Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
Trường Đại học Nha Trang
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
BỆNH HOẠI TỬ THẦN KINH Ở CÁ BIỂN NI TẠI KHÁNH HỊA
1
1
ThS. Trần Vĩ Hích , KS. Phạm Thị Dun
Khoa Ni trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
Virus hoại tử thần kinh (VNN) đã lan rộng ở khắp nơi trên thế giới với số lượng loài cá biển cảm
nhiễm ngày một gia tăng (Munday và Nakai 1997). Cá nhiễm virus này có biểu hiện bất ổn về thần
kinh như: bơi bất thường, màu sắc cơ thể chuyển sang trắng xám.
Chúng tôi đã phát hiện những dấu hiệu bất thường, tương tự với dấu hiệu bệnh hoại tử thần kinh ở
cá biển nuôi thương phẩm (cá mú - Epinephelus spp, cá chẽm - Lates calcarifer và cá giò -Rachycentron
canadum) tại Khánh Hòa và đã gây ra tỉ lệ chết cho cá nuôi cao. Kết quả kiểm tra mô bệnh học ở
những cá hấp hối cho thấy sự có mặt của các khơng bào hình trịn hoặc hình oval ở mắt và não cá
bệnh với kích cỡ thay đổi từ 4-30µm. Điều này khẳng định sự có mặt của virus gây bệnh hoại tử thần
kinh ở cá biển ni tại Khánh Hịa.
I. MỞ ĐẦU
bởi nhiều tác giả, tuy nhiên đến nay vẫn chưa
Bệnh hoại tử thần kinh (VNN - viral
nervous necrosis) hay cịn gọi là bệnh não và
có thơng báo nào về vấn đề này. Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm khẳng định tình
võng mạc (VER - viral encephalopathy and
vetinopathy) do piscine nodavirus (Betanodavirus)
trạng nhiễm bệnh hoại tử thần kinh ở cá biển
ni tại biển Khánh Hịa.
gây ra ở nhiều lồi cá biển và phân bố rộng rãi
ở nhiều vùng địa lý khác nhau (Takana và ctv
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2003, Tanaka và ctv 2004, Curtis và ctv
Vật liệu
2001...). Bệnh lần đầu tiên được mô tả ở cá
chẽm Dicentrarchus labrax bởi Ballance &
Các lồi cá biển ni tại Khánh Hòa như
cá mú (Epinephelus spp.) cá chẽm (Lates
Galletde Saint A 1988 và cá chẽm, Later
calcarifer ở Úc (Glazebook và các ctv 1990).
có xuất hiện các dấu hiệu tương tự dấu hiệu
Sau đó bệnh được tìm thấy ở nhiều lồi cá
biển khác nhau bao gồm 19 loài thuộc hơn 10
của bệnh VNN được mô tả bởi nhiều tác giả
như Curtis và các ctv 2001, Tanaka và các ctv
calcarifer) và cá bớp (Rachycentron canadum)
họ từ vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương đến Địa
2003, Tanaka và các ctv 2004...
Trung Hải và Scandinavi (Munday và Nakai
1997). Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn ấu
Việc thu mẫu được tiến hành từ tháng
8/2006 - 9/2007. Mỗi mẫu (đìa hoặc lồng ni)
trùng và ấu niên gây tỉ lệ chết tích lũy cao.
Ở Khánh Hịa, trong những năm gần đây
có dấu hiệu bệnh thu từ 5-10 cá. Mẫu được
vận chuyển sống về phịng thí nghiệm để kiểm
khi nghề ni tơm khơng cịn chiếm được vị trí
độc tơn, nghề ni cá biển được xác định như
tra, phân tích.
