VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
THỰC NGHIỆM NUÔI THÂM CANH TÔM SÚ
(Penaeus monodon) KẾT HỢP CÁ NÂU (Scatophagus argus)
Ở CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU
Hoàng Thị Thanh Nga1, Lý Văn Khánh1*
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định mật độ cá nâu thích hợp trong mơ hình ni kết hợp với tơm sú. Thí
nghiệm được bố trí hồn tồn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức mật độ cá nâu (i) 0 con/m3(đối chứng),
(ii) 8 con/m3, (iii) 12 con/m3. Tôm sú được nuôi kết hợp ở tất cả các nghiệm thức với mật độ 40 con/
m3, mỗi thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Bể thí nghiệm có thể tích 0,5m3, độ mặn 10‰, khối lượng
tơm trung bình ban đầu là 0,39g, cá nâu có khối lượng ban đầu17,1g. Sau 90 ngày ni, các yếu tố
mơi trường nước nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của tôm sú và cá nâu. Kết quả cho
thấy, tơm sú đạt kích cỡ trung bình 2,97-5,98g/con, tỷ lệ sống 90-100% và sinh khối 114-239g/m3.
Khối lượng tôm sú ở nghiệm thức đối chứng (không thả cá nâu) là cao nhất (5,98g) nhưng khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (5,29g). Tỷ lệ sống của
tôm ở nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú là thấp nhất (90%). Tuy nhiên, khác biệt khơng có ý nghĩa
thống kê (p>0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Như vậy, trong nghiên cứu này nuôi kết hợp cá nâu
với tôm sú ở mật độ 8 cá nâu+40 tôm sú trên bể 0,5 m3 cho thấy sự tăng trưởng tốt nhất cho tơm sú
lẫn cá nâu.
Từ khóa: ni kết hợp, mật độ, tăng trưởng, Penaeus monodon, Scatophagus argus
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, các mơ hình ni thủy sản kết hợp
đang được nghiên cứu và phát triển nhằm nâng
cao hiệu quả của mơ hình. Theo Tạ Văn Phương
và ctv., (2006), nghiên cứu mơ hình ni kết hợp
sị huyết trong ao ni tơm sú cho thấy khả năng
làm sạch môi trường và hấp thu vật chất hữu
cơ rất lớn. Nguyễn Thanh Thảo và ctv., (2006),
mơ hình ni kết hợp cá rơ phi trong ao tôm
sú bước đầu cho kết quả tốt hơn về chất lượng
nước so với nuôi đơn, các yếu tố thủy lý hóa ổn
định và sự phát triển của tảo thích hợp cho sinh
trưởng của tôm nuôi. Cá nâu được nuôi phổ biến
trong các mơ hình quảng canh kết hợp với các
đối tượng khác ở vùng nước lợ (Nguyễn Thanh
Phương và ctv., 2005). Trong các đối tượng nuôi
kết hợp hiện nay thì cá nâu là đối tượng có nhiều
triển vọng trong ni ghép với tơm sú ở các mơ
hình quảng canh cải tiến và mơ hình tơm rừng.
Việc đưa cá nâu vào ni rộng rãi sẽ góp phần
làm đa dạng đối tượng nuôi, giảm áp lực lên
1
*
đối tượng tôm sú, đồng thời làm tăng tính hiệu
quả và bền vững cho ni trồng thủy sản. Chính
vì vậy, nghiên cứu “Thực nghiệm ni thâm
canh tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp cá nâu
(Scatophagus argus) ở các mật độ khác nhau”
được thực hiện.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Thời gian và địa điểm
Thí nghiệm được thực hiện từ 15/03/2016
đến 15/06/2016 tại trại thực nghiệm của Khoa
Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí hồn toàn ngẫu
nhiên với 3 nghiệm thức. Mỗi nghiệm thức
được lặp lại 3 lần.
