Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ảnh hưởng của mật độ cá và lượng thức ăn artemia lên tỷ lệ sống của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương từ bột đến hương trên bể composite

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.9 KB, 8 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ CÁ VÀ LƯỢNG THỨC ĂN
ARTEMIA LÊN TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ TRA (Pangasianodon
hypophthalmus) ƯƠNG TỪ BỘT ĐẾN HƯƠNG TRÊN BỂ
COMPOSITE
Nguyễn Văn Sáng1, Nguyễn Thị Đang2
TĨM TẮT
Nghiên cứu trình bày ảnh hưởng của mật độ cá ương và lượng thức ăn Artemia nhằm nâng cao tỷ lệ
sống và tốc độ tăng trưởng của cá tra ương từ giai đoạn bột lên hương trong 20 ngày ương trên bể
composite. Cá tra bột được bố trí trên bể composite thể tích 1 m3 . Ba nghiệm thức ở mật độ là 1.500
con/m3, 3.000 con/m3, 4.500 con/m3 và 3 mức về lượng thức ăn được thiết kế. Mỗi nghiệm thức mật
độ và thức ăn được lặp lại 3 lần. Thu thập số liệu về số lượng Artemia trong đường ruột cá từ ngày
ương thứ nhất đến ngày thứ 6, số lượng cá chết hàng ngày, tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng của
cá khi kết thúc thí nghiệm. Sự khác biệt về tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá ở các mật độ ương và
lượng thức ăn Artemia được đánh giá bằng phân tích ANOVA trong Minitab. Mật độ cá ương và
lượng thức ăn Artemia ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ sống của cá (P<0,05). Lượng thức
ăn Artemia không ảnh hưởng lên tăng trưởng về chiều dài (P=0,11). Mật độ cá ương ảnh hưởng có
ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng chiều dài (P<0,001). Lượng thức ăn Artemia (P=0,003) và mật
độ cá ương (P<0,001) ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng về trọng lượng. Số lượng
Artemia trong đường ruột cá vào ngày thứ 2, 4 và 6 không bị ảnh hưởng bởi mật độ cá và lượng
thức ăn (P=0,99).Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau có chiều hướng giảm khi tăng lượng thức ăn từ (1R, 3R
và 9R), ở các mật độ 1.500, 3.000, 4.500con/m3.
Từ khóa: cá tra hương, mật độ cá, lượng thức ăn Artemia, tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ cá ăn thịt
lẫn nhau.

I. GIỚI THIỆU
Hiện nay tỷ lệ sống ương từ cá bột lên cá
giống giảm dần, từ năm 2001 trở về trước tỷ
lệ sống đạt trung bình 40%, xuống còn 12,6%
tại các trại ương cá tra (Nguyễn Văn Sáng và


ctv., 2011). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng con giống như cá bố mẹ có nguồn gốc
khơng rõ ràng và khơng được tuyển chọn, kích
thước cá bố mẹ nhỏ, kỹ thuật nuôi vỗ thành thục
chưa đạt (thức ăn, mật độ, thay nước), đẻ ép,
khai thác quá mức do cho cá đẻ nhiều lần trong
năm. Kỹ thuật ương chưa đảm bảo do ao hồ
nhỏ, ít thay nước, lạm dụng thuốc và hóa chất,

kỹ thuật phịng trị bệnh chưa cao (Nguyễn Văn
Sáng và ctv., 2011). Trong chọn giống cá tra
phương pháp hiện tại đang sử dụng phổ biến
trên thế giới là chọn lọc cá thể, chọn lọc gia đình
và chọn lọc kết hợp gia đình và cá thể. Các tính
trạng trong mục tiêu chọn giống bao gồm tăng
trưởng cao, kháng bệnh, tỷ lệ phi lê, màu sắc
thịt, thành thục sớm và một số tính trạng khác.
Để chọn lọc đạt hiệu quả cao cần số lượng lớn
gia đình và số lượng lớn cá cho từng gia đình,
vì vậy ương ni cá trên bể composite sao cho
đạt tỷ lệ sống từng gia đình và tỷ lệ thành cơng
các gia đình cao là một trong những điều kiện

