoá của nhân loại. Có lúc nó muốn l
khác với tất cả những gì đà qua, đà có, v
yêu cầu tìm ra những đặc trng khác
biệt ny l hợp lý; nhng rồi dần dần, nó
vẫn phải l sự tiếp tục, nếu không nãi lμ
20
trở về cùng dòng chảy với các thời đại đÃ
qua. Nó muốn khác với văn học trong
nhiều thế kỷ của chủ nghĩa t bản, của
văn minh t sản; nhng bản thân chủ
nghĩa t bản v văn minh t sản đà từng
l, v vẫn l một giai đoạn phát triển cao
của xà hội loi ngời, đà từng sản sinh
những thời đại văn học lớn với những
nền, những tro lu, những nh văn vĩ
đại. Chính F. Engels đà khẳng định điều
ny trong Phép biện chứng của tự nhiên:
Những ngời đà đặt cơ sở cho nền thống
trị hiện đại của giai cấp t sản có thể
đợc coi bất cứ l những ngời nh thế
no, nhng quyết không phải l những
ngời có tính hạn chế t sản.... V, rộng
hơn: Các cuộc cách mạng 1648 v 1789
không phải l cuộc cách mạng Anh hay
cuộc cách mạng Pháp, đó l những cuộc
cách mạng trong phạm vi châu Âu (...)
Trong hai cuộc cách mạng đó, giai cấp t
sản đà ginh đợc thắng lợi, thế nhng
thắng lợi của giai cấp t sản hồi đó có
nghĩa l thắng lợi của chế độ xà hội mới;
thắng lợi của chế độ sở hữu t sản đối với
chế độ sở hữu phong kiến; thắng lợi của
cạnh tranh đối với phờng hội; thắng lợi
của chế độ phân chia ti sản đối với chế
độ kế thừa của ngời con trởng; thắng
lợi của hiện tợng ruộng đất phụ thuộc
vo ngời sở hữu đối với hiện tợng
ngời sở hữu phụ thuộc vo ruộng đất;
thắng lợi của giáo dục đối với mê tín;
thắng lợi của gia đình đối với thị tộc;
thắng lợi của hoạt động công nghiệp đối
với phong thái lời biếng của ngời hiệp
sĩ; thắng lợi của pháp quyền t sản đối
với đặc quyền Trung cổ (16, tr.70).
Nh vậy nếu xét trên tổng thể của
lịch sử v hnh trình chung của nhân
loại thì văn học XHCN hoặc văn học hiện
thực XHCN quả có những điểm mới,
khác, có sự cách tân ở thời kỳ đầu theo
quy luật chung của sự phát triển nghệ
Thông tin Khoa học xà hội, số 1.2008
thuật - nhng không thể l sự đi chệch
ra ngoi, hoặc tự đặt mình ở vị trí cao
hơn, u việt hơn những thnh tựu chung
của văn minh nhân loại. Mặt khác, cũng
chính do xuất phát từ bản chất v đặc
trng của nghệ thuật m ta hiểu sự kế
tục ny. Nếu khoa học l sự phủ định, để
cái sau phải hơn cái trớc, thì nghệ thuật
l sự sáng tạo, không lặp lại để cái sau
phải khác cái trớc. Mọi ®Ønh cao cđa
nghƯ tht ë bÊt cø thêi nμo vÉn cứ sừng
sững l đỉnh cao, l ở trình độ cổ điển, v
không bao giờ che khuất lẫn nhau. Độ lùi
v cái nhìn ton cảnh sẽ cho ta một đánh
giá bao quát v chân xác hơn trong việc
so sánh v nhìn nhận các giá trị. Văn học
viết theo phơng pháp hiện thực XHCN
muốn l một giai đoạn phát triển cao hơn
trong yêu cầu nhận thức hiện thực v
phát hiện ra các xu thÕ cđa hiƯn thùc.
Nh−ng st c¶ mét thêi gian di, chúng
ta đà quá chủ quan v đánh rơi mất phép
biện chứng của lịch sử. Sự thật, đÃ
không có đợc sù toμn vĐn vμ tin cËy
trong mét bé phËn s¸ng tác chính thống
của nền văn học mang danh l hiện thùc
XHCN. Vμ trong c¸ch hiĨu vỊ xu thÕ
ph¸t triĨn cđa hiện thực rồi sẽ không chỉ
có một chiều đi lên, nh sự khẳng định
tuyệt đối hoặc nh một sự bắt buộc ở giai
đoạn đầu. Sự lạc quan không thể v
không chỉ đợc hiểu theo một nghĩa, khi,
trong thực tế, bất chÊp vμo lóc nμo, vμ
bÊt chÊp thÕ giíi thc “phe” no, cũng
đà diễn ra bao đổ vỡ, thất bại, bi kịch v
những điều đau lòng.
