Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.45 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 71 (05/2020)
No. 71 (05/2020)
Email: ; Website: />
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC AO NUÔI TÔM QUẢNG CANH
TỰ NHIÊN VÀ THÂM CANH TẠI ẤP PHƯỚC THIỆN, XÃ ĐÔNG HẢI,
HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH
Assessment of water quality in extensive and intensive shrimp ponds at
Phước Thiện hamlet, Đông Hải village, Duyên Hải district, Trà Vinh province
ThS. Đặng Minh Luật(1), TS. Lưu Thị Thanh Nhàn(2), TS. Nguyễn Thị Gia Hằng(3)
(1),(2),(3)Trường

Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.HCM

TÓM TẮT
Chất lượng nước ao nuôi tôm sú (penaeus monodon) quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước
Thiện, tỉnh Trà Vinh được khảo sát vào tháng 3/2019. Mẫu nước được thu tại 9 vị trí thuộc 3 khu vực ao
ni tơm và sau đó tiến hành phân tích 11 thơng số sinh – lý – hóa để tính chỉ số WQI. Đồng thời, mẫu
cũng được phân tích cấu trúc quần xã phiêu sinh thực vật để tính các chỉ số sinh học tảo. Kết quả WQI
cho thấy chất lượng nước ổn định và phù hợp cho tôm tại các vị trí quảng canh tự nhiên. Nhưng ngược
lại, hầu hết các vị trí thâm canh có chất lượng nước từ trung bình đến xấu. Thêm vào đó, sự xuất hiện
của chi tảo Euglena là dấu hiệu cho thấy môi trường nước ao giàu dinh dưỡng.
Từ khóa: ao tơm, các chỉ số sinh học tảo, chất lượng nước, phiêu sinh thực vật, WQI
Abstract
Water quality in extensive and intensive shrimp ponds of Penaeus monodon at Phước Thiện hamlet, Trà
Vinh province where was surveyed in March 2019. Water samples were collected from 9 sites that


belong in 3 areas of shrimp aquaculture and then were carried out to analyze 11 physicochemical and
biological parameters for calculating water quality index (WQI). The samples were also simultaneously
analyzed about the community structure of phytoplankton for calculating algae biological indices. The
WQI results showed that the water quality was stable and suitable for shrimp in extensive sites. On the
contrary, most of the intensive sites had medium to bad water quality. Besides, the presence of genus
Euglena is a sign of a nutrient-rich pond.
Keywords: shrimp ponds, algae biological indices, water quality, phytoplankton, WQI

1. Đặt vấn đề
Những năm qua, nghề nuôi tôm sú
nước lợ, mặn vẫn đang là một trong những
nghề chủ lực ở tỉnh Trà Vinh. Đặc biệt,
hoạt động này diễn ra nhiều ở các vùng ven
biển với mức độ thâm canh ngày càng lớn
nhưng các hộ ni khơng có sự thống nhất
Email:

trong việc phân bố tách biệt giữa ao quảng
canh và thâm canh, cũng như chưa có sự
quan tâm đến chất lượng nước xả thải ra
ngồi mơi trường. Được biết hiện nay
người dân khu vực ven biển ở ấp Phước
Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải,
tỉnh Trà Vinh đã và đang nuôi tôm theo hai
42


ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN


mơ hình chính, trong đó quảng canh tự
nhiên đã có từ những năm 90 của thế kỷ
trước, cịn thâm canh xuất hiện từ sau năm
2005. Nhưng nó được người dân xây dựng
và triển khai thực hiện ngày càng nhiều từ
sau năm 2010 và hầu như tất cả đều dưới
hình thức tự phát. Việc xây dựng ao thâm
canh xen lẫn vào các khu vực ao quảng
canh tự nhiên đã tạo ra sự không thống
nhất chung trong khu vực.
Khảo sát thực tế cho thấy tại các hộ
nuôi tôm thâm canh, nước trong ao chưa
được xử lý triệt để phần lớn được bơm và
xả thải vào các con kênh rạch nhỏ nằm len
lỏi trong nội đồng. Khi đó, chất thải tơm
ni, thức ăn dư, hóa chất lẫn thuốc kháng
sinh cịn thừa trong các con kênh sẽ theo
dòng nước và chảy trực tiếp ra sông hay
bãi bồi. Điều kiện tự nhiên về thủy văn của
tỉnh Trà Vinh có chế độ thủy triều biển
Đông với đặc trưng là bán nhật triều không
đều, một ngày: hai lần triều lên, hai lần
triều xuống [20]. Với chế độ thủy triều lên
xuống luân phiên và hệ thống kênh rạch
nhỏ, điều này rất dễ gây nên hiện tượng
phú dưỡng ở mức độ cục bộ do các vật chất
có trong nguồn nước xả thải khó có thể đi
xa nguồn phát thải và tồn lưu lại [5], [13].


