Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thực nghiệm mô hình tôm sú - lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.29 KB, 13 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

THỰC NGHIỆM MÔ HÌNH TƠM SÚ - LÚA LN CANH TRÊN VÙNG
ĐẤT PHÈN NHIỄM MẶN Ở HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
Lê Kim Ngọc1*, Nguyễn Hồng Tâm1, Phạm Cơng Lịnh1, Trần Văn Đẹp1, Sơn Ngọc Huyền1,
Hứa Huy Bình1, Nguyễn Thị Thùy Lam1, Nguyễn Thị Cẩm Ngân1

TĨM TẮT
Mơ hình ni tơm sú - lúa luân canh được thực hiện tại xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu
Giang từ năm 2017-2018 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn
vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng
10 đến tháng 2 năm sau. Tơm sú (PL16-PL20) được thuần hóa độ mặn xuống 3‰ và thả ni trong
mơ hình quảng canh (QC) với mật độ 2 con/m2, không cho ăn bổ sung, và mô hình quảng canh cải
tiến (QCCT) thả với mật độ 4 con/m2, có cho ăn bổ sung. Sau 5 tháng ni trong điều kiện độ mặn
thấp (dưới 4‰) và thời tiết nắng nóng, nhiệt độ nước trong ruộng cao (30,2-34,1oC), năng suất tơm
đạt 104,0-128,7 kg/ha/vụ (mơ hình QC) và 228,9-241,2 kg/ha/vụ (mơ hình QCCT). Mặc dù, ở mơ
hình QC lợi nhuận bình qn (13,3 triệu đồng/ha) đạt thấp hơn mơ hình QCCT (20,7 triệu đồng/ha)
nhưng tỷ suất lợi nhuận (1,1) đạt cao hơn so với mơ hình QCCT (0,7). Giống lúa lai BTE1 được
sử dụng để gieo xạ ở vụ Đông Xuân, sau 110 ngày gieo trồng, lúa đạt năng suất từ 4,5-6,5 tấn/ha,
lợi nhuận đạt từ 12,5-23,4 triệu đồng/ha. Như vậy có thể thấy mơ hình ni tơm sú - lúa luân canh
là lựa chọn phù hợp cho vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô, đã tận dụng được nguồn nước
mặn xâm nhập như một tài nguyên quý giá cùng với đất đai đã mang lại thu nhập đáng kể cho người
dân thay vì bỏ đất trống. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả kỹ thuật cũng như hiệu quả về kinh tế cần
quản lý tốt các yếu tố mơi trường và dịch hại.
Từ khóa: đất phèn, Hậu Giang, tôm- lúa, xâm nhập mặn.

I. GIỚI THIỆU
Nuôi tôm sú ln canh với trồng lúa (tơmlúa) là hình thức nuôi tôm khá phổ biến ở Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), được bắt đầu
từ những năm 1970 và phát triển nhanh, nhất
là từ sau năm 2000, khi Chính phủ có Nghị


quyết cho phép chuyển đổi đất sản xuất kém
hiệu quả sang ni trồng thủy sản (Nghị quyết
số 09/2000/NQ-CP). Diện tích nuôi tôm-lúa
năm 2000 là 71.000 ha, đã tăng lên hơn gấp
đơi vào năm 2014 với 152.977 ha. Mơ hình
QCCT tơm-lúa chiếm tỷ lệ cao ở các tỉnh
Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu, đây là mơ
hình địi hỏi đầu tư thấp nhưng hiệu quả đầu
tư cao, bền vững về môi trường (Viện Quản
lý và Phát triển Châu Á-AMDI, 2016). Kết
quả thực nghiệm tại huyện An Minh và An

Biên, tỉnh Kiên Giang cho thấy: (1) Mơ hình
ni tơm sú QC, mật độ 2,5 con/m2, không
cho ăn bổ sung, thời gian nuôi 120 ngày đạt
tỷ lệ sống 35%, kích cỡ thu hoạch 30,5 con/
kg, năng suất tơm 267 kg/ha/vụ, chi phí đầu
tư 16,3 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận đạt 26,4
triệu đồng/ha/vụ; và (2) Mơ hình ni tơm sú
QCCT với mật độ 6,5 con/m2, có cho ăn bổ
sung thức ăn cơng nghiệp, thời gian ni 100
ngày đạt tỷ lệ sống 45,3%, kích cỡ thu hoạch
39,5 con/kg, năng suất tơm 1.164 kg/ha/vụ,
chi phí đầu tư là 71,9 triệu đồng/ha/vụ và
lợi nhuận đạt 91,4 triệu đồng/ha/vụ (Trương
Hồng Minh và ctv., 2013). Kết quả điều tra
mơ hình ni tơm QCCT cho thấy, mật độ
tơm bình qn ở Sóc Trăng là 12,6 con/m2,
Bạc Liêu 6,23 con/m2 và Cà Mau 4,04 con/m2;


Chi cục Thủy sản tỉnh Hậu Giang.
* Email:

1

14

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

năng suất và lợi nhuận trung bình tương ứng
ở Sóc Trăng là 0,83 tấn/ha/năm và 17,5 triệu
đồng/ha/năm, Bạc Liêu là 0,42 tấn/ha/năm và
28,6 triệu đồng/ha/năm, Cà Mau là 0,21 tấn/
ha/năm và 18,9 triệu đồng/ha/năm (Lê Thị
Phương Mai và ctv., 2016).
Hậu Giang là tỉnh nội đồng nằm ở vị trí
trung tâm vùng Tây sơng Hậu của ĐBSCL,
có địa hình trũng thấp, lịng chảo, vừa chịu tác
động mạnh của chế độ triều biển Đông (nhật
triều), lại vừa chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ
triều biển Tây (bán nhật triều). Những năm gần
đây, tỉnh Hậu Giang chịu sự tác động lớn của
biến đổi khí hậu-nước biển dâng, đặc biệt là
năm 2016 tình trạng xâm nhập mặn diễn ra gay
gắt trong mùa khô đã ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và đời sống của nhân dân, nhất là người
dân ở huyện Long Mỹ.