Thế nhng, trong cả một thời gian
di chúng ta đà ngây thơ cả tin về một
mục tiêu huy hong m sự phấn đấu
nắm bắt nó dờng nh lại mỗi lúc một
xa, nếu không nói l nó vẫn còn đang
trong tình trạng của những định hớng
v mơ ớc; hoặc đà quá say sa chủ
quan trớc một thực tÕ, cã thμnh tùu,
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực...
nhng cũng không ít sai lầm, thất bại.
Nhấn mạnh sự phát triển cách
mạng của hiện thực, dẫu Đảng luôn
luôn nhắc nhở phải tôn trọng quyền suy
nghĩ tự chủ v sáng tạo của nh văn, v
dẫu lý ln cã triĨn khai cho phong phó
vμ un chun thế no đi nữa, thì trong
thực tế, sự chỉ đạo của các cấp cùng với
hoạt động của giới phê bình vμ d− luËn
x· héi th−êng vÉn chØ quen chÊp nhËn sự
phản ánh cuộc sống theo hớng lạc quan;
v đà diễn ra sự phê phán lắm lúc khá
nặng nề một số tác phẩm nói đến các mặt
bi kịch v bế tắc của đời sống.
Nêu yêu cầu phản ánh hiện thực một
cách chân thật, ta còn ít khuyến khích các
tác phẩm hớng về các mặt xấu, tiêu cực,
gây lo âu v kêu gọi con ngời cảnh giác.
Chọn nhân vật chính l con ngời
mới, văn học đà thờ ơ, bỏ qua, không mấy
chú ý biết bao con ngời khác, thậm chí
ngại sợ ngay cả khái niệm bình thờng chẳng hạn: con ngời bình thờng, cuộc
sống bình thờng; v trong con ngời mới
ta không chấp nhận nhân vật có sai lầm,
có bi kịch, hoặc có phức tạp về đời t...
Hiểu về tính Đảng v hiện thực
XHCN theo sự quy hẹp nh trên, ta đÃ
tiến hnh xử lý một số vụ - việc, m
không phải chờ đến bây giờ mới thấy rõ
sự bất công v oan uổng...
Kêu gọi một nền văn học lớn, với sự
vận dơng lý ln vỊ hiƯn thùc XHCN nh−
lμ mét cÈm nang; nhng với lý luận đó, ta
đà tạo một nền văn học, tuy có những
thnh tựu nhất định, trong đó có mặt,
thnh tựu l lớn; nhng hiếm có những
đỉnh cao, v lại không ít sự tầm thờng,
trung bình hoặc giản đơn, sơ lợc.
V nh vậy, nếu khái niệm hiện
thực XHCN, nhiều chục năm trớc đây
đà có một sức quyến rũ, kêu gọi đối với
không ít ngời viết, ở nhiều nơi, thì bây
21
giờ đang đứng trớc yêu cầu nhận thức
lại, đánh giá lại. Bởi nó không thể tách
ra khỏi một phạm trù rộng lớn v bao
trùm l bản thân CNXH, ngót 20 năm
trớc đây, đó l cả một phe, gồm nhiều
nớc do Liên Xô đứng đầu, v từ thập
niên cuối thế kỷ XX phe đó đà tan rÃ. Ta
không thay đổi mục tiêu (hoặc định
hớng) XHCN đợc hiểu nh l một xÃ
hội đa lại nhiều công bằng, dân chủ v
hạnh phúc cho con ngời hơn, thì nh
vậy, ta cũng sẽ không thay đổi mục tiêu
nhân đạo của chủ nghĩa hiện thực
XHCN. Nếu bản chất của nghệ thuật
chân chính l hớng về sự thật, l không
giả dối, xuyên tạc (cả bôi đen v tô hồng),
thì hiện thực XHCN cng phải tiếp tục
yêu cầu chân thật đó, nếu không muốn
nói l cng phải chân thật hơn, trên lý
tởng XHCN. Nếu hiện thực XHCN đợc
quan niệm nh thế thì bất cứ lúc no ta
cũng cần đến nó. Có điều, từ trớc đến
nay do một quan niệm chật chội, cứng
nhắc về nó, ta đà biến nó thnh một giáo
điều; ta muốn văn học l hiện thực, cng
hiện thực hơn, thì nó lại cng xa hiện
thực, v vi phạm ngay cả quy luật của
bản thân nghệ tht; ta mn nã lμ ch©n
thËt, lμ thut phơc vμ hấp dẫn thì nó lại
trở nên sơ lợc v giả tạo. Cố nhiên
không phải ton bộ sự phát triển của văn
học đà l nạn nhân; trên nhu cầu tinh
thần đợc mở rộng của ngời đọc, v trên
ý thức cá nhân về sự sáng tạo của ngời
viết đợc khẳng định, vẫn có v có nhiều
những ngoại lệ - đó l sức cỡng lại của
những ti năng, những nghệ sĩ chân
chính không chịu khuất phục trớc các
sức ép hữu hình hoặc vô hình đến từ các
nguyên lý, các quyền uy, các rng buộc
bên trong hoặc bên ngoi, ngay cả của
các thói quen của sự tầm thờng, dễ dÃi.