Như vậy, mỗi khi triều lên nước lớn những
hộ dân nuôi tôm quảng canh tự nhiên mở
cống dẫn nước vào ao, các vật chất tồn dư
trong mơi trường bên ngồi rất có khả năng
trơi theo dịng nước vào ao.
Vì thế, việc lấy mẫu nước ao và phân
tích các thơng số lý - hóa và sinh học
nhằm phục vụ việc đánh giá tình trạng chất
lượng vùng nước ao nuôi là hết sức cần
thiết. Nghiên cứu này sẽ là một căn cứ sơ
khởi về tình trạng dinh dưỡng cũng như
thành phần cấu trúc quần xã phiêu sinh
thực vật tồn tại trong hai loại hình ao nuôi
tôm vùng ven biển ở xã Đông Hải, huyện
Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Khu vực nghiên cứu
Mẫu nước tại 9 vị trí thuộc ba khu vực
ao ni tơm được lấy vào tháng 03/2019.
Các vị trí thu mẫu được thể hiện trên hình 1
gồm khu vực ao nuôi tôm quảng canh tự
nhiên sát rừng ngập mặn (EPA), ao nuôi tôm
quảng canh tự nhiên trong nội đồng (EPB)
và ao nuôi tôm thâm canh (IP) tại ấp Phước
Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh
Trà Vinh. Các ao quảng canh tự nhiên có
diện tích từ 33000 – 47000m2 và các ao
thâm canh có diện tích từ 2000 – 2300m2.

Hình 1. Bản đồ vị trí các điểm thu mẫu

phiêu sinh thực vật (mắt lưới 25m), mẫu
định lượng được thu bằng cách lọc qua
lưới 20 lít nước. Các mẫu phiêu sinh thực

2.2. Phương pháp thu mẫu
Mẫu phân tích phiêu sinh thực vật:
mẫu định tính được thu bằng cách kéo lưới
43


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 71 (05/2020)

vật sau khi thu được cố định bằng formol
tại thực địa, sao cho nồng độ formol cuối
cùng trong mẫu là 5% [2].
Mẫu phân tích các thơng số hóa - lý:
kỹ thuật lấy mẫu nước ao hồ tự nhiên và
nhân tạo theo TCVN 5994:1995 (ISO
5667-4:1987). Thiết bị được sử dụng lấy
mẫu nước là plastic bucket dung tích 20L
và mẫu nước được chứa đựng trong các
can nhựa PE dung tích 5L đã được xử lý và
tráng rửa hai lần bằng nước mẫu. Mẫu
nước được lấy ở tầng mặt ba lần liên tục tại
mỗi vị trí, rồi trộn lại thành một mẫu tổng
hợp, sau đó bảo quản lạnh và vận chuyển
về phịng thí nghiệm [19].
2.3. Chỉ số chất lượng nước (WQI)

