TH Ứ C Ă N N U Ô I T Ô M
Tiêu chuẩn thức ăn cho tôm và hệ số thức
nuôi tôm
Tiếu chuân thức ăn d à n h cho tôm
Thức ăn dùng để nuôi thâm canh tôm hiện nay có
2 loại, chúng chê biến theo phương pháp khác nhau:
Thức ăn dạng khô viên và thức ăn tươi.
Theo chuẩn phần trăm của từng độ tuổi của con
tôm mà ta sẽ tính được lượng thức ăn cho tơm là:
S ố ngày
T r ọ n g lư ợ n g
T ỷ lệ
% T h ứ c ăn
tu ổ i củ a
tr u n g b ìn h 1
sống
s o vớ i tr ọ n g
tô m
c o n (g )
1 -20
1
100
20
21 - 4 0
7
95
15
41 - 6 0
13
90
10
61 - 8 0
22
85
8
81 - 1 0 0
31
71
5
101 - 1 2 0
40
70
4
121 - 1 5 0
50
60
3
lư ợ n g tô m
Sản lượng tôm trong ao nuôi là kết quả tổng hỢp
từ việc sử dụng thức ăn thiên nhiên, thức ăn thiên
&
nhiên làm từ phân và'thức ăn cơng nghiệp (artificial
feed), có thê biểu hiện như sau: s ả n lượng tôm trong
ao (Thức ăn thiên nhiên + thức ăn thiên nhiên làm
từ phân) + thức ăn cơng nghiệp.
Do đó có thể thấy rằng, trong ao nuôi cần phải
tạo nguồn thức ăn thiên nhiên cho tơm khi đang cịn
ở giai đoạn đầu.
Việc tạo nguồn thức ăn thiên nhiên (màu nước)
trong ao nuôi trước khi thả tôm là cần thiết và quan
trọng đổi vối tơm khi đang cịn nhỏ và việc sử dụng
thức ăn cơng nghiệp (artificial fedd) thêm sẽ giúp
tơm có đầy đủ chất dinh dưỡng, làm cho tôm tăng
trưởng tốt và tỷ lệ sông cao. Khi so sánh với dạng
nuôi quảng canh mà khơng dùng thức ăn, tơm sẽ có
tỷ lệ sông thấp và tăng trưởng không đều. Việc sử
dụng thức ăn công nghiệp (thức ăn viên) phải xem
xét đến giá trị dinh dưỡng, hiệu quả của việc hấp thụ
và khả năng sử dụng tốt để từ đó duy trì cuộc sông,
ổn định về sau hoặc giúp tôm tăng trưởng và để duy
trì giơng. Do đó, thức ăn tơm tơt cần phải xem xét
đến các thành phần chính như sau:
- Giá trị dinh dưỡng; Phải đảm bảo đầy đủ và
phù hỢp các chất như đạm (protein), chất béo, hydrat
cacbon (carbohydrate), vitamin và khống chất; Có
thể xem xét dựa trên tơc độ tăng trưởng hằng ngày
(ADG), tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thành thịt trong
từng giai đoạn tuổi và suốt vụ nuôi (FCR period and
FCR pond) và khả năng kháng bệnh của tôm.
k48
- Quy trình sản xuất thức ăn tơm phải tạo ra sản
phẩm đạt hiệu quả cao nhất đế không ảnh hưởng đến
mơi trường ni về sau, do đó tức ăn tôm đưỢc sản
xuất ra cần phải;
+ Dây chu3^ển sản xuất phải có khả năng tạo ra
nhiều kích cỡ thức ăn: thức ăn dạng viên nhỏ (Crumble)
và lốn (Pellet) để phù hỢp vối các cở tôm, để tôm dễ bắt
mồi và hấp thụ tốt (CP 4001-s, 4001, 4002, 4003, 4004-s
và 4005).
+ Nhà máy có quy định trong q trình sản xuất, có
nghiên cứu, phát triển sản xuất và sản phẩm tốt hơn,
giá cả phù hỢp và sản phẩm từ nhà máy phải qua kiểm
nghiệm trưốc khi đến người tiêu dùng.
+ Nguyên liệu để sản xuất thức ăn tôm phải đảm
bảo giá trị dinh dưỡng, khơng có độc và phải được nghiền
nhuyễn để tơm có thể tiêu hố nhanh và hấp thụ tôt.
+ Giữ mùi thơm để hấp dẫn tôm ăn theo thời gian
quy địrứi (2 giò).
+ Ediả năng bền trong nưốc tơ"t để thức ăn khơng
bị hư, vitamin và khống cất khơng bị thất thốt ra
bên ngồi và khơng làm cho đáy ao bị bẩn, tuy
nhiên thức ăn mà có khả năng bền lâu trong nước sẽ
làm cho tơm khó bắt mồi vì tơm khơng thề đánh
mùi được.
Hệ s ố thức ăn nuôi tôm (HSTĂ)
Hệ sô" này là sô kilôgam thức ăn phải tiêu tốn để
thu được Ikg tơm tăng trọng, được tính bởi cơng
thức:
HSTA = Khối lượng thức ăn đã cho ăn trong suốt
thời gian ni/sản lượng (tơm) thu hoạch được.
Ví dụ để tính hệ sô" thức ăn nếu sản lượng tôm cá
thu hoạch ở một đầm nuôi là l i o o k g và lượng thức
ăn đã sử dụng để nuôi tôm là 2950kg.