Rõ rng nếu hôm qua định hớng sự
thật ny đợc quán triệt m không bị c¶n
22
trở hoặc trù dập thì văn học hẳn sẽ có bộ
mặt khác hơn. Nếu sự phát triển cách
mạng của hiện thực đợc quan niệm một
cách rộng mở v biện chứng nh l những
dự báo v cảnh báo; v nếu những sáng
tác nh vậy đợc chấp nhận, để góp vo
việc điều chỉnh v cải tạo hiện thực thì
biết đâu cuộc sống đà có thể khác đi. Cố
nhiên đây chỉ l giả ®Þnh, bëi cc sèng ®·
diƠn ra nh− nã ®· diƠn ra, m con ngời sản phẩm của lịch sử, nhìn vo quá khứ
không phải để uốn nắn lịch sử - đà l lịch
sử thì sao m còn uốn nắn đợc nữa - m
để tìm trong quá khứ những cội rễ của vấn
đề hôm nay. Nói cách khác, việc rút các bi
học từ lịch sử, l nhằm mong cho tơng lai
đỡ bớt vấp váp, sai lầm.
Cần phải bổ sung, điều chỉnh, hon
thiện lý luận văn học của ta sao cho nó l
phơng tiện hớng văn học đi vo sự
thật, v đáp ứng tích cực cho sự nghiệp
xây dựng con ngời, cải tạo xà hội. Cần
một nền văn học áp sát vo sự thật, v
cao hơn sự thật, một nền văn học lμ tiÕng
nãi cđa sù thËt, kh«ng chØ lμ tiÕng nãi ca
ngợi, biểu dơng m còn l cảnh báo, l
dự báo; v không phải chỉ có dự báo
những điều tốt lnh m cần thiết còn l
gây lo âu (thế giới ny còn biết bao lo âu,
hiểm hoạ!). Nền văn học đó hình thnh
v phát triển trong thế kỷ XX, v lý ln
cđa nã, lý ln vỊ nã cịng ®· xt hiƯn
tõ đầu thế kỷ. Bao đầu óc lớn đà đợc
huy động vo việc chọn tên, v bảo vệ
cho cái tên đó. Nó đúng cho sự khái quát
một giai đoạn nhất định. Nó cần thiết
cho buổi đầu hình thnh. Nó muốn có vai
trò định hớng cho các giai đoạn sau.
Nhng thực tiễn lớn hơn, cứng đầu hơn,
đà vợt ra ngoi các kích thớc, khuôn
khổ đợc quy gọn trong một định nghĩa,
v khó khăn đà nảy ra cho những ai khi
vận dụng lại nhất thiết tuân theo định
nghĩa. Lý luận đó, không chối cÃi, l
đúng, l cần thiết, l có sức cổ vũ, động
Thông tin Khoa học xà hội, số 1.2008
viên cho một giai đoạn, nhng không thể
l chân lý cho muôn đời. L một khái
niệm thuộc lĩnh vực của hình thái ý thức
nó không thể tách rời với sự phát triển
của thực tiễn l đời sống chính trị- kinh
tế- xà hội; khái niệm đó lại gắn với lĩnh
vực sáng tạo tinh thần vốn phải xác định
lẽ tồn tại ở những tìm tòi hớng tới
những khu vực mới, lạ, không lắp lại...
Thnh ra mọi mong muốn mô hình hoá,
quy chuẩn hoá, điển chế hoá, nhanh
chóng trở nên khô cứng v biến thnh
vật cản trở.