Chỉ số WQI được tính bằng cơng thức
của Landwehr (1974) [9], [10]. Trong đó, n
là số thơng số được sử dụng và qi là chỉ số
phụ. Để tính chỉ số WQI, chúng tơi phân
tích 11 thơng số chất lượng nước gồm:
nhiệt độ, pH, oxy hòa tan (DO), độ đục, độ

mặn, nhu cầu oxy sinh hóa (BOD5), nhu
cầu oxy hóa học (COD), tổng chất rắn lơ
lửng (TSS), N-NH4+, P-PO43- và tổng
coliform. Cơng thức tính WQI như sau:
(Landwehr, 1974)
Chuyển đổi thông số về cùng thang đo
thành chỉ số phụ - qi (Bảng 1), nghiên cứu
sử dụng bảng chuyển đổi thông số của
Phạm Thị Minh Hạnh và cộng sự (2011)
[18] về tiêu chuẩn nước mặt Việt Nam
dành cho chỉ số WQI, đồng thời bảng này
được điều chỉnh phù hợp với vùng nước
ni tơm ven biển. Bảng chuyển đổi có 5
mức điểm là 100, 75, 50, 25 và 1, mỗi mức
cũng chính là chỉ số phụ (qi). Thơng số có
các khoảng giá trị thể hiện tình trạng mơi
trường nước từ rất tốt đến rất xấu. Các
khoảng giá trị đó được tham khảo dựa trên
năm tiêu chuẩn của QCVN 10MT:2005/BTNMT [16] và nhiều nghiên
cứu khác [1], [6], [7], [13].

Bảng 1. Chuyển đổi giá trị thông số về cùng một thang đo – chỉ số phụ (qi)
Chỉ số phụ (qi)

Thông số
Nhiệt độ

Đơn vị
o

C

100

75

50

25

1

Rất tốt

Tốt

Trung bình

Xấu

Rất xấu

28 - 30  30 và  28  32 và  27  33 và  25  36 và  20
15 - 30  30 và  15  32 và  10  35 và  5


Độ mặn

 40 và  3

pH

-

7,5 – 8,5

7–9

6,5 – 9

6-9

 4 và  11

DO

mgO2/L

5

5

4

3


2

Độ đục

NTU

 10

 20

 35

 60

 100

TSS

mg/L

 50

 60

 70

 90

 100


COD

mgO2/L

 15

 15

-

-

-

mgO2/L

 10

 10

-

-

-

+

mg/L


 0,1

 0,5

1

 10

-

3-

mg/L

 0,1

 0,3

 0,5

-

-

 1000

-

-


-

-

BOD5
N-NH4
P-PO4

Tổng coliform MPN/100mL

44


ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Giá trị của chỉ số WQI được xét trên
thang màu đánh giá chất lượng nước (Bảng
2) từ 1 đến 100 của Brown và cộng sự
(1970) [17], để có thể đánh giá một cách
tổng quát nhất về chất lượng nước tại vị trí
nghiên cứu. Đồng thời sử dụng thuật ngữ

đánh giá tương ứng với môi trường nước
ao nuôi tôm như “thích hợp” là đánh giá về
mơi trường sống và “hạn chế” là đánh giá
về các thông số lý - hóa vượt mức cho
phép của một trong năm tiêu chuẩn kể trên

hay nhiều hơn.

Bảng 2. Thang đánh giá chất lượng nước cho vùng nuôi tôm ven biển Trà Vinh
WQI

ĐÁNH GIÁ

> 89

Thích hợp khơng có hạn chế (Rất tốt)

Xanh thẫm

61-89

Thích hợp nhưng có mức hạn chế thấp (Tốt)

Xanh lam

46-60

Thích hợp nhưng có mức hạn chế trung bình (Trung bình)

30-45

Thích hợp nhưng có mức hạn chế cao (Xấu)

< 30

Khơng thích hợp (Rất xấu)


MÀU

Vàng
Đỏ
Đỏ thẫm

hơn hoặc bằng 20 thì thủy vực ơ nhiễm
chất hữu cơ cao, từ 15 đến 19 thì thủy vực
ơ nhiễm chất hữu cơ có khả năng tăng cao
và dưới 15 được quy định là thủy vực ô
nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy vực không bị
phú dưỡng hoặc thủy vực có các yếu tố hay
chất gây cản trở đến việc tồn tại tiếp tục
của tảo) [4].
Các thông số sinh - lý - hóa chất lượng
nước, mật độ phiêu sinh thực vật, chỉ số
WQI và các chỉ số sinh học gồm: Shannon
Wiener và Palmer. Tất cả được nhập liệu
và xử lý số liệu trên hai phần mềm là
Microsoft Excel 2010 và PRIMER VI được
dùng để tính chỉ số đa dạng lồi Shannon –
Wiener.
3. Kết quả - thảo luận
Qua phân tích các thơng số hóa-lý học
của nước, nghiên cứu nhận thấy những vị
trí ao quảng canh tự nhiên có các thơng số
được đo đạc (Bảng 3), hầu hết nằm trong
giới hạn cho phép của QCVN 10-