1

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2
Email:
2
Trung tâm Quốc gia giống Thủy sản Nước ngọt Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014

41


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
tiên quyết. Những tỷ lệ này đã được cải thiện
đáng kể những năm 2006- 2008, dù tỷ lệ sống
đạt chưa cao, chỉ từ 15,7-23,2% (Nguyễn Văn
Sáng và ctv., 2009), tỷ lệ sống đạt cao hơn từ
20,1 – 25,2% năm 2010 (Nguyễn Văn Sáng
và ctv., 2010). Để an toàn hơn và chuẩn bị về
sau khi thực hiện chọn giống nhiều hơn 02 tính
trạng, cần số lượng cá lớn hơn, quy trình ương
cá tra trên bể composite từ bột lên hương cần
được hoàn thiện để đáp ứng đủ số lượng cá cho
chọn giống đạt hiệu quả cao.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU.
2.1. Vật liệu nghiên cứu.
Thí nghiệm được thực hiện với nguồn cá tra
bột sinh sản từ 01 cặp cá bố mẹ F2-2001 nuôi vỗ
từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 06 năm 2011.
Thức ăn: Artemia (nhà sản xuất Sander),
Moina, thức ăn bột của công ty Tomboy và thức
ăn mảnh của công ty UP.
2.2. Bố trí thí nghiệm.
- Mật độ ương: Cá thả ương sau khi nở từ
18 – 20 giờ, bố trí trong bể 1 m3 nước, với 3 mật
độ: 1.500 con/bể/m3, 3.000 con/bể/m3, 4.500

con/bể/m3, ký hiệu tương ứng M1, M2, M3. Thời
gian ương là 20 ngày.
Bảng 1. Lơ thí nghiệm theo mật độ và mức cho
ăn khác nhau

Mật độ

M1

M2

M3

A1

x

x

x

A2

x

x

x

A3


x

x

x

RFL

x: Lơ thí nghiệm, mỗi lơ được lặp lại 3 lần
và bố trí hồn toàn ngẫu nhiên.
M: mật độ cá, 1.500, 3.000, 4.500 con/bể.
A1, A2, A3: tương ứng thức ăn Artemia 1 (1
RFL), Artemia 2 (3 RFL), Artemia 3 (9 RFL).
42

- Thức ăn và cách cho ăn:
+ Lượng thức ăn Artemia cho ăn với 3
mức 1, 3, 9 RFL, trong đó RFL được tính theo
công thức sau: Log(RFL) = 0,377+0,176A
(Slembrouck và ctv., 2009), trong đó: A là số
ngày tuổi cá, RFL (refenrence feeding level)
là lượng thức ăn tham khảo, lượng ấu trùng
Artemia/con cá/lần cho ăn.
- Thức ăn Artemia:
Cho cá ăn Artemia 6 lần/ngày: 7 h, 10 h, 14
h, 17 h và 21 h, 0h. Artemia cho ăn trong 6 ngày
đầu. Để quy đổi số liệu Artemia cho cá ăn ước
tính 1g Artemia trọng lượng khô khi ấp nở thu
được 250.000 Nauplii. Dựa vào tổng số lượng

Artemia cho cá ăn ở mỗi thí nghiệm tính được
mỗi ngày cần ấp bao nhiêu g trọng lượng khô
Artemia. Cân đủ số g Artemia khơ đem ấp trong
thùng có sục khí, sau 18h thu Artemia Nauplii
qua túi lọc, hịa lượng Nauplii vào xơ nhỏ, hịa
tan đều tay, sau đó dùng cốc thủy tinh chia số
lượng Artemia trong thùng làm 6 phần để cho
ăn 6 lần/ngày. Mỗi phần nhỏ cho 1 lần cho ăn
được chia theo tỷ lệ 1,3 và 9, để cho ăn tương
ứng với 3 mật độ 1.500, 3.000, 4.500 con/m3.
- Thức ăn Moina:
Thức ăn Moina được bổ sung vào ngày thứ
2 với một lượng nhất định 1, 2, 4 con/ml từ
ngày thứ 2, 4, 6. Từ ngày thứ 7 đến ngày 11
cho ăn Moina với lượng 2, 4, 8 con/ml tương
ứng với mật độ cá 1.500, 3.000, 4.500 vào các
bể như nhau, ước tính 1g Moina có số lượng
36.900 con.
- Thức ăn công nghiệp:
Thức ăn bột Tomboy từ ngày thứ 7, 8 cho
ăn nhử lượng nhỏ, ngày thứ 9-11 cho ăn 10%
trọng lượng thân. Thức ăn mảnh UP cho cá ăn từ
ngày thứ 12 -20, cho ăn 10% trọng lượng thân.
Ngày cho ăn 2 lần vào lúc 7h và 14h.
2.3. Thu thập và xử lý số liệu.
2.3.1. Các chỉ tiêu đo đạt
+ Đo môi trường cách ngày 1 lần gồm các
yếu tố: nhiệt độ: 2 lần/ngày vào lúc 7h30 và