Huyện Long Mỹ nằm phía Tây Nam của
tỉnh và chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi
khí hậu, xâm nhập mặn thời gian qua. Tại một
số xã thuộc huyện Long Mỹ, số liệu đo độ mặn
ghi nhận được cho thấy độ mặn dao động từ 0,27,0 ‰ trong tháng 01/2016 và tăng dần trong
các tháng tiếp theo, độ mặn đạt ngưỡng cao
nhất trong tháng 4-5, dao động trong khoảng
10,0-19,7 ‰, sau đó độ mặn giảm dần khi
chuyển sang mùa mưa (Trạm Thủy lợi huyện
Long Mỹ, 2016). Do đó, trong mùa khơ ở khu
vực ngồi đê bao ngăn mặn, các hộ dân không
thể sản xuất vụ lúa Hè Thu và thường bỏ ruộng
trống. Vì vậy, để khai thác được tiềm năng đất
đai, tận dụng nguồn nước mặn xâm nhập trong
mùa khơ, góp phần tạo việc làm, tăng thêm thu
nhập cho người dân vùng bị nhiễm mặn, mơ
hình tơm-lúa được đề xuất thực hiện tại khu
vực ngồi đê bao ngăn mặn thuộc địa bàn ấp
6, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ. Qua đó,
đánh giá hiệu quả và sự phù hợp của mơ hình

này với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa
khô tại địa phương.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thực nghiệm được triển khai từ năm 20172018 với hai mơ hình trên diện tích 6,1 ha, trong
đó mơ hình ni tơm sú QC ln canh với lúa
(mơ hình QC) trên diện tích 3,25 ha (03 hộ) và
mơ hình ni tơm sú QCCT ln canh với lúa
(mơ hình QCCT) trên diện tích 2,85 ha (03 hộ).
Các mơ hình được triển khai trên 2 vụ gồm:

i) Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng
9 (dương lịch) và ii) Vụ trồng lúa bắt đầu từ
tháng 10 đến tháng 2 năm sau (dương lịch). Mật
độ tôm nuôi trong mô hình QC là 2 con/m2 và
khơng bổ sung thức ăn; trong mơ hình QCCT
là 4 con/m2 và có bổ sung thêm thức ăn; tôm sú
giống cỡ PL16-PL20, chỉ thả giống 01 lần vào đầu
vụ; lúa lai BTE1 được gieo sạ trong cả hai mơ
hình với mật độ 30 kg/ha.
Các chỉ tiêu mơi trường như nhiệt độ, pH,
hàm lượng oxy hịa tan (DO) trong ruộng nuôi
tôm được theo dõi và kiểm tra 1-2 ngày/lần; độ
kiềm, độ trong, độ mặn được theo dõi và kiểm
tra 1 tuần/lần. Độ mặn và nhiệt độ được đo bằng
máy đo độ mặn AZ8602, pH được đo bằng bút
đo pH Hach Pocket Pro, DO và độ kiềm được
đo bằng bộ test-kit, độ trong được đo bằng đĩa
secchi. Định kỳ hàng tháng kiểm tra khối lượng
tôm, mỗi lần 25 cá thể/ruộng. Sản lượng tơm,
lúa, chi phí và thu nhập của vụ tôm và vụ lúa
cũng được theo dõi và ghi nhận.
Ruộng nuôi tôm được thiết kế với mương
bao quanh chiếm khoảng 15-30% diện tích
ruộng, có độ rộng 1,5-3 m, sâu 1,2-1,5 m, bờ bao
cao hơn mặt ruộng 1-1,5 m, mặt bờ rộng 1,5-3
m (Hình 1). Trước khi thả giống, ruộng được cải
tạo, diệt tạp và bón phân gây màu nước.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


15


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 1. Sơ đồ mặt cắt ruộng nuôi tôm.
Tôm sú giống cỡ PL16-PL20 được thuần hóa
độ mặn đến 3‰ tại trại giống và được kiểm dịch
trước khi thả nuôi. Sau 3 tháng nuôi tôm bắt đầu
được thu tỉa, mỗi đợt thu liên tục 2-3 ngày và thu
hoạch toàn bộ sau khoảng 5 tháng ni.
Vụ ni tơm
Sửa chữa, gia cố cơng trình ruộng ni tơm

↓7-10 ngày
Cải tạo ruộng (ngâm rửa thuốc BVTV cịn lại
trên ruộng, sên vét bùn, bón vơi, diệt tạp, gây
màu nước tạo thức ăn tự nhiên)

Ruộng sau khi thu hoạch tôm xong được
tiến hành rửa mặn, làm đất và gieo sạ vụ lúa
Đơng Xn.
Các bước của quy trình kỹ thuật áp dụng cho
từng vụ sản xuất được thực hiện theo sơ đồ sau:
Vụ trồng lúa
Rửa mặn, cải tạo đất (san bằng mặt ruộng,
diệt ốc, bón vơi, bón phân)

↓10-15 ngày


Chọn mua giống, ngâm ủ và gieo sạ

↓ 3-5 ngày

↓ 20-30 ngày

Chăm sóc, quản lý

↓ 3 ngày

Thu hoạch lúa

Chọn mua và thả giống tơm

↓ 105-115 ngày

Chăm sóc, quản lý

↓ 4-6 tháng

Thu hoạch tơm

Số liệu được xử lý và phân tích bằng
thống kê mơ tả (trung bình, độ lệch chuẩn, giá
trị nhỏ nhất và lớn nhất), so sánh sự khác biệt
giá trị trung bình giữa hai mơ hình bằng kiểm
định mẫu độc lập (Independent Sample T-test,
p<0,05) trên phần mềm MS Excel 2010.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi

trường ruộng nuôi tôm
3.1.1. Sự biến động nhiệt độ
Kết quả theo dõi nhiệt độ sáng và chiều ở
16

ruộng nuôi tôm QC và QCCT được trình bày
trong Hình 2 cho thấy, nhiệt độ nước ruộng
nuôi tôm QC dao động từ 30,6-32oC vào buổi
sáng và 32,9-34oC vào buổi chiều; trong ruộng
nuôi tôm QCCT dao động từ 30,2-30,9oC vào
buổi sáng và 32,7-34,1oC vào buổi chiều. Vụ
nuôi tôm diễn ra trong mùa khô với thời tiết
nắng nóng nên nhiệt độ nước trong ruộng ở cả
hai mơ hình đều trên 30oC trong suốt vụ ni.
Theo Boyd (1998), tôm sú sinh trưởng tốt ở
nhiệt độ 25-30oC. Theo Chanratchakool (1995)
nhiệt độ cao hơn 33oC hay thấp hơn 25oC thì

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

khả năng bắt mồi của tôm giảm 30-50%, tôm
sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện cho mầm bệnh
tấn công. Như vậy, nhiệt độ trong cả ruộng nuôi

tôm QC và QCCT đều cao hơn khoảng nhiệt độ
thích hợp cho tơm sinh trưởng, có khả năng ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tơm ni.