2.4. Chỉ số sinh học tảo
Chỉ số đa dạng lồi Shannon – Wiener
(1949) [3] được tính dựa vào thành phần và
mật độ của phiêu sinh thực vật, sau đó căn
cứ vào thang phân loại chất lượng nước
của Wilhm và Dorris (1968) đưa ra tình
trạng ơ nhiễm thủy vực, với giá trị H’ lớn
hơn 0,9 thì thủy vực khơng bị ơ nhiễm,
khoảng từ 0,3 đến 0,9 thì thủy vực ơ nhiễm
nhẹ và dưới 0,3 thì thủy vực bị ô nhiễm
[8]. Công thức được tính như sau:

(Shannon và Wiener, 1949)
Trong đó, H’ là chỉ số Shannon –
Wiener; pi là tỷ lệ số cá thể được tìm thấy
trong lồi thứ i (Pi = ni/N); ni là số lượng cá
thể của loài thứ i; N là tổng số cá thể trong
một mẫu nghiên cứu.
Chỉ số ô nhiễm do Palmer đề xuất dựa
trên 20 chi tảo chỉ thị cho thủy vực bị ô
nhiễm chất hữu cơ. Khi chỉ số Palmer lớn
45


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 71 (05/2020)

MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng
nước ni trồng thủy hải sản, cho thấy tình

trạng vùng nước tương đối tốt và thích hợp
cho tơm sinh trưởng và phát triển. Bên
cạnh đó, các thơng số COD, BOD5, N-NH4
và P-PO4 tại các vị trí khảo sát hầu hết có
giá trị nằm dưới ngưỡng phát hiện của
phương pháp đo. Chỉ riêng với thông số NNH4 tại IP1 (2,2 mg/L), COD tại IP1 (18,6
mg/L) và IP2 (18,1 mg/L) có giá trị cao hơn
mức giới hạn cho phép theo QCVN 10-

MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng
nước ven biển cho nuôi trồng thủy hải sản.
Qua đó, nghiên cứu nhận thấy tình trạng
dinh dưỡng cao tại hai ao TC IP1 và IP2 do
có các thơng số dinh dưỡng cao vượt hơn
mức giới hạn thuận lợi dành cho vùng
nước nuôi tôm ven biển dựa theo QCVN
10-MT:2015/BTNMT [16]. Các giá trị
thơng số này có tác động đến chỉ số chất
lượng nước WQI (Hình 2) nhằm biểu hiện
nên tình trạng của vùng nước khảo sát.

Bảng 3. Kết quả phân tích các thơng số hóa-lý tính của nước
Vị trí
EPB1

EPB2

EPB3

IP1


IP2

IP3

EPA1

EPA2

EPA3

Nhiệt độ
(oC)

30,63

31,23

32,46

31,63

31,86

32,20

36,36

34,78


34,70

pH

7,69

8,06

8,23

8,13

8,23

8,75

8,67

8,40

8,39

24

24

23

15


15

5

14

15

15

12

8,1

13

52

106

19

17

14

12

54


54

81

286

297

81

54

54

28

7,43

4,1

5,8

4,13

5,6

5,9

9,8


8,73

7,26

34

2

13

4

6

500

11

2

50

Thơng số

Độ mặn
(‰)
Độ đục
(NTU)
TSS
(mg/L)

DO
(mg/L)
Tổng Coliform
(MPN/100mL)

Chỉ số chất lượng nước WQI cho thấy
có sự khác nhau về chất lượng nước giữa
ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm
canh. Cụ thể là các ao ni tơm thâm canh

có chất lượng nước thấp hơn đáng kể so
với các ao ni tơm quảng canh tự nhiên
(Hình 2).