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
14h bằng nhiệt kế thủy ngân, pH, NO2, NH4+/
NH3 cách ngày đo 01 lần đo bằng test kit Sera
của Đức.

+ Tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau (%) = 100- [tỷ lệ
sống (%)+ tỷ lệ chết (%)]

+ Xác định tỷ lệ sống: đếm toàn bộ cá còn
sống vào ngày thứ 20, tỷ lệ sống được tính: tổng
cá thu được/tổng cá thả x 100%.
+ Xác định tăng trưởng cá: đo chiều dài cá
trên kính hiển vi khi kết thúc thí nghiệm, 100
con/bể.

- Số liệu được thu thập và kiểm tra bằng
phần mềm Excel 2007. Phương pháp phân tích
ANOVA 2 yếu tố được áp dụng để đánh giá ảnh
hưởng của mật độ và lượng thức ăn lên tỷ lệ
sống, trọng lượng và chiều dài của cá bằng phần
mềm thống kê Minitab.

+ Xác định lượng thức ăn trong đường ruột
cá: đếm số lượng artemia sau khi cho cá ăn 1
giờ. Thu 10 con/bể, mổ đếm số con Artemia trên
kính hiển vi vào ngày thứ 2, 4, và thứ 6.

- Để xác định mật độ cá và lượng thức ăn

tối ưu thơng qua phân tích ANOVA 2 yếu tố
và xếp hạng Turkey (P<0,05) bằng phần mềm
thống kê Minitab.

2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng cá ở các nghiệm thức mật độ cá ương và
lượng thức ăn Artemia.
Bảng 2. Kết quả tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng trung bình của cá ương ở các nghiệm thức.

Thức ăn
(RFL)

Mật
độ(con/m3)

Tỷ lệ sống trung
bình ± SE*(%)

Chiều dài trung
bình ± SE*(cm)

Trọng lượng trung
bình ± SE*(g)

1

1.500


23,3±1,16c

1,56±0,016a

0,035±0,0010a

3

1.500

26,3±2,34 b

1,60±0,013 a

0,032±0,0010 ab

9

1.500

38,5±3,38 a

1,59±0,014 a

0,031±0,0010bc

1

3.000


18,9±0,73 g

1,50±0,015 a

0,033±0,0009 a

3

3.000

21,1±8,00 e

1,50±0,131 a

0,028±0,0008 e

9

3.000

20,9±1,93 f

1,52±0,014 a

0,028±0,0007 de

1

4.500


12,9±2,59 i

1,51±0,013 a

0,029±0,0009 cde

3

4.500

16,6±1,84 h

1,52±0,121 a

0,027±0,0007 c

9

4.500

22,6±1,85d

1,52±0,013 a

0,031±0,0015 bcd

R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo cơng thức Log(RFL) = 0,377+0,176A.
*: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Theo Bảng 2 ta thấy tỷ lệ sống của cá (26,3±2,34) và cao thứ 3 ở mật độ 1.500 con
giữa các nghiệm thức mật độ và lượng thức lượng thức ăn 1R (23,3±1,15). Tỷ lệ sống