Hình 2. Biến động nhiệt độ trung bình trong mơ hình QC (A) và mơ hình QCCT (B).
3.1.2. Sự biến động pH
Yếu tố pH nước ruộng ni tơm trong mơ
hình QC dao động từ 7,5-8,0 vào buổi sáng và
7,9-8,5 vào buổi chiều; trong mơ hình QCCT,
pH buổi sáng nằm trong khoảng 7,3-7,8 và buổi
chiều từ 7,7-8,4 (Hình 3). Nhìn chung, pH trong
cả hai mơ hình biến động khơng đáng kể trong
suốt vụ nuôi, giữa buổi sáng và buổi chiều dao
động không quá 0,5 và có xu hướng tăng dần
vào cuối vụ ni. Trong suốt vụ ni, các ruộng

được định kỳ bón vơi và bón phân để duy trì
lượng thức ăn tự nhiên đã góp phần kiểm sốt
pH nước. Theo Chanratchakool (1995) pH nước
ao nuôi rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến tơm ni, pH thích hợp cho tơm
ni từ 7,5-8,5 và khoảng dao động hàng ngày
không vượt quá 0,5 đơn vị pH. Do đó, pH trong
ruộng ni biến động trong khoảng thích hợp
cho tơm ni.



Hình 3. Biến động pH trung bình trong mơ hình QC (A) và mơ hình QCCT (B).
3.1.3. Sự biến động hàm lượng oxy hịa
tan (DO)
Kết quả đo DO trong các ruộng nuôi tôm
được ghi nhận và trình bày ở Hình 4 cho thấy

DO tương đối thấp vào buổi sáng và tăng lên
vào buổi chiều, số liệu DO ghi nhận được trong
ruộng nuôi tôm QC dao động từ 3,1-4,5 mg/L
vào buổi sáng và 4,9-6,2 mg/L vào buổi chiều;
trong ruộng nuôi tôm QCCT dao động từ 3,14,4 mg/L vào buổi sáng và 4,5-6,2 mg/L vào

buổi chiều. Theo Swingle (1969) hàm lượng
DO trong nước lý tưởng cho ni tơm sú là trên
5 mg/L (trích dẫn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân và
Trương Quốc Phú, 2010) và không vượt quá 15
mg/L (Whetston và ctv., 2002). DO là yếu tố môi
trường quan trọng trong nuôi tôm, ảnh hưởng rõ
rệt đến tỷ lệ sống của tôm nuôi ngay trong 10
ngày đầu vì sau khi thả giống tơm thường bị yếu
hơn do q trình vận chuyển và phải thích nghi
với mơi trường sống mới. Khi thiếu oxy làm vi

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

17


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

khuẩn gây bệnh phát triển, tôm sau lột xác dễ
chết, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Vì vậy,
DO tương đối thấp vào buổi sáng trong suốt vụ

ni ở cả hai mơ hình QC và QCCT đã phần
nào ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống

của tơm ni.

Hình 4. Biến động DO trung bình trong mơ hình QC (A) và mơ hình QCCT (B).
3.1.4. Sự biến động độ trong
Kết quả ở Hình 5 cho thấy, trong tháng đầu
tiên độ trong trong mô hình QC dao động từ 32,432,5 cm và mơ hình QCCT dao động từ 38,640,8 cm, sau đó trong cả hai mơ hình độ trong
giảm nhiều, dao động trong khoảng 24,5-29,5 cm
ở mơ hình QC và 24,6-28,8 cm ở mơ hình QCCT.

Theo Trương Quốc Phú (2006), độ trong thích
hợp cho nuôi tôm là từ 30-45 cm. Như vậy, độ
trong ở cả hai mơ hình tương đối thấp, độ trong
giảm từ tháng nuôi thứ 2 trở đi là do khoảng thời
gian này có xuất hiện nhiều đợt mưa lớn, nước
mưa rửa trôi các vật chất từ trên bờ xuống làm
giảm độ trong của nước trong ruộng.

Hình 5. Biến động độ trong trung bình trong mơ hình QC và QCCT.
3.1.5. Sự biến động độ mặn và độ kiềm
Kết quả theo dõi độ mặn trong ruộng ni
tơm QC và QCCT ở Hình 6 (A) cho thấy độ
mặn bình qn trong ruộng ni tơm QC dao
động từ 0,5-3,3‰ và ruộng nuôi tôm QCCT dao
động từ 0,4-3,6‰. Độ mặn biến động theo xu
hướng giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm,
độ măn đạt rất thấp vào các tháng cuối vụ, độ
mặn đã giảm thấp hơn 3‰ từ sau tháng nuôi
đầu tiên và gần như ngọt hồn tồn vào tháng
ni thứ năm, do thời điểm này lượng mưa ngày
càng nhiều làm cho độ mặn trong ruộng giảm

18

thấp. Theo Yake và ctv., (2001) độ muối tối ưu
cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm là 1525‰. Chanratchakool và ctv., (2003) cho rằng
tôm nuôi ở nồng độ muối thấp thì bệnh ít xảy ra,
nhưng độ muối không nhỏ hơn 7‰. Nếu nồng
độ muối thấp hơn sẽ làm tơm bị cịi, mềm vỏ, tỷ
lệ sống thấp, khi tơm đạt trọng lượng từ 10-12
g thì có thể ni ở nồng độ muối thấp mà ít ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng. Kết quả nghiên cứu
của Đoàn Xuân Diệp và ctv., (2009) cho rằng có
thể ni tơm sú trong khoảng độ mặn 3-35‰, ở
độ mặn 3‰ tăng trưởng của tơm nhanh hơn so

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

hưởng đến sinh trưởng, phát triển và tỷ lệ sống
của tôm nuôi trong mơ hình.

với ở các độ mặn 15‰, 25‰, 35‰ nhưng tỷ lệ
sống thấp. Như vậy, có thể thấy độ mặn trong
ruộng ni tơm QC và QCCT giảm thấp sẽ ảnh