46


ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Hình 2. Chỉ số chất lượng nước – WQI
thức ăn mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho
tôm như Coscinodiscus, Gyrosigma,
Nitzschia và Diploneis [15]. Trong khi đó,
các lồi vi khuẩn lam chiếm ưu thế với mật
độ dày đặc tại hai vị trí IP1 và IP2, nơi có
các thơng số dinh dưỡng đều cao vượt mức
cho phép, đồng thời điều này cũng có khả
năng là nguyên do khiến cho thông số TSS

(Bảng 3) cao vượt mức giới hạn cho phép
của QCVN 10-MT:2005/BTNMT [16]. Và
theo như nghiên cứu của Burford (1997) về
tác động của phiêu sinh thực vật trong ao
nuôi tôm, tác giả nhận định vi khuẩn lam
gia tăng mạnh trong ao nuôi giàu dinh
dưỡng sẽ gây suy giảm đa dạng các nhóm
lồi phiêu sinh thực vật khác trong quần xã,
đồng thời dẫn đến tình trạng chất lượng
nước cũng sẽ dần trở nên xấu đi [11]. Như
vậy, nếu xét về phiêu sinh thực vật thì vị trí
IP3 có chất lượng nước thích hợp hơn so
với IP1 và IP2.

Theo thang phân loại của Wilhm và
Dorris (1968), chỉ số đa dạng Shannon –
Wiener (H’) cho thấy hầu hết các vị trí
thuộc ao ni tơm quảng canh tự nhiên đều
có chất lượng nước ở mức khơng bị ơ
nhiễm (Hình 3), riêng vị trí EPA1 là thủy
vực bị ô nhiễm nhẹ (H’ = 0,85). Tuy nhiên
nếu phân tích về thành phần lồi phiêu sinh
thực vật có thể nhận thấy đây là thủy vực
khá phù hợp cho tơm vì chúng có được
nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng
như một số loài phiêu sinh thực vật thuộc
các chi là Coscinodiscus, Nitzschia và
Gyrosigma [14]. Chỉ số H’ cho thấy chất
lượng nước ở mức bị ô nhiễm nhẹ tại IP2 và
IP3, và tại IP1 lại cho thấy nước khơng bị ơ

nhiễm. Nhưng nếu nhìn về góc độ thành
phần và mật độ phiêu sinh thực vật thì
nhóm kh tảo tại IP3 có mật độ cao hơn so
với IP1 và IP2, đáng chú ý là sự có mặt của
những lồi kh tảo đóng vai trị là nguồn

47


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 71 (05/2020)

Hình 3. Chỉ số đa dạng lồi Shannon – Wiener (H’)
Bên cạnh đó, nghiên cứu ghi nhận
được sự hiện diện của sáu chi tảo chỉ thị
cho thủy vực bị ô nhiễm chất hữu cơ theo
Palmer (1969) [4] tại vị trí IP1 gồm:
Cyclotella, Navicula, Euglena, Lepocinclis,
Chlorella và Pandorina, ít hơn so với IP2
một chi tảo là Phacus. Từ đó quy về chỉ số
ơ nhiễm Palmer của IP1 là 14 chỉ thị cho
thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy
vực không bị phú dưỡng hoặc thủy vực có
các yếu tố hay chất gây cản trở đến việc
tồn tại tiếp tục của tảo), IP2 là 16 chỉ thị
cho thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ và có
khả năng sẽ tăng cao.
Liên kết các kết quả thơng số lý - hóa,
chỉ số WQI, thành phần phiêu sinh thực

vật, hai chỉ số sinh học Shannon – Wiener
(H’) và Palmer trong đợt khảo sát tháng
03/2019 chỉ ra rằng các vị trí quảng canh tự
nhiên có chất lượng nước tốt và phù hợp
cho tôm nuôi. Thành phần phiêu sinh thực
vật trong ao cũng thích hợp cho tơm sử
dụng làm nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng.
Trái lại, các vị trí ao thâm canh có chất
lượng nước xấu, trong đó IP2 có chất lượng
nước kém nhất khi liên tục có chỉ số WQI