- Nghiệm thức 1: 0 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tôm sú/m3
- Nghiệm thức 2: 8 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tôm sú/m3
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
- Nghiệm thức 3: 12 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tơm sú/m3
Thí nghiệm được thực hiện trong bể có thể
tích 0,5 m3với độ mặn nước 10‰ và được sục khí
liên tục. Tơm sú bố trí thí nghiệm có kích cỡ trung
bình 0,39 g/con và cá nâu có khối lượng trung
bình 17,1 g/con. Thời gian thí nghiệm là 3 tháng.
Tơm sú và cá nâu được cho ăn 3 lần/ngày.
Cá nâu được cho ăn trước bằng thức ăn cá dạng
viên nổi hiệu Grobest (28% đạm) với lượng
thức ăn dao động từ 5-15% khối lượng thân,
tôm sú được cho ăn bằng thức ăn tôm sú hiệu
Grobest (40-42 % đạm). Trong suốt q trình
ni siphon đáy và thay nước định kỳ tháng/lần.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Các yếu tố thủy lý hóa gồm: Nhiệt độ và
pH được đo 15 ngày/lần bằng máy hiệu HANA
2 buổi/ngày (lúc 7h00 và 14h00); NO2-, TAN và
độ kiềm được đo bằng test SERA 15 ngày/lần.
Khối lượng và chiều dài chuẩn của tôm sú
và cá nâu trước khi bố trí thí nghiệm được cân
và đo ngẫu nhiên 20 con tôm sú và 20 con cá
nâu để tính trung bình cho các nghiệm thức. Kết
thúc thí nghiệm tơm sú và cá nâu được cân, đo
từng cá thể trong từng bể của mỗi nghiệm thức.
Tỷ lệ sống của tôm sú và cá nâu được xác định
khi kết thúc thí nghiệm.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng
(g/ngày) = (W1-W2)/T
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt về khối lượng
(%/ngày)= 100 x (LnW2-LnW1)/T
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài
(cm/ngày) = (L1-L2)/T
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt về chiều dài
(%/ngày) = 100 x (LnL2-LnL1)/T
Trong đó: W1: khối lượng tôm, cá ban đầu (g);
W2: khối lượng tôm, cá lúc thu mẫu (g);
L1: chiều dài tôm, cá ban đầu (cm);
L2: chiều dài tôm, cá lúc thu mẫu (cm)
T: Số ngày nuôi
Tỉ lệ sống (%) = 100 x (số cá thể cuối/số
cá thể ban đầu)
Sinh khối (kg/m3) = tổng khối lượng/1 m3
nước ni (g/m3)
2.3. Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu thu thập ở các nghiệm thức được
tính tốn giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng
phần mềm Excel phiên bản 2010, so sánh sự
khác biệt trung bình giữa các nghiệm thức bằng
phép thử Ducan thông qua phần mềm SPSS
16.0 ở mức ý nghĩa (p<0,05).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường nước
Từ kết quả Bảng 1 cho thấy, các yếu tố thủy
lý giữa các nghiệm thức ít biến động. Trong thí
nghiệm này nhiệt độ trung bình buổi sáng và
chiều dao động trong khoảng 27,4-29,5oC, pH
buổi sáng và chiều dao động trong khoảng 8,368,75 ở các nghiệm thức trong suốt q trình
ni. Theo Boyd và Fast (1992), nhiệt độ thích
hợp cho tơm dao động trong khoảng 25-30oC,
pH trong khoảng 7-9. Chanratchakool et al.,
(1995), cho rằng nhiệt độ cao hơn 33oC hay thấp
hơn 25oC thì khả năng bắt mồi của tôm giảm
30-50%, tôm sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện
cho mầm bệnh tấn cơng. Vì thế, các yếu tố thủy
lý trong thí nghiệm này vẫn trong phạm vi thích
hợp cho sự phát triển của tơm cá nuôi.