Hình 6. Biến động độ mặn (A) và độ kiềm (B) trung bình trong mơ hình QC và QCCT.
Hình 6 (B) cho thấy độ kiềm trong mơ hình
QC dao động từ 64-94 mgCaCO3/L và mơ hình
QCCT dao động từ 58-102 mgCaCO3/L. Độ

kiềm biến động theo xu hướng tương tự như độ
mặn, giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm.
Theo Nguyễn Mỹ Hoa và ctv., (2010) thì khi
độ mặn nước ao thấp trong điều kiện ao nuôi
trên nền đất phèn đã làm cho các ion gây chua
phóng thích từ đất phèn trung hòa carbonate và
bicarbonate làm giảm độ kiềm; độ kiềm thấp
trong ao nuôi đã ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp đến sinh trưởng của tôm nuôi, làm tôm
mềm vỏ. Trần Văn Hòa và ctv., (2002) cho rằng
độ kiềm để tôm sú sống được phải cao hơn 20
mg CaCO3/L, độ kiềm tối ưu để tôm phát triển
tốt là 80-120 mg CaCO3/L. Do đó, trong suốt vụ
ni, các ruộng ni tơm được bón vơi định kỳ

7-15 ngày/lần để nâng độ kiềm đạt khoảng thích
hợp cho tơm, tuy nhiên vào các tháng cuối vụ
nuôi, độ mặn nước trong ruộng giảm quá thấp
nên chỉ có thể duy trì độ kiềm trong khoảng 5870 mg CaCO3/L.
3.2. Kết quả vụ nuôi tôm
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy trong hai tháng
đầu, khối lượng trung bình của tơm ni trong
mơ hình QC cao hơn mơ hình QCCT, từ tháng
thứ 3 đến tháng thứ 5 thì tơm trong mơ hình
QCCT có khối lượng trung bình cao hơn mơ
hình QC. Tuy nhiên, sự chênh lệch về khối
lượng trung bình của tơm ở 2 mơ hình QC và
QCCT từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 4 là khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), chỉ
đến tháng thứ 5 thì khối lượng trung bình của

tơm mới khác biệt có ý nghĩa (p<0,05).

Bảng 1. Khối lượng tơm trong mơ hình QC và QCCT qua 5 tháng nuôi.
Khối lượng tôm QC (g/con)

Khối lượng tôm QCCT (g/con)

Thời gian
nuôi

GTTB ± SD(*)

Cao nhất

Thấp nhất

GTTB ± SD(*)

Cao nhất

Thấp nhất

Tháng thứ 1

5,93 ± 2,54a

10,53

1,73


5,21 ± 2,21a

10,90

2,23

Tháng thứ 2

9,41 ± 2,53a

15,70

5,90

8,97 ± 3,33a

16,03

4,37

Tháng thứ 3

14,32 ± 3,96a

23,87

8,80

14,4 ± 4,87a


24,10

7,50

Tháng thứ 4

15,99 ± 3,96a

25,20

10,40

16,86 ± 4,81a

26,83

9,20

Tháng thứ 5

17,27 ± 3,84a

25,67

10,13

19,75 ± 4,34b

27,47


11,43

Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

19


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Sau 90 ngày ni, tơm trong mơ hình QC và
QCCT có khối lượng cao nhất lần lượt đạt 23,87
g/con và 24,1 g/con, tương ướng với 41,96 con/
kg và 41,81 con/kg. Tại thời điểm này tơm sú
trên thị trường có giá cao nên các hộ ni tiến
hành thu tỉa những tơm đạt kích cỡ từ 40-50
con/kg. Việc thu tỉa được duy trì cho đến cuối
vụ nuôi với tần suất 2 đợt/tháng, mỗi đợt thu từ
2-3 ngày theo con nước. Sau 120 ngày ni kích
cỡ tơm thu tỉa bình qn đạt 39,7 con/kg ở mơ
hình QC và 37,3 con/kg ở mơ hình QCCT, thấp
hơn kết quả điều tra của Lê Thị Phương Mai và

ctv., (2016), thời gian bắt đầu thu tỉa tơm ni
QCCT ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau trung
bình là 121 ngày với kích cỡ tơm thu tỉa bình
qn đạt 33,6 con/kg. Tăng trưởng của tơm
trong hai mơ hình QC và QCCT thấp chủ yếu

là do độ mặn trong ruộng giảm thấp hơn 3‰
chỉ sau tháng nuôi đầu tiên, hơn nữa tại thời
điểm đó nước mặn ngồi sơng cũng có độ mặn
thấp, dưới 2,5‰ sau ngày 05/5/2017 (Trạm
Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2017) nên việc cấp
thêm nước mặn hay thay nước cho ruộng ni
đều rất hạn chế.

Bảng 2. Năng suất và kích cỡ thu hoạch tơm ni trong mơ hình QC và QCCT.
Năng suất (kg/ha)
Mơ hình

GTTB ± SD
(*)

Tỷ lệ sống (%)

Thu hoạch

Cao
nhất

Thấp
nhất

GTTB ± SD
(*)

Cao
nhất


Thấp
nhất

Mơ hình QC

115,1 ± 12,5a 128,7

104,0

27,2 ± 8,5a

36,9

21,6

Mơ hình QCCT

237,0 ± 7,0b

241,2

228,9

22,5 ± 18,7a

43,2

6,8


Ghi chú: (*) giá trị trung bình ±

Kích cỡ
(con/kg)

Tỷ lệ
(%)