Phương pháp mô bệnh học
là một ngành kinh tế quan trọng đem lại lợi
Cá có kích thước lớn hơn 3cm được giải
nhuận cao cho người nuôi. Tuy nhiên vấn đề
dịch bệnh vẫn luôn là mối đe dọa trực tiếp đến
phẫu lấy não và mắt, cố định trong dung dịch
Bouin’s, cá nhỏ hơn hoặc bằng 3cm được cố
các nhà sản xuất giống cũng như nuôi cá
thương phẩm. Kết quả điều tra sơ bộ của
định nguyên cả đầu cá trong dung dịch
Bouin’s. Mô cố định được chuẩn bị theo kỹ
chúng tôi cho thấy cá nuôi tại vùng biển Khánh
thuật mô học tiêu chuẩn, cắt lát từ 5 – 7µm và
Hịa thường gặp bệnh có dấu hiệu tương tự
như bệnh hoại tử thần kinh được thông báo
nhuộm với thuốc nhuộm Hematocyline và
19
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
Trường Đại học Nha Trang
Eosin, sau đó đươc gắn bom canada và quan
cá mú cọp (E. fuscoguttatus), cá mú mè (E.
sát đưới kính hiển vi quang học.
Phương pháp xử lý số liệu
tauvina), cá mú nghệ (E. lanceolatus), cá mú
chấm đen (E. malabaricus), cá chẽm (Lates
Toàn bộ số liệu thu thập được xử lý bằng
phần mềm Epi info phiên bản 3.4.3. Sử dụng
phân tích logistic regression để phân tích nguy
cơ mắc bệnh VNN ở các lồi cá biển và các
nhóm cá có kích thước khác nhau.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong suốt q trình nghiên cứu chúng tơi
đã phân tích 101 mẫu cá ni bao gồm các
lồi cá mú chấm nâu (Epinephelus coioides)
calcarifer)
và
cá
bớp
(Rachycentron
canadum). Tất cả mẫu cá đưa về phân tích
đều có những dấu hiệu bất thường như: bỏ
ăn, bơi khơng cố định, bơi xoắn hoặc bơi
nghiêng, thân đen sẫm, cong xương sống, một
số trường hợp dễ dàng nhận thấy bóng hơi
căng phồng hoặc ruột tích đầy dịch màu xanh
(hình 1).
A
B
Hình 1. Dấu hiệu bên ngoài của cá Mú chấm nâu Epinephelus coioides bị bệnh VNN
A: Ruột cá bị bệnh VNN tích dịch màu xanh, khơng chứa thức ăn
B: Cá Mú bệnh VNN cong thân, bơi nghiêng bóng hơi căng phồng
Kết quả phân tích mơ bệnh học cho thấy có sự xuất hiện của không bào (sự thay đổi tổ chức mô đặc
trưng do Piscine nodavirus gây ra) ở mô não và võng mạc mắt ở cá biển nuôi ở Khánh Hịa (hình 2).
A
B
Hình 4. Mơ não cá Mú chấm nâu (Epienephelus coioides) bị bệnh VNN
A. Mô não cá mú chấm nâu (Epinephelus coioides) bị nhiễm VNN nhẹ
B. Mô não cá mú chấm nâu (Epinephelus coioides) bị nhiễm VNN nặng
20
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
A
Trường Đại học Nha Trang
B
Hình 5. Mơ mắt cá Mú chấm nâu (Epinephelus coioides) bị bệnh VNN
A. Mô mắt cá Mú chấm nâu (Epinephelus coioides) bị nhiễm VNN nhẹ
B. Mô mắt cá Mú chấm nâu (Epinephelus coioides) bị nhiễm VNN nặng
Bảng 1. Tần số nhiễm bệnh VNN và đặc điểm khơng bào
được hình thành ở các lồi cá biển ni tại Khánh Hịa
Lồi
Epinephelus coioides
Kích cỡ
Lượng
Tần số
(cm)
mẫu
nhiễm
2,5-20
31
Đặc điểm khơng bào
Hình dạng
Đường kính (µm)
15/31
Trịn
4-16
(6,12)-(12,25)
-
E. fuscoguttatus
21-27
2
0/2
Elip
-
E. tauvina
E. lanceolatus
6-20
3,5-25
4
4
2/8
0/4
Trịn
-
5-12
-
E. malabaricus
Lates calcarifer
3-15
2-16
3
31
1/3
5/31
Trịn
Trịn
8-12
4-20
Elip
(4-8)-(8-28)
Trịn
Elip
6-24
(4-12)-(12-30)
Rachycentron canadum
3-23
22
5/22
Kết quả nghiên cứu mô bệnh học chỉ ra
rằng tác nhân gây bệnh đã phá hủy tế bào
30µm. Kết quả này phù hợp với các nghiên
cứu Curtis và ctv (2001), Lai và ctv (2001),
thần kinh và võng mạc mắt của cá mắc bệnh
và tạo ra các khơng bào có hình dạng và kích
Yukio và ctv (2004). Tuy nhiên, trong nghiên
cứu này chúng tôi không nhận thấy sự khác
thước khác nhau (bảng 1).