Bảng 1. Các yếu tố thủy lý trong thời gian thí nghiệm
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tơm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Nhiệt độ (oC)
7 giờ
14 giờ
27,6±0,14
29,5±0,37
27,5±0,04
29,5±0,17
27,4±0,08
29,1±0,15
Hàm lượng nitrite trung bình ở các nghiệm
thức dao động khoảng 0,10-0,52 mg/L có xu
hướng tăng dần theo mật độ cá, TAN dao động
20
pH
7 giờ
8,39±0,03
8,38±0,01
8,36±0,01
14 giờ
8,74±0,04
8,75±0,03
8,73±0,04
trong khoảng 0,12-0,36 mg/L và độ kiềm 118119 mg CaCO3/L (Bảng 2). Theo Boyd (1998),
hàm lượng nitrite cho phép trong ao ni thủy
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
sản khơng vượt quá 10 mg/L (tốt nhất là nhỏ
hơn 2 mg/L). Chanratchakool (2003) và Boyd
(1998) cho rằng hàm lượng TAN thích hợp cho
ao nuôi tôm là 0,2-2 mg/L. Theo Chen et al.,
(1998), chỉ ra rằng nồng độ TAN gây chết 50%
trong 48 giờ ở lồi tơm khác nhau nằm trong
khoảng 30-110 mg/L. Độ kiềm trong phạm vi
20-400 mg/L là phù hợp cho các ao nuôi thủy
sản (Boyd, 1998). Tuy nhiên, theo Vũ Thế Trụ
(2001), thì độ kiềm tốt nhất cho tơm sú phát
triển trong khoảng 80-150 mg CaCO3/L. Nhìn
chung, tất cả các yếu tố thủy lý hóa trong thí
nghiệm đều nằm trong khoảng giới hạn thuận
lợi cho tôm và cá phát triển.
Bảng 2. Các yếu tố thủy hóa trong thời gian thí nghiệm
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Độ kiềm (mg/L)
118±5,91
119±1,48
118±1,48
3.2. Tăng trưởng của cá nâu sau 3 tháng nuôi
3.2.1. Tăng trưởng về khối lượng của cá nâu
Cá nâu với kích cỡ cá giống ban đầu trung
bình là 17,1g được thả vào ni ghép với tôm
sú ở các mật độ khác nhau. Sau 3 tháng nuôi kết
hợp, khối lượng cá tăng rất nhanh ở hầu hết các
nghiệm thức và đạt khối lượng trung bình dao
động 38,9-42,3 g/con. Qua kết quả Bảng 3 cho
thấy, nghiệm thức 8 cá nâu+40 tơm sú có khối
lượng 42,3±2,87 g/con và tốc độ tăng trưởng
TAN (mg/L)
0,12±0,04
0,36±0,43
0,17±0,04
NO2- (mg/L)
0,10±0,04
0,36±0,31
0,52±0,49
nhanh nhất (0,280 g/ngày và 1,004 %/ngày)
khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so
với nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú (0,243 g/
ngày và 0,911 %/ngày). Tốc độ tăng trưởng của
cá nâu có xu hướng tăng khi giảm mật độ ni.
Ngun nhân là do khi mật độ cá tăng lên thì
khơng gian cá sống trong môi trường bị thu hẹp
lại đồng thời có sự cạnh tranh thức ăn với nhau,
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
cá dẫn đến tăng trưởng kém hơn.
Bảng 3. Tăng trưởng về khối lượng của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Khối lượng
Ban đầu
3 tháng
a
17,1±0,00
42,3±2,87a
17,1±0,00a
38,9±3,38a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá ở
thí nghiệm này cao hơn nghiên cứu của Lý Văn
Khánh và ctv., (2010), ni cá nâu ở độ mặn
10‰ thì tốc độ tăng trưởng tuyệt đối 0,03g/ngày
và tốc độ tăng trưởng đặc biệt 0,35 %/ngày. Tốc
độ tăng trưởng này cũng cao hơn kết quả nghiên
cứu của Hoàng Nghĩa Mạnh (2010), nghiên cứu
ảnh hưởng của thức ăn và mật độ lên sinh trưởng
và tỷ lệ sống của cá nâu tại Thừa Thiên Huế, sau
6 tháng ni có tốc độ trung bình 0,078-0,090
g/ngày.