HSTÀ =
1100
= 2,68
Hệ sơ thức ăn thưịng được viết dưối dạng sau:
HSTĂ =
1
- Hệ sô thức ăn càng lớn thì thức ăn càng kém
hiệu quả.
Ví dụ thức ăn có hệ sơ" là 2,5/1 sẽ tơ"t hơn thức ăn
có hệ sô"là 3,0/1.
Thông thường, hệ sô" thức ăn chỉ dùng để so sánh
các thức ăn cùng một dạng với nhau (thức ăn khô so
sánh với thức ăn khô hoặc thức ăn tươi so sánh với
thức ăn tươi).
- Trong trường hỢp nếu muôn so sánh một loại
thức ăn tươi với thức ăn cơng nghiệp thì hai loại thức
kSO
ăn này cần phải quy về thức ăn khô, tức là phải biết
được độ ẩm của từng loại thức ăn.
Ví dụ: So sánh hiệu quả của một loại thức ăn
khô có hệ sơ' thức ăn 2,5/1 so vối một loại thức
ăn tươi có hệ sơ' thức ăn là 4,6/1. Biết độ ẩm của
thức ăn khô là 10% và thức ăn tươi là 45%.
Để dễ dàng so sánh, quy hệ sô' thức ăn của
công thức tươi ra như sau:
100 - 45
HSTĂ = 4,6
2.81
100 -1 0
Trong trường hỢp này thức ăn khô (hệ sô'
thức ăn 2,5/2) tô't hơn thức ăn tươi (hệ sơ' thức
ăn 2,82/1). Ví dụ trên đây chỉ là một cách đơn
giản để so sánh hiệu quả sử dụng của hai loại
thức ăn với nhau.
Trong thực tế, muốn so sánh hiệu quả sử
dụng của các loại thức ăn thì người nuôi tôm cần
phải căn cứ vào những cơ sở sau:
+ Hệ sô' thức ăn.
+ Giá thức ăn.
+ Tô'c độ tăng trưởng của tơm cá ni.
+ Chi phí thức ăn (vận chuyển thức ăn, chê' biến
thức ăn (tươi), lao động cho ăn).
+ Giá trị thị trường của sản phẩm (tôm).
Trên đây là việc tính hệ sơ' thức ăn và so sánh
theo điều kiện tiêu chuẩn nuôi tôm, đặt trong cùng
một điều kiện của kỹ thuật nuôi như nhau. Nhưng
trong thực tế, hệ sơ' thức ăn cịn phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tô ao, hồ, kỹ thuật nuôi và chăm sóc. Vì
vậy, q trình ni tơm khơng tách rời các yếu tố chỉ
quan tâm đến hệ sô thức ăn, trong khi các điều kiện
kỹ thuật ni và chăm sóc yếu kém được mà phải có
sự kết hỢp tất cả các điều kiện có lợi để ni tơm.
Kỹ thuật chế biến thức ăn nuôi tôm
N guyên liệu
- Nguyên liệu dùng để chê biến thức ăn khô viên
chủ yếu ở dạng khô, như: bột cá, bột tôm, bột đầu tôm,
bột mực, bột thịt xương, dịch đạm cá cô đặc, các loại khơ
dầu đã trích ly chất béo, dịch chiết từ đầu tơm, lúa mì,
cám lúa mì, ngơ, nấm men, dầu gan cá, dầu gan mực,
các premix khoáng, premix vitamin, các chất kết dmh,
các phụ gia (chống oxy hố, chống mốc...).
- Cịn thức ăn tươi tuỳ theo cơng thức phải có sự
phối chế, thành phần các nguyên liệu có khác
nhau. Song thường dùng có 2 loại:
+ Loại ngun liệu khơ: Tấm gạo, cám gạo,
ngơ, bột mì, bột khoai mì, bột cá, khơ đậu nành,
khô lạc, khô dầu dừa...
+ Loại nguyên liệu tươi; Cá tạp và các loại
rau tươi như; bí đỏ, rau muông, bèo tấm...
C h ế biến
- Đôl với thức ăn khơ dạng viên: ở các nước và
khu vực có cơng nghiệp nuôi tôm phát triển như:
152
Nhật, Mỹ, Thái Lan, có các nhà máy chế biến
thực hiện trên các dây chuyền thiết bị hiện đại,
công suất cao.
Cịn ỏ Việt Nam, sản xuất thức ăn ni tơm đang
thực hiện dây chuyền thiết bị không lốn, quy mô nhỏ
công suất 500 - 2.000kg/ngày.
+ Thiết bị để chế biến: Cây bàn, máy nghiền
nguyên liệu thô (máy nghiền lúa), máy trộn (trục
nằm ngang), máy tạo viên, lò sấy, thiết bị sửa viên
và máy sàng.
+ Các công đoạn chê biến: Tùy vào từng loại
nguyên liệu nghiền riêng để lấy độ mịn 0,7 - 0,8mm,
sau đó đưa ngun liệu được cân chính xác theo tỷ lệ
trong công thức chê biến đưa vào máy trộn theo thứ
tự (nguyên liệu có khối lượng lớn trộn trước, nguyên
liệu khối lượng nhỏ tiếp sau). Riêng premix khống,
premix vitamin, các phụ gia được trộn đều ở bên
ngồi, sau đó đưa vào máy trộn chung. Cịn các bột
làm bằng chất kết dính như bột mì, bột sắn, bột gạo
được nấu chín riêng, sau đó trộn với các ngun liệu
khô cùng vối các nguyên liệu dạng lỏng như (dầu gan
cá). Toàn bộ hỗn hỢp thức ăn sau khi đã trộn đều
được đưa sang máy tạo viên. Sau đó, các viên thức ăn
được đưa vào lò sấy ở nhiệt độ 50 - 60°c, sấy cho đên
khi độ ẩm nhỏ hơn hoặc bằng 10%. Rồi các viên thức
ăn đưa sang thiết bị sửa viên để phân cỡ viên thức
ăn. Khâu cuối cùng là đóng gói bảo quản.
