VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ẢNH HƯỞNG CỦA TẢO ĐỐI VỚI BỆNH
HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP TÍNH (AHPND) Ở GIAI ĐOẠN ƯƠNG
Đặng Ngọc Thùy1, Lê Hồng Phước1
TĨM TẮT
Mục đích của thí nghiệm này là nhằm đánh giá khả năng ảnh hưởng của tảo đến phát sinh bệnh hoại
tử gan tụy cấp tính (AHPND) trên tơm ở giai đoạn ương. Bố trí 4 nghiệm thức ương con giống tôm
thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) từ trại sản xuất của công ty BIM trong nguồn nước tự nhiên
hoặc xử lý trong điều kiện trong nhà và ngoài trời. Thời gian theo dõi thí nghiệm ương là 30 ngày.
Thu mẫu nước được thực hiện trong suốt thời gian ương, ngồi việc phân tích định tính và định
lượng tảo 3 ngày/lần, các chỉ tiêu thủy lý hóa như pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm, ammonia, nitrit
cũng được kiểm tra. Mẫu tôm cũng được thu định kỳ 3 ngày/lần để kiểm tra bằng phương pháp mô
học. Kết quả cho thấy số lượng loài cũng như mật độ tảo của các bể ni ngồi trời cao hơn trong
nhà và mật độ tảo của nước được xử lý cao hơn nước ao. Sau 16 ngày ương tôm, mật độ tảo silic
chiếm ưu thế đã bị thay thế bởi thành phần tảo lam mà chủ yếu là tảo lam dạng sợi đối với các bể
nuôi trong nhà và thành phần tảo lục đối với các bể ni ngồi trời. Sự hiện diện của tảo trong q
trình ương trong bể composite khơng có liên quan đến việc ghi nhận dấu hiệu bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính.
Từ khóa: tảo, AHPND, giai đoạn ương
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuỷ sản được coi là một trong những mặt
hàng thực phẩm quan trọng nhất, đáp ứng nhu
cầu protein động vật và chất dinh dưỡng cần
thiết cho khoảng 950 triệu người dân trên thế
giới. Cùng với lợi ích kinh tế cao, nhiều quốc
gia đã tăng cường đầu tư vào lĩnh vực thủy sản
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường và đưa ngành nuôi trồng thủy sản trở
thành ngành công nghiệp lớn mạnh. Năm 2004,
Việt Nam là một trong mười quốc gia có ni
trồng thủy sản đứng đầu thế giới với sản lượng
1.228.617 tấn (FAO). Tuy nhiên, năng suất và
sản lượng thủy sản đạt được không chỉ phụ
thuộc vào các yếu tố con giống, kỹ thuật nuôi,
dịch bệnh mà cịn có phụ thuộc vào yếu tố mơi
trường bao gồm các yếu tố thủy hóa, động, thực
vật phù du trong nước.
1
Trong khoảng 50.000 lồi tảo trên thế giới
thì vi tảo chiếm khoảng 2/3. Ngoài chức năng là
những sinh vật sản xuất năng suất sơ cấp trong
thủy vực, vi tảo còn được xem là nguồn thức ăn
tự nhiên quan trọng đối với ấu trùng tôm cá, đặc
biệt là các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Phần
lớn các loài vi tảo đều có lợi, tuy nhiên có nhiều
lồi tảo trong điều kiện mơi trường thích hợp
chúng có thể phát triển với mật độ cao làm biến
đổi màu nước hay còn gọi là hiện tượng “nở
hoa” của nước và gây ra tình trạng thiếu hụt oxy
trong thủy vực. Bên cạnh đó, một số lồi tảo có
khả năng sản sinh độc tố, chúng khơng chỉ gây
hại cho nguồn lợi thuỷ sản nói chung mà còn
ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng
thông qua việc sử dụng các loại thực phẩm thủy,
hải sản đã bị nhiễm độc tố (Larsen J. và Nguyễn
N. L., 2004). Bên cạnh đó, tại các ao ni tơm
Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Ni trồng
Thủy sản 2.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
89
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
thâm canh, việc cho ăn các loại thức ăn nhân tạo
bị dư thừa và sử dụng phân bón dễ dẫn đến hiện
tượng phú dưỡng, là nguyên nhân bùng phát nở
hoa của vi tảo, chủ yếu là nhóm tảo lam. Điều
này có thể được coi là một trong các yếu tố suy
thối mơi trường và có thể gây thiệt hại rất lớn
tới các đối tượng và người nuôi tôm.