ăn khác nhau có sự sai khác rõ rệt. Tỷ lệ sống thấp nhất ở mật độ 4.500 con/m3, lượng thức
cao nhất ở mật độ 1.500 con/m3, lượng thức ăn Artemia 1R (12,9±2,59). Có thể thấy rằng
ăn Artemia 9R (38,5±3,38), tiếp theo là ở mật ương ở mật độ 1.500 con/m3 tỷ lệ sống đạt
độ 1.500 con/m3, lượng thức ăn Artemia 3R tương đối cao.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014

43


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Tăng trưởng về chiều dài trung bình của cá
tra sau khi ương đến 20 ngày tuổi đạt từ 1,51,6 cm. Chiều dài không ảnh hưởng bởi lượng
thức ăn (P=0,11), và có ý nghĩa ảnh hưởng bởi
mật độ cá (P<0,001). Mặc dù chiều dài giữa
các nghiệm thức khơng có sự khác biệt đáng
kể (Bảng 2). Tuy nhiên, ở mật độ 1.500 con,
lượng thức ăn 3R cho tăng trưởng chiều dài cao
nhất (1,60±0,0129), chiều dài thấp nhất ở mật
độ 3.000, lượng thức ăn 1R (1,50±0,015). Chiều
dài ở mật độ 1.500 con có khác biệt so với mật

độ 3.000 và 4.500 con, chiều dài có xu hướng
cao nhất ở mật độ 1.500con.

Sự tăng trưởng về trọng lượng ảnh hưởng
có ý nghĩa thống kê vào lượng thức ăn Artemia
(P=0,003) và mật độ cá ương (P<0,001).Theo
kết quả phân tích ANOVA, tăng trưởng về
trọng lượng ít sai khác giữa các mật độ cá và
lượng thức ăn nhưng ở mật độ 1.500 con, tăng

trưởng trọng lượng đều hơn ở mật độ 3.000
con và 4.500 con.

3.2. Kết quả số lượng Artemia ở các ngày tuổi thứ 2, thứ 4 và thứ 6.
Bảng 3. Số lượng Artemia trung bình cá ăn được khảo sát vào các ngày tuổi thứ 2, thứ 4 và thứ 6.

Số Artemia trung bình ± SE* (con)

Lượng thức
ăn (RFL)

Mật độ (con/m )

1

3

Ngày tuổi thứ 2

Ngày tuổi thứ 4

Ngày tuổi thứ 6

1.500

1,66±0,236 a

2,22±0,220 a

3,77±0,401 b


3

1.500

2,10±0,314 a

2,30±0,213 a

4,80±0,573 a

9

1.500

1,90±0,233 a

2,40±0,163 a

4,30±0,396 ab

1

3.000

1,90±0,251 a

2,18±0,182 a

5,36±0,453 ab


3

3.000

2,00±0,302 a

2,36±0,152 a

4,18±0,444 ab

9

3.000

1,90±0,251 a

2,18±0,182 a

4,36±0,491 ab

1

4.500

2,10±0,314 a

2,20±0,200 a

4,80±0,250 ab


3

4.500

1,90±0,233 a

2,30±0,153 a

4,70±0,448 ab

9

4.500

2,00±0,211 a

2,40±0,267 a

4,40±0,452 ab

R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo cơng thức Log(RFL) = 0,377+0,176A.
*: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Khả năng bắt mồi của cá không phụ thuộc
vào mật độ cá và lượng thức ăn cung cấp
(P=0,99) khơng có ý nghĩa thống kê (Bảng
3). Khơng tìm thấy sự khác biệt về số lượng
44


Artemia cá ăn được theo ngày tuổi thứ 2, thứ
4, thứ 6 (khảo sát trên kính hiển vi sau khi cho
cá ăn 30 phút cho ăn).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.3. Kết quả tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tại các mật độ và lượng thức ăn khác nhau.
Bảng 4. Trung bình tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tại các mật độ và lượng thức ăn khác nhau.
Thức ăn (RFL)

Mật độ (con/m3)

Tỷ lệ ăn thịt trung bình ± SE*(con)

1
3
9
1
3
9
1
3
9

1.500
1.500
1.500
3.000

3.000
3.000
4.500
4.500
4.500

63,77±1,092bc
59,10± 0,466cd
46,87±2,119 d
71,06± 2,416abc
69,32± 7,014abc
67,86± 1,739abc
80,90±3,803a
77,17± 1,784ab
69,11± 2,306abc