Tốc độ tăng trưởng khối lượng
Tuyệt đối (g/ngày)
Đặc biệt (%/ngày)
a
0,280±0,032
1,004±0,074a
0,243±0,038a
0,911±0,097a
3.2.2. Tăng trưởng về chiều dài của cá
Chiều dài trung bình của cá sau 3 tháng nuôi
dao động 8,72-8,98 cm (Bảng 4). Nghiệm thức
8 cá nâu+40 tơm sú có chiều dài trung bình cao
nhất 8,98 cm và có tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất (0,009 cm/ngày và 0,105%/ngày) khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú. Tốc độ tăng
trưởng về chiều dài của cá nâu sau 3 tháng nuôi ở
các nghiệm thức dao dộng 0,006-0,017cm/ngày
(0,071-0,192 %/ngày). Tốc độ tăng trưởng về
chiều dài thấp nhất là nghiệm thức 12 cá nâu+40
tôm sú (0,006 cm/ngày và 0,071 %/ngày) khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (0,009 cm/
ngày, 0,105 %/ngày). Kết quả này thấp hơn so
với nghiên cứu của Hoàng Nghĩa Mạnh (2010),
nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn và mật độ lên
tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu tại Thừa
Thiên Huế có tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về
chiều dài trung bình 0,030-0,033 cm/ngày.
Bảng 4. Tăng trưởng về chiều dài của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
(con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Chiều dài
Ban đầu
3 tháng
a
8,17±0,00
8,98±0,18a
8,17±0,00a
8,72±0,38a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
3.3. Tăng trưởng của tôm sú sau 3 tháng nuôi
3.3.1. Tăng trưởng về khối lượng của tôm sú
Tốc độ tăng trưởng của tơm sú ở các nghiệm
thức được trình bày ở Bảng 5. Khối lượng PL45
ban đầu là 0,39 g/con, sau 3 tháng ni khối
lượng trung bình của tơm dao động 2,97-5,98
g/con. Nghiệm thức đối chứng (0 cá nâu+40
tôm sú) có khối lượng trung bình cao nhất 5,98
Tốc độ tăng trưởng chiều dài
Tuyệt đối (cm/ngày) Đặc biệt (%/ngày)
a
0,009±0,002
0,105±0,023a
0,006±0,004a
0,071±0,050a
g/con và đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất
0,062±0,001 g/ngày (3,033±0,023 %/ngày) khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm
thức 12 cá nâu+40 sú (0,029 g/ngày và 2,248 %/
ngày) nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa thống
kê (p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm
sú (0,054 g/ngày và 2,836 %/ngày). Khối lượng
trung bình và tốc độ tăng trưởng thấp nhất là
nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú nhưng khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú.
Bảng 5. Tăng trưởng về khối lượng của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
(con/m )
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
3
Khối lượng
Ban đầu
3 tháng
a
0,39±0,00
5,98±0,12b
0,39±0,00a 5,29±2,23ab
0,39±0,00a
2,97±0,37a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Theo Yang Yi và Kenvin (2005), trọng
lượng trung bình tơm đạt từ 12,3-16,6 g/con ở
mơ hình ni ghép cá rơ phi với tơm trong ao
thâm canh có nồng độ muối thấp sau khoảng
58-75 ngày nuôi. Kết quả nghiên cứu của Tiền
Hải Lý (2006), nuôi tôm sú thâm canh (20 con/
m2) ghép với cá rô phi nuôi trong lồng cho kết
quả khối lượng tôm đạt 29,5 g/con sau 4,5 tháng
nuôi. Như vậy, so với các nghiên cứu trên thì
kết quả nghiên cứu này tơm sú có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn do điều kiện nuôi trong bể.
3.3.2. Tăng trưởng về chiều dài của tôm
22
Tốc độ tăng trưởng khối lượng
Tuyệt đối (g/ngày) Đặc biệt (%/ngày)
0,062±0,001b
3,033±0,023b
0,054±0,025ab
2,836±0,444b
0,029±0,004a
2,248±0,143a
Qua Bảng 6 cho thấy, sau 3 tháng nuôi tốc
độ tăng trưởng về chiều dài của tơm dao dộng
0,032-0,052 cm/ngày (0,602-0,860 %/ngày).