ở độ tuổi mà hệ thống miễn dịch đã phát triển
tốt hơn và từ đó làm gia tăng kháng lại các yếu
tố hữu sinh và vô sinh, làm tăng tỷ lệ sống và ổn
định sản lượng. Chính vì vậy thí nghiệm ương
tơm thẻ chân trắng với sự hiện diện của tảo được
thực hiện, nhằm đánh giá khả năng ảnh hưởng
của tảo đến phát sinh hội chứng bệnh hoại tử
gan tụy cấp tính trên tơm.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Hội chứng chết sớm hay còn gọi là hội chứng
hoại tử gan tụy cấp tính (Acute Hepatopancreatic
Necrosis Syndrome - AHPNS) được ghi nhận
2.1. Thời gian, địa điểm và bố trí thí
đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 2009 hơn nghiệm
(Panakorn, 2012), đến năm 2011 tình hình bệnh
- Thí nghiệm ương tôm được tiến hành tại
trở nên trầm trọng ghi nhận tại các nước như
trang trại nuôi tôm của Công ty BIM tại huyện
Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Trước khi tác
Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang
nhân gây bệnh hoại tử gan tụy chưa được xác
- Thời gian 01 tháng từ 28/04/2012 đến
định, thì tảo độc được xem là một trong những
yếu tố làm phát sinh bệnh hoại tử gan tụy cấp 28/05/2012
- Hệ thống ương tơm được bố trí trong nhà
tính. Theo Sturmer và ctv., (1992), Fegan và
Clifford (2001), có thể giảm ảnh hưởng của rủi và ngồi trời như ở bảng 1 với nguồn nước cấp
ro do bệnh trong ao nuôi bằng cách ương tôm vào bể composite được lấy từ ao ương và ao
trong điều kiện sạch khơng có mầm bệnh sau đó ni và con giống lấy từ trại sản xuất của công
thả vào ao nuôi với cỡ tôm đã lớn nhất định và ty BIM.
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm đánh giá vai trị của tảo đối với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính
Nghiệm thức
Mô tả
Số bể
Số tôm
Ghi chú
NT1
Nước ao ương – trong nhà
3
2000
NT2
Nước ao ni – trong nhà
3
2000
NT3
NT4
Nước ao ương – ngồi trời
3
3
2000
2000
Xử lý nước bằng
chlorine
(30ppm)
và BKC (1ppm), bể
ương 4,5m3, thức ăn
Uni-president
Nước ao ni – ngồi trời
2.2. Phương pháp thu và phân tích mẫu
- Mẫu hóa lý: Độ mặn, độ kiềm, ammonia,
nitrit đo hằng ngày, riêng pH và nhiệt độ đo
sáng và chiều. Việc đo mẫu thực hiện trực tiếp
bằng testkit tại khu bể thí nghiệm.
- Mẫu tảo: thu 3 ngày/lần, gồm mẫu định
tính và định lượng và được phân tích trên kính
hiển vi quang học theo phương pháp SMEWW
2005 - 10200 – Plankton tại phịng thí nghiệm
của trang trại – Cơng ty BIM
- Mẫu tôm: thu mẫu 3 ngày/lần để xác định
hội chứng hoại tử gan tụy bằng phương pháp mô
học tại phịng thí nghiệm Trung tâm Quan trắc.
90
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả kiểm tra chất lượng nước
3.1.1. Nhiệt độ
Vào buổi sáng, nhiệt độ của NT1 và NT2
(trong nhà) dao động trong khoảng 26-290C,
trong khi các bể ở ngoài trời thì nhiệt độ cao
nhất có thể lên tới 310C. Đến buổi chiều, các
bể trong nhà nhiệt độ có tăng thêm 10C đến
giá trị cao nhất là 300C thì ở ngoài trời nhiệt
độ tăng thêm 20C, đạt giá trị cao nhất là 330C
ở NT3 và NT4.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hình 1. Diễn biến nhiệt độ trong các bể ương
Có sự chênh lệch nhiệt độ khá rõ rệt và đồng
đều giữa các nghiệm thức được bố trí ngồi trời,
cao hơn 1-20C so với các nghiệm thức trong
nhà. Thêm vào đó, vào những ngày nắng nóng
nhiệt độ đo được vào buổi chiều khoảng chênh
lệch đó là 30C. Ảnh hưởng của nhiệt độ, ánh
sáng trực tiếp và phần chênh lệch nhiệt độ trong
ngày cũng ảnh hưởng phần nào đến phát triển
của tơm.
3.1.2. pH
Khơng có sự biến động đáng kể nào khi so sánh giá trị pH ở 4 nghiệm thức: dao động trong
khoảng 8,3 – 8,5 kể cả vào buổi sáng và buổi chiều. Nhìn chung giá trị pH nằm trong khoảng thích
hợp cho tơm ni phát triển.