35 - 40

64,2

40 - 50

35,8

35 - 40
40 - 50

88,6
11,4

độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Kết quả trình bày ở Bảng 2 cho thấy, tỷ
lệ sống bình qn của tơm trong mơ hình QC
(27,2%) cao hơn trong mơ hình QCCT (22,5%).
Ngun nhân có sự chênh lệch về tỷ lệ sống của
tơm có thể là do mơ hình QCCT có mật độ ni

cao gấp đơi mơ hình QC, trong khi một số yếu
tố mơi trường không thuận lợi cho sự phát triển
của tôm, đồng thời tơm ở mơ hình QCCT xuất
hiện bệnh ở 2/3 ruộng dẫn đến hao hụt nhiều
hơn làm cho tỷ lệ sống trung bình của tơm trong
mơ hình QCCT thấp hơn ở mơ hình QC. Tuy
nhiên, tỷ lệ sống của tơm ở hai mơ hình khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Năng
suất tơm ni trong mơ hình QC đạt bình quân
115,1 kg/ha, hộ đạt cao nhất là 128,7 kg/ha và
thấp nhất là 104 kg/ha; trong mơ hình QCCT
năng suất bình quân đạt 237,0 kg/ha, cao nhất là
241,2 kg/ha và thấp nhất là 228,9 kg/ha. Năng
suất tơm bình qn của hai mơ hình khác biệt
20

có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này cũng
hợp lý vì mơ hình QCCT có mật độ thả nuôi cao
gấp 2 lần mật độ tôm thả ni trong mơ hình
QC, trong khi khối lượng bình quân và tỷ lệ
sống chênh lệch không đáng kể. So với mơ hình
ni tơm QC và QCCT tại một số tỉnh ở vùng
ĐBSCL cho thấy kết quả của nghiên cứu này
cao hơn kết quả điều tra ở Cà Mau, với mật độ
thả ni bình qn 4,04 con/m2, năng suất bình
qn đạt 210 kg/ha/năm (Lê Thị Phương Mai và
ctv., 2016); nhưng thấp hơn kết quả thực nghiệm
và điều tra tại huyện An Minh và An Biên, tỉnh
Kiên Giang năm 2011-2012, với thực nghiệm
nuôi tôm QC, mật độ nuôi 2,5 con/m2 đạt tỷ lệ

sống 35%, năng suất 267 kg/ha và kết quả điều
tra mơ hình tơm-lúa với mật độ tơm ni trên
3 con/m2 có cho ăn đạt năng suất 336 kg/ha/vụ
và khơng cho ăn chỉ đạt 114 kg/ha/vụ (Trương
Hoàng Minh và ctv., 2013). Nhìn chung, tỷ lệ

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

sống và năng suất tôm nuôi trong cả hai mô tăng trưởng và tỷ lệ sống của tơm; ngồi ra, các
hình đạt được thấp, nguyên nhân chủ yếu là do ruộng nuôi xuất hiện nhiều cá tạp, cạnh tranh
tại thời điểm thực hiện (năm 2017, 2018) các không gian sống, cạnh tranh thức ăn với tôm và
yếu tố môi trường không thuận lợi cho sự sinh có khả năng ăn tơm khi lột xác.
Tỷ lệ tơm đạt kích cỡ 35-40 con/kg đạt cao
trưởng và phát triển của tôm, nhiệt độ luôn ở
o
mức cao 30,2-34,1 C, độ mặn giảm xuống dưới hơn ở mô hình QCCT với 88,6% so với mơ
3‰ và độ trong giảm xuống dưới 30 cm kể từ hình QC chỉ đạt 64,2%; tôm cỡ 40-50 con/kg
sau tháng nuôi đầu tiên và độ kiềm ở các tháng đạt 35,8% ở mô hình QC và 11,4% ở mơ hình
cuối cũng giảm xuống dưới 80 mg CaCO3/L; QCCT (Bảng 2). Yếu tố này cũng tác động đến
q trình ni tơm có xuất hiện một số bệnh như thu nhập của mơ hình.
đóng rong, mòn phụ bộ, đỏ thân cũng làm giảm
Bảng 3. Hạch tốn kinh tế vụ ni tơm trong mơ hình QC và QCCT.
ĐVT

Mơ hình QC

triệu đồng/ha

%
%
%
%
%
kg/ha/vụ
1.000 đồng/
kg
1.000 đồng/
kg
triệu đồng/ha
%
%
triệu đồng/ha

Chỉ tiêu
Tổng chi
- Chi phí cố định (đã tính khấu hao)
- Tơm giống
- Thức ăn
- Vật tư (vơi, phân, thuốc, hóa chất,…)
- Nhiên liệu
Năng suất
Giá thành
Giá bán
Tổng thu
- Tôm
- Thủy sản khác (tép, cá…)
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC)


Mơ hình QCCT

a

12,2 ± 2,5
7,7
19,7
0
64,4
8,2
115,1 ± 12,5a

30,9 ± 6,3b
3,8
15,5
25,1
51,0
4,6
237,0 ± 7,0b

105,4 ± 11,0a

130,6 ± 26,1a

201,2 ± 5,1a

203,4 ± 1,4a

25,5 ± 3,4a

91,1
8,9
13,3 ± 1,8a
1,1 ± 0,2a

51,6 ± 1,8b
93,3
6,7
20,7 ± 5,8a
0,7 ± 0,3a

Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Kết quả ở Bảng 3 cho thấy tổng chi phí và lợi
nhuận của mơ hình QC lần lượt là 12,2 triệu đồng
và 13,3 triệu đồng, thấp hơn mơ hình QCCT là
30,9 triệu đồng - 20,7 triệu đồng. Tỷ suất lợi nhuận
của mơ hình QC (1,1) cao hơn 1,6 lần so với mơ
hình QCCT (0,7), cho thấy trong cùng điều kiện
hạn chế về các yếu tố môi trường (nền đất phèn,
độ mặn thấp, nhiệt độ cao) thì mơ hình QCCT địi
hỏi phải đầu tư cao hơn ở mơ hình QC nhưng hiệu
quả đạt được lại thấp hơn, tuy nhiên sự khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả thực

nghiệm mơ hình ni tơm QC (mật độ 2,5 con/m2)
của Trương Hoàng Minh và ctv., (2013) tại huyện
An Biên, Kiên Giang cho thấy tổng chi (16,3 triệu
đồng), lợi nhuận (26,4 triệu đồng) và tỷ suất lợi

nhuận (1,8) đều cao hơn trong nghiên cứu này.
Kết quả điều tra của Lê Thị Phương Mai và ctv.,
(2016) thì mơ hình ni tơm QCCT tại 3 tỉnh (Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau) có bình qn tổng chi
(41,3 triệu đồng), lợi nhuận (21,3 triệu đồng) cao
hơn kết quả trong nghiên cứu này, nhưng tỷ suất
lợi nhuận đạt thấp hơn (0,5).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