- Đôi với thức ăn dạng tươi:
Công nghệ chê biến dạng nàv đơn giản hơn. Đầu
tiên, các nguyên liệu khô được nghiền riêng từng
loại. Sau khi xay nguyên liệu tươi (cá tạp tươi hoặc
đã nấu chín), các ngun liệu khơ được cân chính xác
theo từng hàm lượng của cơng thức rồi đưa vào máy
trộn theo tuần tự (nguyên liệu có khơi lượng % lốn
trộn trước). Sau đó, ngun liệu trộn xong có độ ẩm
thích hỢp (35 - 40”C) được đưa vào máy đùn ép tạo
thành sợi hoặc dạng viên.
Cách thức ứng dụ n g từng loai thức ăn
Thức ăn dạng khơ viên có thể thuận tiện cho việc
sử dụng, bảo quản và lưu thông, sản xuất chủ động
không phụ thuộc vào mùa vụ ngun liệu. Người
ni có thể sản xuất tập trung để nuôi tôm lớn. Song
giá hiện nay cao (18.000 - 20.000đ/kg thức ăn).
Đốì với thức ăn tươi chê biến tại chỗ có ưu điểm
là tận dụng được những nguồn nguyên liệu tại địa
phương, giá thành hạ, hơn nữa lại phù hỢp với phát
triển nuôi Tôm ỏ quy mô gia đình. Tuy nhiên, khi sử
dụng thức ăn tươi để chăn ni tơm nếu khơng tn
theo quy trình sẽ dẫn đến môi trường bị ô nhiễm.
Công nghệ sản xuất thức ăn nuôi tôm gồm các
công đoạn ban đầu như: Xay, nghiền, trộn cũng giông
như sản xuất thức ăn cho gia súc. Ngày nay, trong
sản xuất thức ăn cho gia cầm người ta đã tạo dạng
viên giông như thức ăn nuôi tôm, chỉ khác ở chỗ thức
l54
ăn dùng cho gia cầm không cần dùng các chất dính
lâu tan trong nước như thức ăn ni tơm cá. Vì vậy,
những dây chuyền thiết bị sản xuất thức ăn cho gia
súc cần thêm máy tạo viên cùng với chất kêt dính
cho viên thức ăn lâu tan thích hỢp sẽ dùng được cho
sản xuất thức ăn nuôi tôm.
Những năm gần đây, do sự phát triển của việc sử
dụng thức ăn chế biến cơng nghiệp để ni tơm, nên
đã hình thành và phát triển các đại lý bán các
nguyên liệu chế biến thức ăn để ni tơm. Vì vậy,
mn tìm hiểu sâu về công nghệ chế biến thức ăn
trong nuôi tôm cá cũng như mua sắm dây chuyền
thiết bị chê biến, người ni có thể liên hệ vối Viện
nghiên cứu mơi trường thuỷ sản I (xã Đình Bảng,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) để có thêm những
thơng tin cần thiết.
Phương pháp cho tôm ăn
- Chia thức ăn trong ngày ra nhiều bữa, tháng
thứ nhất từ 2 - 3 bữa, các tháng sau từ 4 - 5 bữa.
- Nên cho tôm ăn theo những giị cơ' định, tránh
thịi gian mơi trường nước không thuận lợi (từ 12 giờ
khuya đến 4 giờ sáng là thòi gian lượng oxy hòa tan
thấp nhất và từ 11 giờ 30 phút đên 2 giờ chiều là thời
gian nhiệt độ nước trên bề mặt cao nhất).
- Khi chuyển cỡ thức ăn, chú ý không nên chuyến
đột ngột mà chuyển chậm từ 5 - 7 ngày, tỷ lệ thức ăn
.5 5
cỡ nhỏ : cỡ lớn lần lưỢt là 7:3, 5:5, 3:7 rồi mới tồn cỡ
lốn, khi cho ăn thì cho cỡ nhỏ trưốc, cỡ lớn sau, rải
đều khắp ao, với ao mối thả, lưỢng thức ăn ban
đầu tạm tính tương ứng 80% lượng tơm, sau đó điều
chỉnh lại.
- Cách rải thức ăn cho ao đất: Trong q trình
ni truyền thơng, người nuôi tôm thường cho tôm
ăn bằng cách rải thức ăn đều trên tồn mặt ao. Tuy
nhiên, trong việc ni tơm, phương pháp này có thể
làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con tơm. Bởi vì,
thức ăn d ư thừa chìm xng đáy và bị dẫm lên bơi
con tơm, mà tập quán của con tôm khi di chuyên
chúng đi từng đàn, những thức ăn d ư thừa này sẽ bị
đạp xng bùn, khơng được con tơm nhặt ăn hết, do
đó thức ăn d ư thừa này sẽ bị thôi rữa và phân hủy
thành “Ammonia”.