Trong đó nghiệm thức đối chứng có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất (0,052 cm/ngày và 0,860 %/
ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
so với nghiệm thức 12 cá nâu+40 sú (0,032 cm/
ngày và 0,602 %/ngày) nhưng khác biệt khơng
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm
thức 8 cá nâu+40 tôm sú. Tốc độ tăng trưởng
chiều dài tôm nhỏ nhất là ở nghiệm thức 12 cá
nâu+40 tôm sú (0,032 cm/ngày và 0,602 %/
ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so
với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (0,047 cm/
ngày và 0,79 %/ngày).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 6. Tăng trưởng về chiều dài của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Chiều dài
Tốc độ tăng trưởng chiều dài
Nghiệm thức (con/m3)
Ban đầu
3 tháng
Tuyệt đối (cm/ngày)
Đặc biệt (%/ngày)
a
b
b
0 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00
8,61±0,22
0,052±0,002
0,860±0,029b
a
ab
ab
8 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00
8,19±1,15
0,047±0,013
0,797±0,151b
12 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00a
6,83±0,33a
0,032±0,004a
0,602±0,054a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
3.4. Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu
sau 3 tháng nuôi
Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu thu
hoạch ở các nghiệm thức được trình bày ở Bảng
7. Cá nâu ni kết hợp với tôm sú trong nghiên
cứu này đạt tỷ lệ sống sau 3 tháng nuôi là 100%
ở tất cả các nghiệm thức. Kết quả tỷ lệ sống của
nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên
cứu của Lý Văn Khánh (2010), ni cá nâu ở
độ mặn 10‰ có tỷ lệ sống 94,6% và nghiên
cứu của Nguyễn Thị Ngọc Anh (2014), sử dụng
rong bún (Enteromopha sp.) làm thức ăn cho cá
nâu đạt tỷ lệ sống 87,5-88,8%. Tỷ lệ sống của
cá nâu cao là do cá giống lúc thả nuôi có kích cỡ
lớn (17,1 g/con) và điều kiện mơi trường nuôi
thuận lợi cho sự phát triển của cá nâu.
Bảng 7. Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Tỷ lệ sống (%)
100±0,00a
100±0,00a
Sinh khối (g/m3)
338±22,9a
467±40,5b
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Sinh khối của cá nâu ở các nghiệm thức
trung bình dao động 338-467g/m3 khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức.
Nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú (467±40,5g/
m3) đạt sinh khối lớn nhất và sinh khối thấp nhất
là ở nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (338±22,9g/
m3). Sinh khối của cá đạt được phụ thuộc vào mật
độ thả cá, tốc độ tăng trưởng, khối lượng của cá
lúc thu hoạch và tỷ lệ sống của cá nuôi.
thả cá nâu) cao nhất (100%) cao hơn so với
các nghiệm thức có thả cá nhưng sự khác biệt
này khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Như
vậy, mật độ cá nâu thả ghép khác nhau trong
thí nghiệm khơng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống
của tôm nuôi. Theo kết quả điều tra của Trương
Hồng Minh và ctv., (2003), trong mơ hình ni
tơm thực nghiệm với mật độ thấp (1,65 con/
m2) trên ruộng lúa ở huyện Mỹ Xuyên,tỉnh Sóc
Trăng tỷ lệ sống của tôm đạt từ 83-94%. Theo
3.5. Tỷ lệ sống và sinh khối của tôm sú
Nguyễn Văn Vượng (2003), tỷ lệ sống tôm
sau 3 tháng nuôi
sau 125 ngày nuôi đạt 58,8-65,5%. Yang Yi và
Tỷ lệ sống trung bình của tơm ở các nghiệm F.Kevin (2005), nghiên cứu nuôi ghép cá rô phi
thức khá cao dao động 90-100% (Bảng 8). Tỷ lệ trong mơ hình ni tơm sú thâm canh tỷ lệ sống
sống của tôm sú ở các nghiệm thúc nuôi kết hợp của tơm ở mơ hình ni ghép cá rơ phi và tôm
với tôm sú ở các mật độ thả cá khác nhau khác thâm canh (30 con/m2) sau 65-75 ngày ni tỷ
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ lệ lệ sống đạt từ 59-79%. So với kết quả trên, tỷ lệ
sống của tôm ở nghiệm thức đối chứng (không sống ở các nghiệm thức này khá cao.