R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo cơng thức Log(RFL) = 0,377+0,176A.
*: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau của cá khơng có
sự sai khác giữa các mật độ và lượng thức ăn
khác nhau nhưng ảnh hưởng có ý nghĩa thống
kê đến mật độ và lượng thức ăn (P<0,001)
(Bảng 4). Tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau cao nhất ở
mật độ 4.500con, lượng thức ăn Artemia 1 R
(80,90±3,803), tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau của cá
thấp nhất ở mật độ 1.500 con.
IV. THẢO LUẬN
Lượng thức ăn Artemia và mật độ cá có
ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá tra ương từ
cá bột lên cá hương trên bể composite. Thí nghiệm ương cá tra trên bể composite cho cá ăn

Artemia, Moina đề tài chọn giống cá tra nhằm
tăng tỷ lệ philê bằng chọn lọc gia đình (Nguyễn
Văn Sáng và ctv., 2009) tỷ lệ sống đạt chưa cao
(15,7-23,2%). Khi so sánh ta thấy kết quả thí
nghiệm có tỷ lệ sống cao hơn ngoại trừ ở mật độ
4.500 con và lượng thức ăn 1R. Thức ăn đầu vào
có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá tra ương,
mật độ cá không ảnh hưởng, ương cá tra sau 8
ngày với mật độ 10con/lít và lượng thức ăn Artemia 9R, tỷ lệ sống đạt cao (60,6%), tỷ lệ sống
thấp nhất (20%) tại mật độ 30con/lít và lượng
thức ăn Artemia 1R (Slembrouck và ctv., 2009).
Tỷ lệ sống cá bị ảnh hưởng loại thức ăn, mật độ

thức ăn (Ruzicka và Gallager, 2006, trích bởi
Slembrouck và ctv., 2009).
Tuy nhiên ngoài yếu tố tỷ lệ sống, tốc độ
tăng trưởng cũng có ý nghĩa quan trọng trong
ương ni cá tra trên bể composite phục vụ
trong chương trình chọn giống. Do đó để lựa
chọn mật độ và lượng thức ăn thích hợp cho
q trình ương ni cần phải căn cứ vào chỉ tiêu
tăng trưởng là chiều dài và trọng lượng cá.
Mật độ cá ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê
đến tăng trưởng về chiều dài. Ngược lại với
kết quả thí nghiệm ương cá tra sau 8 ngày của
(Slembrouck và ctv., 2009) cho thấy mật độ cá
không ảnh hưởng đến tăng trưởng về chiều dài
của cá (P= 0,96) nhưng lượng thức ăn đầu vào
ảnh hưởng có ý nghĩa (P<0,001) đến chiều dài
của cá.

Giai đoạn đầu cá hương mới 20 ngày tuổi
sự phát triển về trọng lượng không lớn. Theo
(Slembrouck và ctv., 2009), thí nghiệm cho
thấy có sự ảnh hưởng của lượng thức ăn đến sự
phát triển cá ương do cá còn nhỏ miệng rộng,
di chuyển chậm xác xuất gặp và bắt mồi tỷ lệ
thuận với mật độ con mồi lúc này khả năng bắt
mồi của cá là thụ động, vì vậy cần cung cấp
đầy đủ thức ăn cho cá trong giai đoạn đầu để cá

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014

45


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
tăng trưởng tốt, chưa thấy sự thể hiện số liệu về
trọng lượng.
Tỷ lệ sống có sai khác giữa các mật độ cá và
lượng thức ăn Artemia, trọng lượng và chiều dài
sai khác không đáng kể. Chiều dài đạt cao nhất
ở mât độ 1.500 con, lượng thức ăn Artemia 3R
(1,60 cm ±0,013), với mật độ và lượng thức ăn
này tỷ lệ sống đạt tương đối cao (26,33±2,340).
Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tương đối thấp (59,10±
0,466). Vậy để đạt hiệu quả cao khi ương cá tra
bột lên hương trên bể composite phục vụ cho
chọn giống ta có thể lựa chọn ương với mật độ
1.500 con, với lượng thức ăn Artemia 3R đến
9R, khi ương sản xuất đại trà để giảm bớt chi