Trong đó ammonia là ngun nhân chính gây ô
nhiễm môi trường nước, mà môi trường nước bị ô
nhiễm này lại tạo ra môi trường thuận lợi cho những
vi khuẩn gây bệnh dễ dàng phát triển. Vì vậy, để
phòng ngừa và ngăn chặn cơ hội phát triển của vi
khuẩn người ni trồng cần phải có sự nhận thức
đúng về chúng để phịng chơng dịch bệnh một cách
hiệu quả hơn. ở nhiều nước Nam Mỹ như Ecudor,
Panama, Nicaragua đã dùng những cái “sàng ăn” để
ngăn chặn thức ăn dư thừa của tôm.
k56
P H Ò N G V À Đ IẾ U TRỊ M Ộ T số
BỆNH TH Ư Ờ N G G Ặ P ỏ T Ơ M
Ảnh hưởng của mơi trường đến sức sống
của tơm
Việc thay đổi mơi trưịng tự nhiên ven biển đã
làm xuất hiện những vấn đề liên quan tới chất
lượng nưốc và đất, sự cân bằng môi trường ảnh
hưởng đến việc nuôi tôm.
- 0 nhiễm liên quan đến ao nuôi tôm:
Công nghệ nuôi tôm bắt đầu từ những năm 80
với việc phát triển kỹ thuật nuôi con giơng nhân
tạo một cách hiệu quả. Từ đó, hoạt động ni tơm
có sự chuyển đổi từ ni quảng canh, bán thâm
canh sang nuôi thâm canh. Kỹ thuật nuôi tôm
thâm canh bao gồm:
+ Tăng mật độ thả (trurLg bình 250.000 500.000 con giông/lha).
+ Sự phụ thuộc lớn vào các trại nuôi con giống.
+ Phụ thuộc vào thức ăn chế biến.
+ Sử dụng hệ thơng quạt khí.
+ Tăng chu kỳ trao đổi nước.
Như vậy, càng tăng cường hoạt động ni thâm
canh thì nhu cầu quản lý môi trường nuôi càng cần
thiết. Trong đó mức đậhủy hoại mơi trường ni bên
trong ao ni và bên ngồi xuất phát từ các ngun
nhân sau:
+ Mật độ nuôi cao.
+ Sử dụng nhiều thức ăn chê biến sẵn.
+ Các ao bố trí dầy đặc bên cạnh nhau dọc theo
miền dun hải.
+ Khơng có ao xử lý nước trưốc khi đưa vào ao nuôi.
+ Tăng chu kỳ thay nước.
+ Chu kỳ làm sạch ao chưa hiệu quả.
- Mức độ bài tiết của con tôm tăng lên.
- 0 nhiễm do việc sử dụng thuốc và các hóa chất
trong q trình ni tơm:
+ Phần lổn sản phẩm dư thừa trong q trình
ni tơm đã tích tụ dưối đáy ao. Đây chính là nguồn
gây nguy hại cho con tơm và cho hoạt động ni tơm.
Bởi vì, lớp bùn đáy ao này rất độc, thiếu oxy và chứa
nhiều chất độc như ammonia, nitrite, hydrogen
sulfide. Con tơm ln có xu hướng tránh khỏi vùng
k58
nàv và tập trung vào những khu vực sạch sẽ hơn. Do
vậy việc tôm tập trung vào một vùng sẽ làm giảm bót
diện tích cho ăn, cũng như tăng tính cạnh tranh
trong khi ăn. Nếu như toàn bộ đáy ao bị dơ bẩn thì
tơm bắt buộc phải sơng trong mơi trường ơ nhiễm.
Hơn nữa, lớp bùn dơ bẩn cịn tác động lên nước trong
ao khi nuôi tôm, làm giảm chất lượng nước.
+ Chất lượng nước và chất lượng đáv ao dơ bẩn sẽ
tác động trực tiếp tới con tôm. Từ đó, con tơm ln bị
căng thẳng, thể hiện qua việc tôm kém ăn, mức tăng
trưởng giảm và dễ bị mắc bệnh do vi khuẩn như
Vibriosis và dẫn đến việc tôm chết hàng loạt. Phần
lớn các bệnh của con tôm đều có nguồn gơc từ mơi
trường mà chúng sinh sống.
- Mơi trường bên ngồi trại ni tơm, chất thải dơ
bẩn thường không được quản lý tốt cũng sẽ làm ảnh
hương tới hệ sinh thái ven biển. Điều này không chỉ tác
động ảnh hưởng tối mơi trường đất mà cịn lên các tài
nguyên ven biển, bao gồm cả các trại nuôi tôm. Việc tái
sử dụng ao bị ô nhiễm hay đổ rác ra môi trường xung
quanh sẽ làm cho nguồn nước bị ô nhiễm và tác động
lên các hoạt động ven biển.
Tại một sơ" nơi, hoạt động ni ì:ơm đem lại kêt
quả rất tốt trong một vài năm, nhưng sau đó lại gặp
thời kỳ sa sút trầm trọng dẫn đến phá sản mà
nguyên nhân chủ yếu liên quan các mầm bệnh trong
môi trường nuôi.