21


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Khi xét đến cơ cấu chi phí thì khoản chi
mua vơi, phân, thuốc, hóa chất chiếm tỷ trọng
rất cao, 64,4% ở mơ hình QC và 51,0% ở mơ
hình QCCT. Kết quả này cao hơn kết quả thực
nghiệm của Trương Hoàng Minh và ctv., (2013)
với khoản chi phân, thuốc, hóa chất chỉ chiếm
25,2% ở mơ hình QC và 12,5% ở mơ hình
QCCT. Ngun nhân chi phí vơi, phân, thuốc,
hóa chất cao là do ruộng nuôi trên nền đất phèn
cộng thêm độ mặn thấp trong suốt vụ ni nên
cần tăng cường bón vơi để điều chỉnh độ pH

và độ kiềm, do vậy đã làm tăng chi phí cho vụ
ni. Về tỷ lệ chi phí thức ăn trong mơ hình
QCCT chiếm 25,1%, thấp hơn nghiên cứu của

Trương Hoàng Minh và ctv., (2013) với 49%.
3.3. Kết quả vụ lúa Đông Xuân
Sau vụ nuôi tôm, ruộng được rửa mặn và
chuẩn bị đất gieo sạ vụ lúa Đông Xuân. Với
giống lúa lai BTE1 (giống lúa của tập đồn
Bayer) thì sau 110 ngày gieo sạ, lúa được thu
hoạch và kết quả được trình bày ở Bảng 4.

Bảng 4. Hạch tốn kinh tế vụ lúa Đơng Xn trong mơ hình lúa tơm QC và QCCT.
Chỉ tiêu

ĐVT

Tổng chi
- Chi phí cải tạo đất
- Chi phí giống
- Chi phí phân bón
- Chi phí thuốc BVTV
- Chi phí chăm sóc và thu hoạch
- Chi phí nhiên liệu
Năng suất
Giá thành
Giá bán
Tổng thu
- Lúa
- Thu khác (bán rơm)
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC)

triệu đồng/ha

%
%
%
%
%
%
tấn/ha/vụ
đồng/kg
đồng/kg
triệu đồng/ha
%
%
triệu đồng/ha

Mô hình
Mơ hình
QC
QCCT
a
15,3 ± 2,8
17,2 ± 2,6a
4,0
7,2
22,3
19,3
14,6
20,0
21,1
25,3
36,2

25,5
1,8
2,7
a
6,5 ± 1,7a
4,5 ± 1,5
3.413 ± 483a 2.570 ± 199a
5.800 ± 529a 5.733 ± 426a
27,6 ± 6,0a 40,7 ± 10,0a
93,6
96,2
6,4
3,8
a
12,5 ± 3,3
23,4 ± 7,7a
0,8 ± 0,1a
1,4 ± 0,3a

Bình quân
16,1 ± 2,7
5,7
20,7
17,5
23,3
30,5
2,3
5,5 ± 1,8
2.992 ± 568
5.767 ± 446

34,1 ± 10,3
95,2
4,8
18,0 ± 8,0
1,1 ± 0,3

Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Năng suất lúa của vụ Đông Xuân trong hệ
thống tôm-lúa luân canh đạt bình quân 5,5 tấn/
ha. Kết quả này tương đương đến cao hơn năng
suất lúa trong hệ thống tôm lúa ở các tỉnh Sóc
Trăng (5-6 tấn/ha), Bạc Liêu (4,5-6 tấn/ha), Cà
Mau (4-4,2 tấn/ha), Kiên Giang và Trà Vinh
(4-5 tấn/ha) (Viện Quản lý và Phát triển Châu
Á, 2016). Khi so sánh giữa vụ lúa Đơng Xn
trong mơ hình QC và QCCT thì năng suất lúa ở
mơ hình QCCT (6,5 tấn/ha) đạt cao hơn ở mơ
hình QC (4,5 tấn/ha). Sự chênh lệch về năng
22

suất tương đối lớn ở hai mơ hình là do một số
ruộng ở mơ hình QC bị ảnh hưởng bởi rầy nâu,
bệnh đạo ôn, đốm vằn, lem lép hạt làm giảm
năng suất. Tuy vậy, sự khác biệt về năng suất
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Chi phí sản xuất lúa Đơng Xn bình qn
là 16,1 triệu đồng/ha, trong đó, chi phí ở mơ
hình QC (15,0 triệu đồng/ha) thấp hơn ở mơ

hình QCCT (17,2 triệu đồng/ha) nhưng khác
biệt khơng có ý nghĩa (p>0,05). So với kết quả
điều tra của Đỗ Văn Xê (2010) về mơ hình lúa

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

tơm năm 2008 tại huyện Gị Quao, Kiên Giang, sóc tốt đồng ruộng, kịp thời phát hiện và xử lý
vụ lúa Đông Xuân có chi phí bình qn (14,5 bệnh hại, chi phí phân bón, thuốc BVTV vì vậy
triệu đồng/ha) thấp hơn trong nghiên cứu này, cũng cao hơn.
Với thu nhập 40,7 triệu đồng/ha thì vụ trồng
chỉ bằng 84-96,3%.
Xét về cơ cấu chi phí thì chi phí phân bón lúa trong mơ hình QCCT đã đem lại lợi nhuận
bình quân trong nghiên cứu này chiếm 17,5%, là 23,4 triệu đồng/ha và tỷ suất lợi nhuận là 1,4,
thấp hơn trong nghiên cứu của Đỗ Văn Xê cao hơn so với vụ trồng lúa trong mơ hình QC
(2010) với chi phí phân bón vụ Đơng Xuân ở cho lợi nhuận là 12,5 triệu đồng/ha và tỷ suất lợ
mơ hình 2 lúa chiếm 30,1% (6,0 triệu đồng/ha). nhuận là 0,8. Tuy nhiên, lợi nhuận và tỷ suất lợi
Điều này cho thấy khi nuôi tôm luân canh trên nhuận giữa hai mơ hình khác biệt khơng có ý
ruộng lúa, chất thải vụ nuôi tôm để lại đã góp nghĩa thống kê (p>0,05).
Xét đến hiệu quả kinh tế của tồn hệ thống
phần giảm lượng phân bón cho vụ lúa. Theo
logic này thì mơ hình QCCT với mật độ tôm tôm – lúa (Bảng 5) cho thấy, ở mô hình QC chi
ni cao hơn và có bổ sung thức ăn sẽ có lượng phí đầu tư 27,2 triệu đồng/ha, doanh thu 53,0
bùn thải nhiều hơn và chi phí phân bón cho vụ triệu đồng/ha và lợi nhuận 25,8 triệu đồng/ha,
lúa cũng sẽ giảm hơn nhưng thực tế ghi nhận thấp hơn so với mơ hình QCCT với chi phí,
chi phí phân bón vẫn chiếm tỷ lệ (20%) cao hơn doanh thu và lợi nhuận tương ứng là 48,2 triệu
ở mơ hình QC (14,6%). Qua ghi nhận thực tế, đồng/ha, 92,3 triệu đồng/ha và 44,1 triệu đồng/
trong thời gian gieo trồng vụ lúa Đơng Xn ha và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