thấp rơi vào khoảng màu đỏ (Hình 2), các
thơng số như nhu cầu oxy hóa học (COD)
và tổng chất rắn lơ lửng (TSS) đều cao hơn
mức cho phép của QCVN 10MT:2015/BTNMT [16]. Hơn nữa, phiêu
sinh thực vật được ghi nhận có mật độ
nhóm ngành vi khuẩn lam cao nhất so với
các nhóm ngành tảo khác, trong đó có sự
hiện diện của bảy chi tảo chỉ thị cho vùng
nước ô nhiễm chất hữu cơ theo Palmer
(1969) [4] gồm: Cyclotella, Navicula,
Euglena, Lepocinclis, Chlorella, Pandorina
và Phacus. Đồng thời, tình trạng chất lượng
nước của IP1 không tốt hơn IP2 là mấy khi
chỉ số WQI ở khoảng màu vàng (Hình 2) và
các thơng số như COD, N-NH4+, và TSS
cũng đều cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam
QCVN 10-MT:2015/BTNMT [16]. Tuy
nhiên, về mật độ phiêu sinh thực vật có
phần thấp hơn so với IP2 nhưng vẫn cao

hơn rất nhiều so với các vị trí ao quảng
canh tự nhiên và điều quan trọng là nhóm
vi khuẩn lam vẫn là nhóm chiếm ưu thế
nhất. Riêng vị trí ao IP3 có mơi trường nước
ơn hịa tương tự như các vị trí quảng canh
tự nhiên, ngun nhân có thể là do ao nuôi
48


ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

đang trong giai đoạn vừa thả giống (được
ba tuần tính đến thời điểm thu mẫu) ngắn
hơn so với hai ao IP1 và IP2 (đã được nuôi
hơn một tháng tính đến thời điểm thu mẫu).
Do đó, tình trạng dinh dưỡng trong mơi
trường nước ao IP3 cịn rất thấp so với hai
ao cịn lại (Bảng 3).
Tóm lại, tình trạng dinh dưỡng cao
vượt mức cho phép theo QCVN 10MT:2015/BTNMT đang xảy ra tại các ao
ni tơm thâm canh, thêm vào đó sự có
mặt của nhóm tảo mắt cho thấy mơi trường
nước và đáy ao đã có sự ơ nhiễm hữu cơ từ
việc nhiễm bẫn nền đáy ao do thức ăn thừa
mứa và chất thải tôm nuôi lắng đọng ngày
một nhiều và tình trạng này sẽ cịn tiếp tục
tăng lên qua từng giai đoạn ni [14].
Nhóm vi khuẩn lam sẽ có tác động tiêu cực

đến ao ni khi chúng cịn chiếm vị trí ưu
thế trong ao, vì tơm sẽ rất khó tiêu hóa khi
ăn phải lồi tảo này và gây ra bệnh phân
trắng cho tôm [15], đồng thời chất lượng
nước cũng sẽ dần trở nên xấu đi [11]. Hơn

nữa, qua khảo sát thực tế được biết nguồn
nước xả thải của các hộ nuôi thâm canh lại
không được xử lý triệt để trước khi bơm và
xả thải trực tiếp ra các con kênh, rạch, bãi
bồi hay RNM nằm gần đó. Nếu hoạt động
này diễn ra liên tục trong một thời gian dài
rất có khả năng làm cho các vật chất trong
nước thải tồn dư lại mơi trường sơng, kênh
rạch. Qua đó gây ảnh hưởng đến đời sống
của các loài sinh vật ngoài tự nhiên và có
thể khi đó các ao ni tơm quảng canh tự
nhiên cũng không phải là ngoại lệ.
4. Kết luận
Các vị trí ao quảng canh tự nhiên và
IP3 có chất lượng nước tương đối tốt và
thích hợp cho sự phát triển của tơm. Cịn
những ao ni tơm thâm canh (ngoại trừ vị
trí ao IP3) hiện có tình trạng phì dưỡng bởi
sự giàu có mật độ vi khuẩn lam và sự xuất
hiện của nhóm tảo mắt, đồng thời hai thơng
số dinh dưỡng là NH4+ và COD đều cao
vượt ngưỡng giới hạn cho phép theo
QCVN 10-MT:2015/BTNMT.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Forbes, (2020, June 1). Penaeus monodon (giant tiger prawn), Center for Agriculture
and Biosciences International [Online]. Available:
/>
[2]

Sournia, Phytoplankton manual, Paris: UNESCO, 1978.