Thông thường, nhà nông hay dùng thuốc kháng
sinh để trị bệnh cho tơm, nhưng việc đó khơng giải
,59
quyết được vấn đề cốt yếu. Hiện nay, việc áp dụng
công nghệ sinh học và các chê phẩm sinh học đế gìn
giữ và cải thiện năng suất ni đã đưỢc sử dụng rộng
rãi như một phương thức chữa trị hiệu quả, tiết kiệm
và tôt hơn nhiều so với việc sử dụng kháng sinh. Hơn
nữa, sử dụng chê phẩm sinh học và việc quản lý cho
tôm ăn ỏ một mức độ lớn là một phương thức kiểm
soát mầm bệnh trong các ao nuôi tôm. Chẳng hạn
khi sử dụng vi khuẩn Bacillus sp đã làm tăng thịi
gian ni lên gấp đơi so với ao nuôi không sử dụng
chê phẩm sinh học và ao bị nhiễm bệnh Vibrio
harveyi. Tại những ao có sử dụng chê phẩm sinh học
thì mức phát sáng do vi khuẩn V. harveyi thấp, gần
như triệt tiêu và cho kết quả thu hoạch rất tôt. Việc
bố sung thêm Bacillus sp đã đem lại lợi ích cho tơm,
giúp tơm chống lại bệnh phát sáng (Vibriosis) và
khỏe mạnh hơn làm tăng sản lượng ni tơm. Chê
phẩm sinh học cịn chứa acid lactic (Lactobacillus và
Carnobacterium sp.) là một loại vi khuẩn có tác dụng
chổng lại mầm bệnh và cung cấp một nguồn kích
thích miễn dịch. Carnobacterium divergens là một
loại chê phẩm sinh học tiềm năng khác có tác dụng
làm giảm áp lực gây bệnh của vi khuẩn Vibrio
anguillarum. Như vậy, các lợi ích khác của chế phẩm
sinh học bao gồm:
- Tăng cường vi thực vật đường ruột.
- Cung cấp acid amino căn bản và vitamin từ vi
thực vật đường ruột.
- Tăng khả năng hấp thụ vitamin và chất khoáng.
i60
- Nâng cao hệ sô" tiêu thụ thức ăn.
- Nâng cao năng suất và sản lượng.
- Tăng sô vụ nuôi.
- Loại bỏ việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng.
- Cải thiện môi trường nuôi giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Phát triển
Thủy sản Đông Nam Á (SEAPDEC) cho thấy: Hiệu
quả của chê phẩm men vi sinh dựa vào sô" lượng bào
tử vi khuẩn tồn tại vào thòi điểm mà chê phẩm men
vi sinh được đem sử dụng tại ao ni. Như vậy, vào
thịi điểm sử dụng trong ao phải có trên một tỷ bào
tử vi khuẩn tồn tại trong Igr hay Iml thì sản phẩm
mới có hiệu quả. Những chế phẩm men vi sinh có sơ'
lượng bào tử vi khuẩn thấp thường đưỢc đóng gói
dạng lỏng. Bởi vì, hệ sơ' tồn tại của bào tử bị giảm đi
nhanh chóng trong q trình vận chuyển và lưu kho
đối với các sản phẩm ở dạng lỏng và chúng có thời
hạn sử dụng dưới ba tháng.
Phịng bệnh cho tôm do môi trường
biến động trong mùa mưa bão
P h òn g bệnh cho tôm tro n g m ùa m ưa bão
Nuôi tôm trong mùa mưa sẽ gặp rất nhiều trở ngại,
vì mơi trường thay đổi mà người ni chưa chủ động
khơng chê" được. Do đó, để hạn chê" các rủi ro cho việc
ni tơm thì người ni cần có biện pháp phịng bệnh
cho tơm kịp thời. Các biện pháp sau đây sẽ giúp người
nuôi tôm giải quyết được các rủi ro khơng đáng có.
- xử lý ao nuôi tôm trong khu vực đất phèn:
+ Nếu ao đã phơi khơ một thịi gian dài trong
mùa nắng, thì lúc mưa xng ao sẽ bị xì phèn nhiều
ỏ đáy ao và bò ao.
+ Cách xử lý:
Trước khi dùng vơi hoặc chuẩn bị ao thì người
ni nên rửa ao bằng vôi nung (CaO) 20 30kg/1600m2 nên thực hiện ít nhất 1 lần, tơt nhất
nên rửa ao từ 2 - 3 lần. Bên cạnh đó, người ni phải
kiểm tra độ pH của nước (nên cao hơn 7) và sau đó từ
từ nâng độ pH lên 7,2 - 7,8.
- Xử lý độ mặn của ao nuôi:
ớ mỗi khu vực ni khác nhau sẽ có độ mặn của
nước khác nhau, do đó việc quan trọng là người ni
phải kiểm tra độ mặn trong nước chính xác ở trại sản
xuất giơng để điều chỉnh độ mặn tương đương nhau ở
hai môi trường nuôi. Tuy nhiên, người nuôi cần chú ý
độ mặn ở hai môi trường nuôi không đưỢc chênh lệch
quá 5ppt để giảm sôc và tăng tỷ lệ sống của tôm.
162
- Diệt tạp ở ao nuôi trước khi thả giông;
Nếu thời gian chuẩn bị nước lâu quá thì trước
khi thả giơng người ni phải kiểm tra xem trong
ao có các lồi cá tạp, tơm đất, tép hay khơng. Nếu
có các lồi này thì người ni phải diệt chúng
trước khi thả giống, có thể dùng thd để diệt, cá
Saponin, bọ cạp hay rùa vàng hoặc thay nước mới.