năm 2017 có nhiều ruộng quanh khu vực thực Như vậy, với mức đầu tư cao hơn, mơ hình
nghiệm bị ảnh hưởng bởi rầy nâu, bệnh vàng QCCT đã mang lại lợi nhuận tương ứng cũng
lùn, đạo ôn, đốm vằn, lem lép hạt nhưng một số cao hơn, tuy nhiên về hiệu quả đầu tư thì mơ
hộ ở mơ hình QC chưa quan tâm chăm sóc đồng hình QCCT (tỷ suất lợi nhận 0,94) có phần thấp
ruộng đúng mức, không quản lý tốt dịch hại nên hơn so với mơ hình QC (tỷ suất lợi nhuận 0,95)
khơng kịp thời phát hiện và phịng ngừa bệnh nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê
hại; trong khi các hộ ở mơ hình QCCT chăm (p>0,05).
Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của mơ hình lúa - tơm QC và QCCT.
Chỉ tiêu
Năng suất tơm (kg/ha/vụ)
Năng suất lúa (tấn/ha/vụ)
Chi phí lúa - tôm (triệu đồng/ha)
Doanh thu lúa - tôm (triệu đồng/ha)
Lợi nhuận lúa - tôm (triệu đồng/ha)
Tỷ suất lợi nhuận lúa - tơm (LN/TC)

Mơ hình QC
115,1 ± 12,5
4,5 ± 1,5a
27,2 ± 5,3a
53,0 ± 9,2a
25,8 ± 4,4a
0,95 ± 0,12a

a

Mơ hình QCCT

Bình quân


237,0 ± 7,0
6,5 ± 1,7a
48,2 ± 8,8b
92,3 ± 10,4b
44,1 ± 2,0b
0,94 ± 0,13a

176 ± 67,3
5,5 ± 1,8
37,7 ± 13,2
72,7 ± 23,2
35,0 ± 10,5
0,94 ± 0,11

b

Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Nhìn chung, với năng suất tơm bình quân
176 kg/ha/vụ và năng suất lúa đạt 5,5 tấn/ha
trong vụ Đông Xuân đã mang lại doanh thu, lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận lần lượt là 72,7 triệu
đồng - 35,5 triệu đồng/ha - 0,94. Như vậy có

thể nói trong điều kiện xâm nhập mặn như thời
gian qua trên địa bàn nghiên cứu, việc đưa tôm
sú vào nuôi luân canh với trồng lúa là một trong
những giải pháp ứng phó với tình trạng biến đổi
khí hậu đang diễn ra ngày càng gay gắt và phức


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

23


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

tạp, có thể giúp nơng dân chuyển đổi mơ hình
sản xuất để thích ứng với xâm nhập mặn, góp
phần tăng thêm thu nhập trên cùng một đơn vị
diện tích đất canh tác. Do đó, việc phát triển mơ
hình ln canh tơm sú-lúa là xu hướng tất yếu
cho vùng bị xâm nhập mặn, đồng thời cũng phù
hợp với định hướng phát triển của ngành nhằm
thực hiện Quyết định số 79/QĐ-TTg ngày 18
tháng 01 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia
phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025
và Quyết định 3475/QĐ-BNN-TCTS ngày 30
tháng 8 năm 2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn phê duyệt Đề án tổng thể phát
triển ngành công nghiệp tôm nước lợ Việt Nam
đến năm 2030. Theo đó, chỉ tiêu phân bổ cho
tỉnh Hậu Giang đến năm 2025 là 500 ha nuôi
tôm nước lợ QC, QCCT.
IV. KẾT LUẬN
Nuôi tôm sú ở mơ hình QC (mật độ 2 con/
2
m và khơng cho ăn bổ sung) đạt năng suất

104,0-128,7 kg/ha/vụ, lợi nhuận bình qn 13,3
triệu đồng/ha, thấp hơn mơ hình QCCT (mật độ
4 con/m2 và có cho ăn bổ sung) với năng suất
228,9-241,2 kg/ha/vụ, lợi nhuận bình quân 20,7
triệu đồng/ha. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận ở mơ
hình QC (1,1) cao hơn ở mơ hình QCCT (0,7).
Giống lúa lai BTE1 thích hợp với vùng
đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô, năng suất
vụ Đông Xuân dao động từ 4,5-6,5 tấn/ha, lợi
nhuận đạt từ 12,5-23,4 triệu đồng/ha.
Mơ hình ni tơm sú ln canh với trồng
lúa phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn
vào mùa khơ. Mơ hình đã tận dụng được nguồn
nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý
giá cùng với đất đai đã mang lại thu nhập đáng
kể cho người dân thay vì bỏ đất trống trong mùa
khơ. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả kỹ thuật
cũng như hiệu quả về kinh tế cần quản lý tốt các
yếu tố môi trường, dịch hại.