*
*
*
Từ nhiều năm nay, ít ra l từ cuối
thế kỷ trớc (sau công trình tổng kết:
Nhìn lại nửa thế kỷ lý luËn hiÖn thùc
XHCN ë ViÖt Nam (1936-1986) Ên hμnh
vμo năm 1999 (17) - một công trình m
tác giả của nó l chuyên gia lý luận văn
học Giáo s Phơng Lựu, dẫu có nêu yêu
cầu hiện thực XHCN phải đổi mới, phát
triển trên tất cả các thnh tố từ nội dung
đến thi pháp, nhng dờng nh vẫn còn
nhiều lu luyến với khái niệm ny; khiến
tôi trộm nghĩ: nếu đà thế thì sao không
tìm đến một tên gọi khác?), vấn đề hiện
thực XHCN không còn thấy nh lý luận
no nhắc tới, cũng không thấy đợc ghi
vo Báo cáo hoặc Nghị quyết no của
Đảng v của các Hội nghề nghiệp. Tôi
nghĩ nh thÕ cịng lμ mét c¸ch øng xư
hay; bëi thùc tiƠn đà chuyển sang một
giai đoạn (hoặc một thời đại) khác, với
những tình thế mới, những chân trời
mới; trong đó mọi tro lu, trờng phái,
chủ nghĩa khi đà thực hiện xong nhiệm
vụ lịch sử của nó, sẽ chuyển đổi hình thái
v phơng thức tồn tại, tựa nh thế kỷ
Cổ điển chuyển sang thế kỷ ánh sáng,
chủ nghĩa Tự nhiên thay chủ nghĩa Hiện
thực, chủ nghĩa LÃng mạn chuyển sang
Siêu thực v Tợng trng; Hậu hiện đại
23
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực...
thay cho Hiện đại... Bởi mọi phát triển lm
nên dòng chảy xuyên suốt của lịch sử đều
l một sự phủ định biện chứng, để có một
gơng mặt khác; v đó l điều Ăngghen
cũng đà từng tổng kết trong các khái quát
triết học của mình: Mỗi lần có một phát
minh mang ý nghĩa thời đại, ngay cả
trong lịch sử khoa học tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay
đổi hình thức của nó (18, tr.409).
Trong kỷ nguyên Cách mạng Thông
tin v công cuộc Ton cầu hóa lần thứ ba
ny, chẳng phải chỉ riêng Chủ nghĩa Hiện
thực XHCN - sản phẩm của Liên Xô v
phe XHCN (cũ) hoặc Chủ nghĩa Hiện đại sản phẩm của thời đại Hậu công nghiệp,
m ngay chính cả bản thân văn học trong
nghĩa quen thuộc hng nghìn năm nay của
nó cũng phải thay đổi, có nghĩa l, cũng sẽ
có một gơng mặt khác.
Ti liệu tham khảo
1. Hải Triều. Đi tới tả thực chủ nghĩa trong
văn chơng - Những khuynh h−íng
trong tiĨu thut. Tao §μn, sè 2, ngμy
16/3/1939; Maxim Gorki. Hồn trẻ, Tập
mới, số 5, ngy 4/7/1936.
2. Văn học Xô Viết. H.: Văn học, 1960.
3. Chủ nghĩa hiện thực XHCN l gì?. H.:
Sự thật, 1970.
4. Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện
thực XHCN ở Liên Xô. H.: Văn học,
1961.
5. Chủ nghĩa hiện thực XHCN. H.: Sự thật,
1981.
6. Về văn hóa v nghệ thuật. Tập II. H.:
Văn học, 1986.
7. Nguyễn Đức Nam, Đỗ Xuân. Nghiên cứu
nghệ thuật, số 2/1981, số 3/1982.
8. Phong Lê. Văn xuôi Việt Nam trên con
đờng hiện thùc XHCN. H.: Khoa häc
x· héi, 1980.
9.Th− cña Ban chÊp hnh Trung ơng
Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Đại hội
văn nghệ ton quốc lần thứ III, 1963. Về
Văn hóa nghệ thuật. H.: Văn hóa, 1976.
10. Văn nghệ vũ khí sắc bén. H.: Văn học,
1962.
11. Văn nghệ, số 42, ngy 17/10/1987.
12. Nghĩ về thế hệ của mình. Báo Phụ nữ
thnh phố Hồ Chí Minh, số Xuân 1990.
13. Văn nghệ số 43 v 44, tháng 10/1987.
14. Nghề văn, nh văn v Hội Nh văn.
Văn nghệ, số 18, ngy 30/4/1988.
15. Vân Trang. Thảo luận bn tròn tại
tuần báo Văn nghệ. Văn nghệ số 9, ngy
27/2/1988 (lời ghi có thể không sát ý,
nhng nếu có sai thì tác giả đà đính
chính; nh ý ghi về vấn đề tôn giáo, tác
giả đà đính chính.
16. C. Mác - F. ăngghen tuyển tập. Tập 4.
H.: Sự thật, 1971.
17. Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực
XHCN ë ViƯt Nam (1976-1986). H.:
Gi¸o dơc, 1999.
18. C. M¸c - F. ăngghen tuyển tập. Tập II.
H.: Chính trị quốc gia, 1995.