phí thức ăn có thể ương với lượng thức ăn 3R.
Trong chọn giống có thể ương với lượng thức
ăn 9R để đạt tỷ lệ sống cao hơn sẽ giảm bớt số
bể ương, tiết kiệm được thời gian.
Số lượng Artemia tăng từ ngày thứ 2 đến
ngày thứ 6, ở ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 cá còn
nhỏ chưa ăn nhiều, khả năng bắt mồi thụ động
vì vậy cần bổ sung đủ lượng thức ăn cho cá thì
cá mới tăng trưởng tốt. Ngày thứ 6 cá bắt mồi
chủ động hơn, lượng thức ăn cũng tăng theo. Ở
mật độ 1.500 con số Artemia từ ngày thứ 2 đến
ngày thứ 6 có tăng từ 1R đến 9R có thể thấy khi
tăng lượng thức ăn thì khả năng bắt mồi của cá
cũng tăng. Kết quả ngược lại với thí nghiệm
của (Slembrouck và ctv., 2009, lượng thức ăn
trong đường ruột của cá có ảnh hưởng bởi lượng
thức ăn đầu vào ( P<0,001) và khơng có ý nghĩa
phụ thuộc vào mật độ cá.
Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau có xu hướng giảm
khi tăng lượng thức ăn từ 1R đến 9R tại các
mật độ 1.500, 3.000 và 4.500 con. Vậy khi tăng
lượng thức ăn cá bắt mồi đủ lượng thức ăn làm
giảm sự ăn thịt lẫn nhau của cá.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Với kỹ thuật ương cá tra trên bể composite
từ cá bột lên hương cho ăn bằng thức ăn Artemia
46

có bổ sung thêm Moina, thức ăn cơng nghiệp

bột và mảnh, thì mật độ cá ương và lượng thức
ăn Artemia cung cấp đều ảnh đến tỷ lệ sống
của cá có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ sống đạt cao
nhất ở mật độ 1.500 con/m3 và lượng thức ăn
Artemia 9R (38,5%). Với mật độ không quá
lớn (1.500 con/m3) thức ăn cung cấp đầy đủ
(3R-9R), tỷ lệ sống của cá ương đạt tương đối
cao. Do đó có thể áp dụng quy trình ương ở
mật độ và lượng thức ăn này trong chương
trình chọn giống cá tra.
Mật độ cá ương ảnh hưởng có ý nghĩa thống
kê đến tăng trưởng về chiều dài (P<0,001).
Lượng thức ăn Artemia không ảnh hưởng đến
sự tăng trưởng về chiều dài của cá (P=0,11),
trong khi đó chúng có ảnh hưởng có ý nghĩa
thống kê lên tốc độ tăng trưởng về trọng lượng
(P=0,003).
Lượng thức ăn Artemia trong đường ruột cá
tăng theo ngày tuổi cá từ ngày thứ 2 đến ngày
thứ 6. Ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 khi cá còn nhỏ,
khả năng bắt mồi thụ động, bơi lội kém chưa
chủ động tìm kiếm nên thức ăn trong đường
ruột thấp. Khi cá bơi lội và bắt mồi chủ động
hơn vào ngày thứ 6 thì lượng thức ăn trong ruột
cá cũng tăng. Do đó, cần chú ý cho ăn thức ăn
Artemia đầy đủ vào các ngày thứ 2-4.
5.2. Đề xuất
Ương cá tra bằng thức ăn Artemia tỷ lệ sống
đạt tương đối cao, tuy nhiên chi phí mua thức ăn
tương đối lớn, áp dụng cho chương trình chọn