Nêu không tỷ lệ sông của tôm giảm đi rất nhiều và
tôm rất dễ bị nhiễm bệnh từ các sinh vật đó.
- Xử lý ao ni khi trời mưa lúc đang thả giơng:
Bình thường trịi hay mưa vào buổi chiều hoặc
buổi tơi, do đó người nuôi nên tiến hành thả giốiig
vào buổi sáng sẽ an tồn hơn, đặc biệt là khu đất có
phèn nhiều.
Ví dụ: Khi đang thả tơm mà có mưa xng, tơm
giơng dễ bị sôc do phèn và môi trường, tôm giông yếu
và sẽ chết.
+ Cách xử lý:
Dùng vôi CaCO;j, SUPER CANXIMAX (CaCOa
98,5%) rải trên bờ liên tục và sau khi mưa rải
CaCO„ SUPER CANXIMAX hoà tan với nước (chú ý
nên đo độ pH trong ao trước khi dùng).
- Đối vối hiện tượng tôm bị nổi đầu lên khi mưa:
Sau khi mưa tôm thường bị nổi đầu ở những khu
vực đất phèn nhiều và ao cũ hoặc ao có độ sâu thấp ít
thay nước. Khi mưa lượng phèn trên bờ sẽ theo nưốc
mưa chảy vào ao, làm cho độ pH trong nước trong ao
thấp dẫn đến H^s ở đáy ao, có độc tô' tăng lên khiến
tôm nổi đầu lên mặt nước.
.63
+ Cách xử lý;
Đe khắc phục hiện tượng này thì người nuôi nên
thay nưốc ở đáy ao dùng vôi SUPER CANXIMAX rải
đều khắp ao để tăng pH trong nưốc cao hơn 7,5, sau
đó phải giảm lượng thức ăn xhg.
- Xử lý hiện tượng nước nuôi tôm quá trong:
Sau khi mưa xuống, nước ở khu vực đất phèn cát
bị trong do khi mưa sự thay đổi môi trường nước diễn
ra quá nhanh (tảo trong ao chết đột ngột), làm cho
nước rong và thiếu chất dinh dưỡng cho tôm
+ Cách xử lý:
Nên thay nước cũ, thêm nước mối vào hoặc dùng
DOLOMITE, hay SUPER DOLOMITE (20 30kg/1600m^) và bón phân 2 ngày 1 lần trong vịng
50 ngày đầu, nếu ao khơng lên màu thì có thể dùng
màu giả.
- Xử lý các chất hữu cơ, chất lơ lửng và bụi đất:
ở các khu vực đất cát hoặc đất cát pha thịt sau
những cơn mưa lớn sẽ xuất hiện các chất lơ lửng, bụi
đất ở trong nước và trên mặt nước.
+ Cách xử lý:
Nên thay nước nhiều và dùng vôi CaCOg hoặc
SUPER CAXIMAX từ 10 - 20kg/1000mVngày, từ đó
nâng cao mực nước lên và tắt máy đạp nước (nếu có)
trong buổi chiều. Nếu khơng hết thì dùng THIO 5000
với liều lượng 2 - 41/10002, ASAHI ZEALITE với liều
lượng 150 - 200kg/ha (sử dụng 1 lần).
Chú ý: Khi gặp hiện tượng này tôm sẽ giảm ăn, vì
vậy người ni phải giảm lượng thức ăn từ 20 - 50%.
8^
- Hiện tượng tôm không lột vỏ đưỢc:
Khi tôm không lột vỏ được ở khu vực đất phèn và
những nơi có độ cứng thấp, do các chất khống trong
nưốc sơng khơng cân bằng thì tơm sẽ yếu, khó lột vỏ
và không ăn được.
+ Cách xử lý:
Trong ti-ường hỢp này người ni tơm có thê dùng
thuốc Dolomite 20 - 30kg/1600m^ từ 1 - 2 lần trong vòng
50 ngày đầu sẽ tránh được hiện tượng này. Kết hỢp
dùng Mutan - p + Mineral với liều lượng 5 - lOgr/kg
thức ăn sử dụng liên tục trong 7 ngày.
Như vậy, trên đây là những vấn đề thường xảy ra
khi nuôi tôm vào mùa mưa (ngồi ra cịn có các u
tố khác như nguồn nưốc, đất đai...). Vì thê, điều
quan trọng nhất trong quá trình nuôi tôm là người
nuôi tôm phải quản lý theo dõi liên tục chất lượng
nưốc, sức khoẻ tôm, khi xảy ra sự cố thì cần có biện
pháp xử lý nhanh, kịp thời để giảm hiện tượng tôm
chết vào mùa mưa, đem lại hiệu quả cao cho việc
nuôi tôm.
Môt sô lưu ý kh i dù n g thuốc hay hoá ch ât đế
p h ị n g bệnh cho tơm và các biện p h á p xử lý môi
trường
- Khi dùng thuốc hay hóa chất trị bệnh cho tơm thì;
+ Người ni cần tìm hiểu xem tơm bị bệnh gì?
Bệnh ấy có thể trị được khơng? Và nêu trị sẽ có hiệu
quả khơng? Sau đó, người ni phải tìm đúng loại
thuốc hay hóa chất cần dùng, dùng đúng liều, đúng
i65
phương pháp và phải tìm hiểu sem sức chịu đựng của
tơm đối với thuốc và hóa chất đó. Ngồi ra, người
ni tơm cịn phải xem xét đến vấn đê dùng thuốc
hay hóa chất đế trị bệnh cho tơm có mang lại hiệu
quả kinh tê khơng?