24

LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu là một phần của dự án khoa
học cấp tỉnh “Xây dựng và phát triển mơ hình
tơm – lúa ln canh trên vùng đất phèn nhiễm
mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang”. Nhóm
tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Hậu Giang đã cấp kinh phí thực
hiện; cảm ơn Ban Lãnh đạo Sở Nông nghiệp

và PTNT đã quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện
thuận lợi để triển khai dự án; cảm ơn Phịng
Nơng nghiệp và PTNT và Trạm khuyến nông
huyện Long Mỹ, UBND xã Lương Nghĩa đã
phối hợp tốt trong quá trình triển khai thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đỗ Văn Xê, 2010. So sánh hiệu quả kinh tế của
hai mơ hình canh tác nơng nghiệp tại huyện Gị
Quao, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, 2010:13, 120-125.
Đoàn Xuân Diệp, Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn
Thanh Phương, 2009. Ảnh hưởng của độ mặn lên
điều hòa áp suất thẩm thấu và tăng trưởng của tơm
sú (Penaeus monodon). Tạp chí khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, 2009:11, trang 206 – 216.
Lê Thị Phương Mai, Võ Nam Sơn, Dương Văn Ni và
Trần Ngọc Hải, 2016. Đánh giá tác động của biến
đổi khí hậu và giải pháp ứng phó trong mơ hình
tơm sú quảng canh cải tiến ở Đồng bằng sơng
Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần
Thơ, 2016:42a, trang 28-39.
Nguyễn Mỹ Hoa, Tạ Văn Phương và Phan Thanh
Bằng, 2010. Khảo sát tính chất mơi trường
đất, nước của mơ hình ni tơm sú (Penaeus
monodon) kết hợp với lúa, màu trên vùng đất
phèn nhiệm mặn ở Hậu Giang. Phần I: Tính chất
mơi trường nước. Tạp chí khoa học Trường Đại
học Cần Thơ, 2010:16b, trang 80-87.
Trạm Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2016. Báo cáo diễn

biến tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn huyện
Long Mỹ từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2016,
Hậu Giang.
Trạm Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2017. Báo cáo diễn

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
biến tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn huyện
Long Mỹ từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2017,
Hậu Giang.
Trần Văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm,
2002. Kỹ thuật nuôi thâm canh tôm sú. Tái bản
lần thứ 2. 101 câu hỏi thường gặp trong sản xuất
nông nghiệp. Nhà xuất bản Tuổi trẻ, 2002, 122
trang, trang 8-53.
Trương Hoàng Minh, Trần Hoàng Tuân và Trần Trọng
Tân, 2013. So sánh hiệu quả sản xuất của hai mơ
hình tơm sú - lúa ln canh truyền thống và cải
tiến ở tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, 2013:28b, trang 143-150.
Trương Quốc Phú, 2006. Giáo trình Quản lý chất
lượng nước. Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Cần Thơ. 201p.
Viện Quản lý và Phát triển Châu Á, 2016. Hiện trạng
phát triển tôm-lúa vùng ĐBSCL. 74 trang, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
Boyd, C.E., 1998. Water Quality for Pond
Aquaculture. Research and Development Series

No. 43 August 1998. International Center

for Aquaculture and Aquatic Environments
Alabama Agriculture Experiment Station Auburn
University, Auburn, Alabama. 37p.
Chanratchakool, P., 1995. White patch disease of
black tiger shrimp (Penaeus monodon). AAHRI
Newsletter. 4, 3.
Chanratchakool, P., J.F., Turnbull, S.J., FungeSmith, I.H., Macrae and C., Limsuwan, 2003.
Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản
lần 4. Người dịch: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn
Thanh Phương, Đặng Thị Hoàng Oanh và Trần
Ngọc Hải. Danida-Bộ Thủy sản 2003. 153p.
Whetstone, J.M., G.D., Treece, C.L.B. and A.D.,
Stokes, 2002. Opportunities and Constrains in
Marine Shrimp Farming. Southern Regional
Aquaculture Center (SRAC) publication
No.2600 USDA.
Yake, W.M., T.B., Ratnayate, R.M.T.K and
Edirisinghe, 2001. Experiment culture of tiger
shrimp (Penaeus monodon) in low salinity
enviroment in Srilanka. Asian Fisheris Forum,
Kaohsing (Taiwan).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020

25


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


TRIAL THE SHRIMP - RICE ROTATIONAL FARMING MODEL
ON SALINE – AFFECTED ACID SULPHATE SOILS
IN LONG MY DISTRICT, HAU GIANG PROVINCE
Le Kim Ngoc1*, Nguyen Hoang Tam1, Pham Cong Linh1, Tran Van Dep1, Son Ngoc Huyen1,
Hua Huy Binh1, Nguyen Thi Thuy Lam1, Nguyen Thi Cam Ngan1
ABSTRACT
The shrimp-rice rotational farming model was carried out in Luong Nghia commune, Long My
district, Hau Giang province between 2017 and 2018 to evaluate the efficiency and suitability of
this model on saline – affected acid sulphate soils during the dry season. Shrimp farming crop
began from March to September, and the rice crop practiced between October and February of
the following year. Black tiger shrimp (Penaeus monodon) (PL16-PL20) was domesticated salinity
until approximately of 3‰, and shrimp stocked in the extensive system (ES) with a density of 2
PL/m2, without feeding supplements and in the improved-extensive system (IES) with a density
of 4 PL/m2 and adding feed during production cycle. After 5 months of grow-out farming in low
salinity conditions (≤ 4‰) and hot weather, high temperature of pond water in the rice-fields (30.2
– 34.1oC), shrimp yield reached 104.0 – 128.7 kg/ha/crop in ES and 228.9 – 241.2 kg/ha/crop in
IES. Although average profit of the ES (13.3 million VND/ha) was lower than that of the IES (20.7
million VND/ha), its the cost benefit ratio (1.1) was higher than that of the IES (0.7). BTE1 hybrid
rice seeds were used to sow in the rice crop, after 110 days of planting, the rice yield was 4.54 –
6.49 tons/ha, the profit was 12.5 – 23.4 million VND/ha. Thus, it demonstrates that the shrimp-rice
rotational farming model could be an appropriate choice for saline – affected acid sulfate soil in
the dry season; the water-saline intrusion source that is a valuable natural resource and an available
local rice field source are exploited, and it contributes significant income for local people, instead
of empty rice-fields in this season. However, in order to bring the technical efficiency as well as
economic efficiency, it is required good management measurements of environmental factors and
pests.
Keywords: acid sulphate soil, Hau Giang, salinity intrusion, shrimp – rice.

Người phản biện: PGS. TS. Võ Nam Sơn


Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm

Ngày nhận bài: 02/4/2020

Ngày nhận bài: 02/4/2020

Ngày thông qua phản biện: 30/4/2020

Ngày thông qua phản biện: 29/4/2020

Ngày duyệt đăng: 25/5/2020

Ngày duyệt đăng: 25/5/2020

Hau Giang Fisheries Department.
* Email:

1

26

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020



×