giống là chủ yếu.
Cần có thí nghiệm nghiên cứu thêm lượng
thức ăn Moina và thức ăn mảnh/viên có ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng về chiều dài.
Nghiên cứu thêm thí nghiệm ương cá tra
bột lên hương cho cá ăn thức ăn Artemia với
lượng lớn hơn 9R có thể giảm tỷ lệ ăn thịt lẫn
nhau và tỷ lệ sống cao hơn.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Trần Đình Trọng,
Nguyễn Cơng Dân, Quyền Đình Thi, Nguyễn Thị
Diệu Thúy, Đinh Hùng, Phạm Đình Khơi, Bùi Thị
Liên Hà, Nguyễn Điền, Nguyễn Quyết Tâm, Ngô
Hồng Ngân, 2009. Báo cáo tổng kết đề tài ’’Chọn
giống cá tra nhằm tăng tỷ lệ phi lê bằng chọn lọc
gia đình’’, Bộ Nơng Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn, tr. 15-22.
Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Phạm Đình
Khơi, Lê Hồng Phước, Nguyễn Điền, Nguyễn
Quyết Tâm, Ngơ Hồng Ngân, Nguyễn Thị Đang,
Nguyễn Thế Vương, Trịnh Quốc Trọng, 2010.
Báo cáo khoa học tổng kết năm đề tài “Đánh
giá hiệu quả chọn giống cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus) về tăng trưởng và tỷ lệ phi lê’’,

34 trang.
Nguyễn Văn Sáng, Phạm Văn Khánh, Phạm Đình
Khơi, Phan Thanh Lâm, Nguyễn Quyết Tâm,
Đặng Minh Phương, Nguyễn Thị Đang, Trần Anh

Dũng, Nguyễn Văn Ngô, 2011. Báo cáo tổng kết
đề tài ’’Đánh giá hiện trạng sản xuất giống và xây
dựng các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng giống cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long’’,
tr. 25-30.
Tài liệu tiếng Anh
Hung, L.T., Tuan, N.A., Cacot, P., Lazard, J., 2002.
Larval rearing of the Asian Catfish, Pansasius
bocourti (Siluroidei, Pangasiidae) alternative
feeds and weaning time. Aquaculture 23, 115-127.
Slembrouck, J., Baras, E., Subagja, J., Hung, L.T.,
Legendre, 2009. Survival, growth and food
conversion of cultured larvae of Pangasianodon
hypophthalmus, depending on feeding level, prey
density and fish density. Aquaculture 8, 52-59.
Slembrouck, J., Baras, E.C., Cochet, D., Caruso, M.,
Legendre, 2010. Morphological factors behind
the early mortality of culture larvae of the
Asian catfish, Pangasianodon hypophthalmus.
Aquaculture 9, 211-219.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014

47



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

EFFECT OF FISH DENSITY AND ARTEMIA FEEDING LEVEL ON
SURVIVAL RATE OF STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus)
NURSING FROM FRY TO FINGERLING IN FIBERGLASS TANK
Nguyen Van Sang1, Nguyen Thi Dang2
ABSTRACT
This study focusses on effects of density and Artemia feeding level on improving growth and survival of 20-day fingerling nursed from one-day fry post hatching in fiberglass tank. Fry was assigned
in 1-m3 fiberglass tank. Three treatments of density 1,500 fish/m3; 3,000 fish/m3; 4,500 fish/m3 and
three Artemia feeding level were conducted. Each density and Artemia feeding level treatment was
repeated 3 times. Experimental period was 20 days. Artemia number in fish intestine from 1st to 6th
day, daily dead fish, fish survival, length and weight at the and experiments were recorded. The difference in survival rate and growth rate were evaluated by ANOVA analysis in Minitab. Fish density
and Artemia feeding level influenced significantly to fish survival (P<0.05). The Artemia feeding
level did not influence significantly to growth in length (P=0.11) but significantly to growth in
weight (P=0.003). Fish density influenced significantly to growth in weight (P<0.001). The number
of Artemia in fish intestine was not influenced by fish density and Artemia feeding level (P=0.99).
Cannibalism rate decreased when increasing Artemia feeding level at all densities.
Keywords: striped catfish fingerling, fish density, feeding level, growth rate, survival,
cannibalism rate.

Người phản biện: TS. Phạm Cử Thiện
Ngày nhận bài: 10/02/2014
Ngày thông qua phản biện: 28/02/2014
Ngày duyệt đăng: 30/3/2014

1

Research Insitute for Aquaculture No.2
Email:

2
National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture, Research Insitute for Aquaculture No.2

48

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014



×