+ Bên cạnh đó, để trị bệnh cho tơm có hiệu quả,
thì người ni cần phải dựa trên kết quả chẩn đốn
bệnh chính xác để chọn thc hay hóa chất cho đúng.
Bơi vì, có rất nhiều trường hỢp người nuôi tôm thực
hiện các biện pháp trị bệnh tôm cho không hiệu quả
là do xác định nguyên nhân gây bệnh sai hoặc sử
dụng thuốc, hóa chất khơng đúng.
+ Mặt khác, người nuôi tôm cũng cần phải xem xét
một số yếu tơ”mơi trường có thể ảnh hưởng đến kết qủa
điều trị và đến tôm như: nhiệt độ, pH, độ đục của
nước... có thể làm ảnh hưởng đến tác dụng của từng
loại thuốc hay hóa chất, cần xem lượng oxy hoà tan
thấp hay pH cao sẽ ảnh hưởng đến tơm khi dùng
thuốc. Vì vậy, khi dùng thuốc hay hóa chất thì người
ni tơm phải càn cứ vào hưống dẫn để dùng cho đúng.
Liều dùng thuốc hay hóa chất cho tơm phải tuỳ
thuộc vào loại kích cỡ tơm và thời gian trị liệu. Sức
chịu đựng thuốc hay hóa chất của tơm nhỏ kém hơn
tơm lớn. Vì vậy, người ni nên thử nghiệm nồng độ
thuốc và hóa chất với quy mơ nhỏ trong xô hoặc chậu
trưốc khi sử dụng cho bể hay ao nuôi.
Chú ý, hầu hết các loại thuốc hay hóa chất để trị
bệnh tơm đều độc, nếu dùng khơng đúng liều lượng
hay khơng đúng kỹ thuật. Thuốic hay hóa chất sử
166
dụng phải phân huỷ nhanh để hạn chế sự tồn lưu
trong tơm hay mơi trường. Tuy nhiên, dùng thc
hay hóa chất cần kết hỢp vói việc cải thiện mơi
trường ni, thậm chí phải cải thiện mơi trường ni
trước khi dùng thuốc hay hóa chất.
- Một sơ" quy định về việc sử dụng thuốc kháng
sinh cho tơm ni:
Kháng sinh chỉ có tác dụng đốì với tơm bị nhiễm
bệnh, vi khuẩn. Cịn thuốc kháng sinh khơng có tác
dụng đối với các bệnh do virus hay do nấm và
nguyên sinh động vật gây ra. Vì vậy, việc sử dụng
thuốc kháng sinh phải chọn đúng loại kháng sinh cần
dùng, dùng đúng liều và đúng thịi gian quy định. Mặt
khác, thuốc kháng sinh có thể tồn lưu trong mơi trường
và trong tơm, vì thế người nuôi tôm chỉ nên sử dụng
thuốc kháng sinh khi thật cần thiết. An tồn nhất là
khơng được dùng thuổc khoảng 3 tuần trước khi thu
hoạch. Thuốc kháng sinh thường dùng có kết quả tổt
khi mơi trường ni được cải thiện.
- Một sơ" lưu ý khi dùng hóa chất để xử lý mơi
trường ni tơm:
+ Hóa chất dùng để xử lý mơi trường ni tơm có
rất nhiều loại, vì thê" người ni tơm phải hiểu hoạt
tính của từng loại và dùng đúng theo hưống dẫn để
có hiệu quả cao. Hơn nữa, khi dùng hóa chất để xử lý
nước thải thì người ni tơm phải biết thịi gian hóa
chất tác dụng để đảm bảo khi đưa vào ao nuôi không
ảnh hưởng đến tôm.
+ Khi dùng hóa chất đế xử lý nước cho ao đang
ni tơm thì người ni phải lưu ý để hóa chất khơng
làm chết tảo và các vi sinh vật có lợi trong ao. Thơng
thường, sau khi dùng hóa chất thì mơi trường nước
có thể thay đổi, ví như khi tảo chết làm nước ao
trong, giảm quang hỢp để cung cấp oxy cho ao, nền
đáy ao sẽ bị bẩn hơn khi tảo chết lắng xuống đáy ao.
Đặc biệt, sau khi dùng hóa chất thì người ni
nên cải thiện mơi trường ao nuôi như cấp thêm nưốc
mới cho ao. Bên cạnh đó, người ni cần chú ý khi
dùng thuốc để xử lý môi trường ao đang nuôi tôm
phải dùng đúng liều và dùng 1 lần, tránh dùng liều
thấp và dùng nhiều lần liên tiếp nhau, vì thế màu
nước ao sẽ bị mất và khó gây màu trở lại.
Phịng tránh hiện tượng tôm chết hàng loạt
Nguyên nhân tôm thường bị chết hàng loạt là do
người nuôi mua phải giống tôm nhiễm virus từ
nguồn cung cấp trơi nổi khơng được kiểm sốt. Bên
cạnh đó, cũng có ruộng tơm, giơng tơ"t khơng bệnh
nhưng sau một thời gian chúng bị nhiễm bệnh virus
ngay trong ruộng hay lây nhiễm từ ruộng bên cạnh,
từ nguồn nước ô nhiễm chứa virus. Tuy nhiên, dù là
virus có nguyên nhân từ đâu thì hậu quả vẫn là tơm
chê hàng loạt mà người dân nuôi tôm quen gọi là
“bệnh đầu trắng”. Tôm ở mọi lứa tuổi khi bị nhiễm,
nổi lên vật vờ rồi chết, cần có sự theo dõi sát sao và
làm chỉ dẫn của các chuyên gia.
l6 8
Bên cạnh đó, một nguyên nhân rất quan trọng là
do mơi trường ni tơm bị ơ nhiễm . Có th ể đây là
ngun nhân chính làm cho tơm chết hàng hoạt.