Bảng 8. Tỷ lệ sống và sinh khối của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Tỷ lệ sống (%)
100±0,00a
90,0±10,0a
95,0±8,66a
Sinh khối (g/m3)
239±4,69b
186±60,6ab
114±23,5a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Sinh khối của tôm sú sau 3 tháng nuôi
dao động từ 114-239 g/m3. Nghiệm thức đối
chứng (không thả cá nâu) đạt sinh khối cao nhất
(239±4,69g/m3) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm
sú nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm
sú. Sinh khối thấp nhất là nghiệm thức 12 cá
nâu+40 tơm sú (114±23,5g/m3) khác biệt khơng
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm
thức 8 cá nâu+40 tôm sú. Sinh khối của tôm sú
ở các nghiệm thức này khác biệt chủ yếu là do
tốc độ tăng trưởng và cỡ của tôm lúc thu hoạch
ở các nghiệm thức.
Từ kết quả này cho thấy có thể ni ghép
cá nâu với mật độ 8 con/m3 nhằm tăng thêm thu
nhập trong cùng 1 diện tích mà khơng làm ảnh
hưởng đến tơm sú.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
Các yếu tố thủy lý hóa trong thí nghiệm đều
nằm trong khoảng giới hạn thuận lợi cho tôm sú
và cá nâu phát triển.
Tốc độ tăng trưởng của tôm sú ở nghiệm
thức nuôi ghép với 8 con cá nâu/m3 tốt nhất
không khác biệt so với nghiệm thức không nuôi
ghép với cá nâu.
Tỷ lệ sống của tôm không khác nhau giữa
các mật độ nuôi ghép cá nâu.
Sinh khối của tôm sú ở nghiệm thức nuôi
ghép với 8 con cá nâu/m3 cao nhất không khác
biệt so với nghiệm thức không nuôi ghép với
cá nâu.
Cá nâu không ảnh hưởng đến tăng trưởng và
tỷ lệ sống của tôm sú trong mơ hình ni ghép.
Có thể ni ghép tơm sú với 8 con cá nâu/m3
nhằm tăng thêm thu nhập trong cùng 1 diện tích.
4.2. Đề xuất
Cần bố trí ni ghép tơm sú với cá nâu
ngồi ao để kiểm chứng lại kết quả thực nghiệm
trên bể từ đó có thể triển khai ứng dụng rộng rãi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Châu Tài Tảo, Huỳnh Hàn Châu và Nguyễn Thanh
Phương, 2006. Ảnh hưởng của chế độ thay nước
24
lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm
sú (Penaeus monodon). Tạp chí Khoa học Số
đặc biệt Chuyên đề Thủy sản (Quyển 1), Trường
Đại học Cần Thơ. Trang: 268-274.
Dương Thị Nga, 2009. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus,
1766) ở đầm phá Thừa Thiên Huế, Luận văn
cao học, chuyên ngành sinh học, Trường Đại
học Khoa học Huế.
Lý Văn Khánh, Trần Ngọc Hải, Đỗ Thị Thanh
Hương và Nguyễn Thanh Phương, 2010.Nghiên
cứu một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của cá nâu
(Scatophagus argus) ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ. 186-194.
Ngơ Thành Toàn, 2003. Khảo sát một số đặc điểm
sinh học cá nâu (Scatophagus argus). Luận văn
tốt nghiệp đại học, Khoa Thủy sản, Trường Đại
học Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Phương, Dương Nhựt Long và Lý
Văn Khánh, 2005. Mơ hình ni thủy sản kết
hợp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyển
tập hội thảo tồn quốc về nghiên cứu và ứng
dụng khoa học cơng nghệ trong nuôi trồng thủy
sản ngày 22-23/12/2004 tại Vũng Tàu. Nhà xuất
bản Nơng Nghiệp TP. Hồ Chí Minh, 299-313.