Hình 2. Diễn biến pH trong các bể ương
3.1.3. Độ mặn
Độ mặn dao động trong khoảng 8-10 ‰ ở tất cả 4 nghiệm thức. Tuy nhiên, ở NT4 giá trị thấp
nhất có khi ghi nhận là 7‰ là do trong những ngày này (ngày thứ 5 đến ngày thứ 7) trời mưa nhiều
làm cho độ mặn giảm xuống.
TAÏP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
91
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hình 3. Diễn biến độ mặn trong các bể ương
3.1.4. Độ kiềm
Độ kiềm các bể nước ao ương của nghiệm thức NT1 và NT3 cao hơn so với các bể nước ao
nuôi của nghiệm thức NT2 và NT4, đồng thời độ kiềm cả 4 nghiệm thức đều có xu hướng giảm dần
theo thời gian ni.
Hình 4. Diễn biến độ kiềm trong các bể ương
3.1.5. Ammonia
Sự biến động giá trị ammonia cho thấy đây là chỉ tiêu có sự khác biệt tương đối lớn giữa 4
nghiệm thức. Mặc dù 4 nghiệm thức biến thiên không theo quy luật nhất định nhưng cả 4 nghiệm
thức đều ghi nhận giá trị ammonia khá cao, trong đó:
92
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hình 5. Diễn biến hàm lượng ammonia trong các bể ương
NT1: ammonia cao nhất vào ngày thứ 4-6
với giá trị là 1,0 mg/l
NT2: ammonia cao nhất vào ngày thứ 1317 với giá trị là 0,7 mg/l
NT3: ammonia cao nhất vào ngày thứ 4-6
và ngày thứ 30-31 với giá trị là 0,85 mg/l
NT4: ammonia cao nhất vào ngày thứ 2930 với giá trị là 1,35 mg/l
3.1.6. Nitrit
Tương tự như ammonia, giá trị nitrit cũng
có sự biến động rất mạnh và đây là thông số có
sự khác biệt đáng kể nhất trong suốt q trình
thực nghiệm. Có thể khẳng định rằng: việc ni
tơm trong nhà khơng có ánh nắng mặt trời đã
làm cho lượng nitrit rất cao ở NT1 và NT2 (với
giá trị nitrit tăng dần và đạt cao nhất là 5,0 mg/l).
Hình 6. Diễn biến hàm lượng nitrit trong các bể ương
Trong khi đó, với các bể ngồi trời (NT3 và NT4) thì giá trị nitrit thấp hơn rất nhiều, thường
ghi nhận là hàm lượng nitrit < 1,0 mg/l. Ngưỡng nitrit thích hợp cho ni tơm nước lợ là thấp hơn
0,01 mg/l.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
93
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.2. Kết quả kiểm tra tảo
Số loài tảo của các bể trong nhà ghi nhận
được là 36 loài (NT1) và 37 loài (NT2), trong
khi thành phần tảo xuất hiện tại các bể ngoài trời
phong phú hơn với 46 loài (NT3 và NT4).
Ở tất cả các nghiệm thức, lớp tảo silic luôn
chiếm ưu thế với các loài chủ yếu như Cyclotella
sp1., Navicula sp., Nitzschia closterium và
Amphora sp., xếp thứ nhì là tảo lục Oocystis
spp., Dictyosphaerium sp., Scenedesmus spp.,
kế đến là tảo lam Chroococcus giganteus,
Dactylococcopsis sp. và Aphanocapsa sp,
Oscillatoria spp., tảo giáp Gyrodinium sp.,
Protoperidinium spp., và 3 lớp tảo chỉ xuất hiện
một loài duy nhất là tảo mắt Euglena sp., tảo
vàng ánh chỉ thị phèn Dinobryon sertularia và
tảo hai lông Cryptomonas sp.
Về mặt định lượng, đối với các bể trong nhà
NT1 và NT2 mật độ tảo trung bình dao động từ
6.750 cá thể/lít đến 119.633 cá thể/lít, và mật
độ tảo trong nước ao ni (NT2) thấp hơn trong
nước ao ương (NT1) (Hình 7). Trong đó mật độ
tảo silic luôn chiếm ưu thế ở giai đoạn 16 ngày
ương do sự phát triển của loài Cyclotella sp. Tuy
nhiên, 5 đợt thu mẫu tiếp theo mật độ tảo ưu thế
lại là lớp tảo lam trong đó chủ yếu là sự phát
triển của các loài tảo lam dạng sợi khơng có lợi
về mặt dinh dưỡng cho tơm chiếm từ 80% đến
90% mật độ chung, đặc biệt là loài Oscillatoria
sp3. Đồng thời cũng nhận thấy sự phát triển của
các loài tảo lam dạng sợi này có tương quan với
sự tăng nồng độ nitrit trong bể.