Trước hêt, có thề là do nguồn nưổc ni tơm bị nhiễm
phèn. Trong đó, phèn cũng có hai loại phèn sắt (phèn
nóng) và phèn nhơm (phèn lạnh), cũng có khi do hỗn
hỢp của cả hai loại phèn này, trong điều kiện pH của
môi trường nước thấp. Phèn thường xuất hiện khi ta
xử lý ruộng, đào kinh, lên liếp, bao ví thành vuông
tôm. Đặc biệt, đất vùng nuôi tôm chủ yêu là vùng đất
mặn trên nền phèn tiềm tàng.
Đặc tính nổi bật của loại đất này là trong điều
kiện có nưốc mặn, nước lợ thường xuyên trên mặt, sẽ
khống chế, đất khơng bị phèn hóa, ruộng tơm vẫn an
tồn. Nhưng nếu ta đào đắp hay xáo trộn đất hay đê
đất tiếp xúc với oxy trong khơng khí thì q trình
phèn hóa xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Kết
quả của quá trình này là các chất như: AP'^, Fe^^,
.69
S0 4 (- 2) sẽ xuất hiện rất nhanh và rất nhiều. Cịn
trình tự xuất hiện thì trước hết là Fe^'" rồi đến S0 4 (2) và cuôi cùng, khi pH xuỗhg thấp thì giải phóng ra
rất nhiều Al’^ từ các lớp đất sét. Lúc này, nồng độ các
độc chất tăng nhanh, đột ngột, có thể từ Oppm (phần
triệu) tăng lên đên hàng trăm và có thể hàng ngàn
ppm. Tuy nhiên, khả năng chịu đựng của tôm với các
chất độc này rất thấp, nhất là với nhôm, chỉ 4,5 10,5ppm là có ảnh hưởng tối tơm, nhất là đối với tơm
con. Cho nên, khi xây dựng ruộng thành vng tơm
thì người ni phải chú ý, khơng cho q trình phèn
hóa xảy ra.
Mặt khác, những người nuôi tôm ở vùng này
phải chú ý tránh không cho nưốc rỉ ra từ bờ đắp
chảy vào vuông tôm, sau những ngày mới đắp và
nhất là sau những trận mưa đầu mùa hay trận
mưa nghịch mùa (giữa mùa khơ). Bởi vì, trong
nguồn nước này chứa rất cao nồng độ độc chất
AL^,
và SƠ 4 (- 2 ) có thể gây tình trạng tơm bị
chêt hàng loạt. Một điều rất đặc biệt trong
trường hỢp này người nuôi tơm rất khó nhận biết
hiện tượng. Bởi vì, nó xuất hiện rất nhanh, sau
đó liền bị khỏa lấp hỏi nước triều lên. Với những
người chưa có kinh nghiệm ni tơm thì rất khó
phát hiện đúng ngun nhân gây bệnh, do đó kết
luận là virus.
Một ngun nhân khác làm cho tơm chết
hàng loạt là tôm bị nhiễm độc hữu cơ từ đáy ao.
Điều này thường xảy ra ỏ vuông tôm sau 3 - 4
l70
năm nuôi trồng. Bởi chất hữu cơ từ thức ăn thừa
lắng xuông đáy ao, kết hợp các loại rong tảo
chết, phân giải yếm khí, sản sinh nhiều độc tố
như khí hydro sunfua hay mêtan hoặc các hỢp
chất dạng cơ kim. Tơm có thói quen vùi mình
trong các lớp trầm tích ở đáy ao để ngủ nghỉ hay
tránh nắng nóng, khi gặp độc chất này thì gây
chết rất nhanh.
Như vậy, việc ni tơm ở vùng ven biển rất có
lợi. Tuy nhiên, mn phát triển bền vững việc ni
thì người ni phải nghiên cứu kỹ các yếu tô môi
trường, nắm vững kỹ thuật ni vối những điều
kiện từng nơi. Bên cạnh đó, cần thận trọng hơn
trong việc nuôi tôm 'ruộng lúa đã ngọt hóa, trong
rừng ngập mặn và nhất là nhũng ruộng nằm trên
nền đất phèn tiềm tàng.
Phòng và điều trị các bệnh thường gặp
ỏ tôm
B ênh đốm trắ n g
- Tác nhân gây bệnh là White spot syndrome virus.
- Các loài chịu tác động của bệnh này là tôm sú,
tôm chân trắng, tôm lớt, tôm rảo, tôm rằn. Cụ thể là:
+ Dấu hiệu bệnh:
Dấu hiệu đặc trưng nhất của bệnh này là ở tôm
xuất hiện những đô"m trắng ở dưối vỏ (dễ nhìn thấy
nhất ở vỏ giáp đầu ngực). Những con tôm khi mắc
bệnh thường nổi lên ở tầng mặt, bỏ ăn, hoạt động