Nguyễn Thanh Phương, Võ Thành Tiếm, Trần Thị
Thanh Hiền, Phạm Trần Nguyên Thảo và Lý
Văn Khánh, 2004. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học dinh dưỡng và sinh sản cá nâu (Scatophagus
argus). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ. 51-59 .
Phạm Văn Tình, 2003. Kỹ thuật nuôi tôm sú. NXB
Nông Nghiệp. 55 trang.
Tạ Văn Phương, Trương Quốc Phú, 2006. Thử
nghiệm ni sị huyết (Anadara granosa)
trong ao nước tĩnh. Tạp chí Khoa học, Trường
Đại học Cần Thơ.192-200.
Tiền Hải Lý, 2006. Thực nghiệm nuôi kết hợp cá
rơ phi đỏ đơn tính trong ao ni tơm sú thâm
canh ở Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học,Trường
Đại học Cần Thơ 2006 (2): 187-191.
Trần Ngọc Hải, Lê Quốc Việt, Trần Minh Nhứt, Lý
Văn Khánh và Tạ Văn Phương ,2015. Ứng dụng
Biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) với mật độ khác nhau kết hợp với
cá rô phi (Oreochromis niloticus). Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Cần Thơ, 44-52.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Võ Thành Tiếm, 2004. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học cá nâu (Scatophagus argus). Luận văn thạc
sĩ, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Võ Thị Cầm, 2009. Thực nghiệm nuôi cá nâu
(Scatophagus argus) trong bể ở các độ mặn
khác nhau. Luận văn đại học, Khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ
Vũ Thế Trụ, 1994. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại
Việt Nam. NXB Nông Nghiệp.
Tài liệu tiếng Anh
Boyd, C.E., 1998. Water quality in ponds for
aquacuture. Research and Development, series
No. 43. International Center for aquaculture
& aquatic environment.Alabama agricultural
experiment station, Auburn University.
THE INTENSIVE FARMING PRACTICE OF BLACK TIGER
SHRIMP (Penaeus monodon) INTEGRATED WITH SPOTTED
SCAT (Scatophagus argus) AT DIFFERENT DENSITIES
Hoang Thi Thanh Nga1, Ly Van Khanh1*
ABSTRACT
The study aims to determine the appropriate density of spotted scat in integrated culture model with
black tiger shrimp. The experiment was set up randomly with 4 treatments and 3 plicates following
as the spotted scat densities of (i) 0 con/m3(control), (ii) 8 con/m3 and (iii) 12 con/m3. Black tiger
shrimp was integrated in all treatments with a density of 40 fish/m3. Experiment tanks were 0.5m3
in volume, salinity 10‰, while the average shrimp weight was 0.39 g/ind. and the initial weight
of spotted scat was 17.1 g/ind. After 90 days of culture, the water quality parameters were in the
suitable range for the growth of black tiger shrimp and spotted scat. Results showed that the average size of shrimp reached 2.97-5.98 g/ind, survival rate was ranged from 90-100% and biomass of
114-239 g/m3. In which the weight of shrimp in the control treatment (no spotted scat) was highest
(5.98 g), but was not statistically significant (p>0.05) compared to the treatments 8 spotted scats+40
black tiger shrimps (5.29 g). Survival rate of black tiger shrimps in treatments 8 spotted scats plus
40 black tiger shrimps was the lowest (90%), but was not statistically significant (p>0.05) compared
with 3 other treatments. Thus, culture spotted scat integrated with black tiger shrimp in tank of 0.5
m3 at the density of 8 spotted scats plus 40 black tiger shrimps results in the best growth for both
black tiger shrimp and spotted scat.
Keywords: density, integrated culture, growth, Penaeus monodon, Scatophagus argus
Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
1
*
College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
25