Hình 7. Diễn biến mật độ tảo trung bình của các bể trong nhà
Mật độ tảo trung bình của các bể ngồi trời
(NT3 và NT4) cao hơn so với trong nhà, dao
động từ 40.473 cá thể/lít đến 1.213.907 cá thể/
lít (Hình 8). Tương tự các bể trong nhà, mật độ
tảo trung bình trong nước ao ni (NT4) thấp
hơn nước ao ương (NT3). Trong đó, mật độ
tảo silic chiếm ưu thế trong thời gian 27.4 đến
7.5.2012 với sự phát triển chủ yếu của các loài
như Cyclotella sp1., Nitzschia closterium và
Amphora sp., Amphiprora sp., Chaetoceros
mullerii và Chaetoceros sp. Tuy nhiên sau
94
đó mật độ tảo này giảm đáng kể chỉ cịn dưới
10.000 cá thể/lít vào các đợt thu mẫu cuối.
Bên cạnh đó, mật độ của tảo lục thay thế vị trí
dẫn đầu , có dao động từ 50% đến 94% mật độ
chung. Điều này là do sự phát triển đến mức
nở hoa của Chlorella sp., Carteria sp. Oocystis
spp., Scenedesmus sp. và Chlorella sp. (Hình 8).
Bên cạnh đó, mật độ tảo lam cũng chiếm một tỉ
lệ đáng kể từ 2-23% mật độ chung và đạt cao
nhất vào đợt 7 là 184.187 cá thể/lít với mật độ
chủ yếu từ lồi Chroococcus sp.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hình 8. Diễn biến mật độ tảo trung bình của các bể ngồi trời
Hình 9. Gyrodinium sp.
3.3. Kết quả mơ học
Kết quả kiểm tra mô học đều không phát
hiện HPV, WSSV, YHCV và ký sinh trùng.
Đồng thời, các mẫu thu được đều không phát
hiện dấu hiệu hoại tử gan tụy như trường hợp
tơm thu ngồi ao ni với bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính.
3.4. Kết quả kiểm tra tỷ lệ sống và tăng
trọng
Nhìn chung, tơm ni phát triển tốt đến
thu hoạch, tuy nhiên có sự khác biệt rõ rệt về
Hình 10. Oscillatoria sp3.
tỷ lệ sống và tăng trọng khi ương trong bể ương
trong nhà so với ngoài trời.
Các bể ương ngoài trời có trọng lượng trung
bình từ 1,032-1,058 g/con cao hơn nhiều so với
các bể ương trong nhà có trọng lượng trung bình
từ 0,472-0,589 g/con (bảng 2). Tơm ở các bể
trong nhà có sự phân cỡ lớn. Bên cạnh đó, tỷ lệ
sống cũng có sự khác biệt rất lớn, bể ương ngồi
trời có tỷ lệ sống từ 68-80% trong khi bể ương
trong nhà chỉ từ 20-25%.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
95
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 2. Kết quả kiểm tra tỷ lệ sống và tăng trọng tôm ương tại Kiên Giang
Nghiệm thức
Nước ao ương
+ trong nhà
Nước ao ni
+ trong nhà
Nước ao ương
+ ngồi trời
Nước ao ni
+ ngồi trời
96
Kí hiệu bể
Bể 1
Bể 2
Bể 3
Trung bình
Bể 4
Bể 5
Bể 6
Trung bình
Bể 7
Bể 8
Bể 9
Trung bình
Bể 10
Bể 11
Bể 12
Trung bình
Trọng lượng (g)
0,534
0,581
0,653
0,589 ± 0,363
0,538
0,432
0,446
0,472 ± 0,319
1,008
0,967
1,122
1,032 ± 0,457
1,168
0,941
1,065
1,058 ± 0,434
Chiều dài (mm)
40,70
43,00
44,20
42,63 ± 8,75
41,77
38,07
38,03
39,29 ± 8,48
52,40
51,57
54,40
52,79 ± 7,54
55,27
51,43
52,03
52,91 ± 7,76
Tỷ lệ sống (%)
18,7
24,1
17,9
20,2
14,1
37,5
22,8
24,8
57,1
68,5
77,3
67,6
80,7
79,2
79,6
79,8
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Một điểm khác biệt nữa được nhận thấy là
màu sắc tôm, cụ thể là các bể trong nhà, tơm
có màu sáng trong (hình 11 và hình 12), trong
khi bể ngồi trời có màu đậm và tối (hình 13 và
hình 14). Các bể ngồi trời có ánh sáng và mật
độ tảo rất dầy đặc có thể là nguyên nhân tạo nên
sự khác biệt.