[3]

E. Shannon and W. Wiener, The mathematical theory of communication, Urbana:
University of Illinois Press, 1949.

[4]

M. Palmer, “A Composite Rating of Algae Tolerating Organic Pollution”, Journal of
Phycology, 5, 78-82, 1969.

[5]

Đặng Thị Hồng Phương và Hà Anh Tuấn. “Hoạt động nuôi tôm tập trung và
chất lượng môi trường nước nuôi tôm tại xã Hải Đông, huyện Hải hậu, tỉnh Nam
Định”, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, 107(7), 31-35, 2013.

[6]

E. Beltrame, C. Bonetti and J. Bonetti Filho, “Pre-selection of areas for shrimp
culture in a subtropical Brazilian lagoon based on multicriteria hydrological

evaluation”, Journal of Coastal Research, 39, 1838-1842, 2006.
49


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 71 (05/2020)

[7]

Huỳnh Phú, “Nghiên cứu đánh giá môi trường chất lượng nước vùng nuôi tôm sú ven
biển Trà Vinh và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững”, Luận án Tiến Sĩ, Đại
học Thủy Lợi, Hà Nội, 2006.

[8]

J. L. Wilhm and T. C. Dorris, “Biological parameters for water quality criteria”,
Bioscience, 8(6), 477-481, 1986.

[9]

J. M. Landwehr and R. A. Deininger, “A Comparision of Several Water Quality
Indexes”, Journal of the Water Pollution Control Federation, 48(5), 954-958, 1976.

[10] J. M. Landwehr, “Water Quality Indices – Construction and Analysis”, PhD thesis,
University of Michigan, 1974.
[11] M. Burford, “Phytoplankton dynamics in shrimp ponds”, Aquaculture Research, 28,
351-360, 1997.
[12] Nguyễn Phú Hòa, Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản, Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2016.

[13] Nguyễn Văn Công, Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Thủy
Sản, Được soạn thảo cho Ngân hàng Thế giới, Washington, DC, 2017.
[14] Nimda Tép Bạc, (1/6/2020). Tảo độc trong ao nuôi tôm và biện pháp quản lý, Nguồn
tepbac.com [Trực tuyến]. Địa chỉ: />[15] Phạm Thanh Lưu, Trần Thành Thái, Nguyễn Thị Mỹ Yến và Ngô Xuân Quảng, “Đa
dạng thực vật phù du trong ao nuôi tôm sinh thái Cà Mau”, Kỷ yếu Báo cáo Khoa
học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 7,
793-800, 2017.
[16] QCVN 10-MT:2015/BTNMT. (2015), Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng
nước biển.
[17] R. M. Brown, N. I. McClelland, R. A. Deininger and R. G. Tozer, “Water quality
index-do we dare?”, Water Sewage Works, 117(10), 339-343, 1970.
[18] T. M. H. Pham, “Development of Water Quality Indices for Surface Water Quality
Evaluation in Vietnam”, Journal of Environmental Engineering, 137, 273-283, 2009.
[19] TCVN 5994: 1995 (ISO 5667–4: 1987) – Tiêu chuẩn Quốc gia về Chất
lượng nước – Lấy mẫu – Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.
[20] Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Trà Vinh, Quyết định Ban hành Kế hoạch Phòng, chống thiên
tai trên địa bàn tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2016 – 2020, Số 791/ QĐ-UBND, 2016.
Ngày nhận bài: 06/12/2019

Biên tập xong: 15/5/2020

50

Duyệt đăng: 20/5/2020



×