IV. KẾT LUẬN
Khơng phát hiện hoại tử gan tuỵ trong q
trình ương, khơng có sự khác biệt đáng kể về
biến động các yếu tố môi trường đã khảo sát
giữa nguồn nước ao ương và nguồn nước ao
nuôi, ngoại trừ sự chênh lệnh rất lớn về hàm
lượng nitrit giữa nghiệm thức trong nhà và
ngoài trời. Các chỉ tiêu chất lượng nước khác
đều nằm trong khoảng thích hợp cho tơm ni.
Nhìn chung, số lượng lồi cũng như mật
độ tảo của các bể ni ngồi trời cao hơn trong
nhà và mật độ tảo của bể nước ao ương cao hơn
nước ao nuôi.
Trong cả 4 nghiệm thức, khoản giai đoạn
từ ngày ương 1 cho đến ngày thứ 16, mật độ tảo
silic chiếm ưu thế, tuy nhiên sau đó thành phần
ưu thế đã thay đổi, đối với các bể nuôi trong
nhà là thành phần tảo lam mà chủ yếu là tảo lam
dạng sợi và các bể nuôi ngoài trời là thành phần
tảo lục.
Sự hiện diện của tảo trong nguồn nước tự
nhiên hoặc được xử lý trong điều kiện trong nhà
hoặc ngồi trời của bể ương khơng có liên quan
đến việc ghi nhận dấu hiệu bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
FAO/NACA,1994. Annex II-3 PEOPLE’S REPUBLIC
OF CHINA, Report on a Regional Study and
Workshop on the Environmental Assessment
and Management of Aquaculture Development,
Fisheries and Aquaculture Department
Fegan, D. F., and Clifford, H. C., III, 2001. Health
Management for viral diseases in shrimp farms.
Pages 168–198 In: Browdy, C. L., and Jory, D.
E., editors. The New Wave, Proceedings of the
Special Session on Sustainable Shrimp Culture,
Aquaculture 2001. World Aquaculture Society,
Baton Rouge, Louisiana, USA.
Larsen J., Nguyễn N.L., (Eds), 2004. Potentially Toxic
Microalgae of Vietnamesewaters. Opera Botanica.
Council for Nordic Publication in Botany, 140, 1216 pp.
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture Asia
Pacific, 8 (1): 8-10.
Sturmer, L.N., Tzachi, M.S., and Addison, L.L., 1992.
Intensification of Penaeid Nursery Systems, p.
321-344. In: Fast, A.W., and Lester, L.J., (Eds).
Marine shrimp culture: principles and practices.
Developments in aquaculture and fisheries
science, volume 23. Elsevier Science Publisher
B.V., The Netherlands.
TAÏP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014
97
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
ASSESSMENT OF THE POSSIBILITY OF MICROALGAE TO INFLUENCE
ON ACUTE HEPATOPANCREATIC NECROSIS DISEASE (AHPND) IN
NURSERY STAGE
Dang Ngoc Thuy1, Le Hong Phuoc1
ABSTRACT
The purpose of this experiment was an assessement of the possibility of microalgae to influence on
Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) on shrimp in nursery stage. Four treatments
were arranged from post larvae (Litopenaeus vannamei) of BIM company in natural or treated
water sources in indoor or outdoor conditions. The experiment was carried out in 30 days. During
stocking period, samples were analysed qualitative and quantitative microalgae in every 3 days as
well as physical and chemical parameters such as pH , temperature, salinity, alkalinity, ammonia,
nitrite. Shrimp samples were checked every 3 days/times by histological methods . Results showed
that the number of species as well as the density of microalgae in outdoor were higher than indoor
and during the first 16 days, density of diatom were dominanted but after replaced by blue-green
microalgae, mainly filamentous cyanobacteria for indoor farming and green microalgae components for outdoor tanks. Moreover, the presence of algae in nursery stage was not related to the
clinical signs of Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND)
Keywords: microalgae, AHPND, nursery stage
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Hảo
Ngày nhận bài: 10/06/2014
Ngày thông qua phản biện: 16/06/2014
Ngày duyệt đăng: 20/6/2014
1
Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2
Email:
98
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 3 - THÁNG 6/2014