biệt về kích cỡ của khơng bào giữa mơ mắt và
Ở mơ mắt và não của các lồi cá mú, cá
chẽm và cá bớp có dấu hiệu mắc bệnh, chúng
não ở cá có biểu hiện bệnh như thơng báo của
Danayadol và ctv (1995) khi cho rằng khơng
tơi đã tìm thấy sự tồn tại của 2 dạng khơng
bào: dạng trịn và dạng elip, kích cỡ từ 4-
bào hình thành ở mơ mắt có kích thước lớn
hơn các khơng bào ở não.
21
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
Trường Đại học Nha Trang
Phân tích nguy cơ nhiễm VNN ở cá biển
chẽm và cá bớp cho thấy nguy cơ mắc bệnh
ni theo kích cỡ và lồi
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ
VNN ở cá mú cao gấp 3,12 lần so với cá chẽm
(P = 0,047) trong khi số liệu thu được không
nhiễm VNN ở một số lồi cá biển ni ở
cho thấy sự khác biệt có nghĩa (P = 0,55) về
Khánh Hòa phụ thuộc vào từng lồi cá ni và
kích cỡ cá thả ni. Kết quả phân tích nguy cơ
nguy cơ mắc bệnh VNN giữa cá bớp và cá
chẽm (bảng 2).
mắc nhiễm VNN ở 3 nhóm cá ni: cá mú, cá
Bảng 2. Phân tích nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá mú, cá chẽm và cá bớp
Chỉ tiêu
Hệ số
chênh
95%
C.I.
Coefficient
Sai số
chuẩn
ZStatistic
Mức ý
nghĩa
Cá bớp/cá chẽm
1.5294
0.3839
6.0923
0.4249
0.7052
0.6025
0.5468
Cá mú/cá chẽm
3.12
1.0166
9.5756
1.1378
0.5721
1.9887
0.0467
*
*
*
-1.6487
0.4883
-3.3762
0.0007
CONSTANT
Lý giải về nguy cơ mắc nhiễm VNN ở cá
mú cao hơn nhiều so với cá chẽm, chúng tơi
Nam nói chung xuất phát từ nguồn giống nhập
nội khơng được kiểm sốt chặt chẽ này. Trong
cho rằng nguồn giống đóng vai trị quyết định.
Cá mú là đối tượng nuôi phổ biến của ngư dân
khi đó, phong trào ni cà chẽm ở Khánh Hịa
chỉ mới phát triển chưa đến ba năm. Con
Khánh Hòa, nguồn giống lấy chủ yếu từ tự
giống có nguồn gốc chủ yếu từ Trường Đại
nhiên hoặc nhập khẩu từ Đài Loan, Trung
Quốc hoặc các nước Đông Nam Á như:
học Nha Trang nên việc kiểm sốt sự lây lan
bệnh VNN thơng qua giống và ấu trùng được
Indonesia, Phillipin, Thái Lan…Tuy nhiên,
nhiều nghiên cứu đã cho biết có sự xuất hiện
kiểm sốt tốt hơn, vì thế nguy cơ mắc nhiễm
VNN ở đối tượng nuôi này thấp hơn.
của bệnh VNN ở cá nuôi thuộc các nước này
(Munday và Nakai 1997; Yukio và ctv 2004;
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
khơng có sự khác biệt về nguy cơ mắc bệnh
Zafran và ctv …). Rất có thể bệnh VNN xảy ra
VNN giữa các lồi mú chấm nâu, mú chấm
trên cá mú ni ở Khánh Hịa nói riêng và Việt
đen và mú mè (bảng 3).
Bảng 3. Phân tích nguy cơ mắc bệnh VNN giữa các lồi trong nhóm cá mú
Chỉ tiêu
Hệ số
Coeffi-
Sai số
Z-
Mức ý
chênh
95%
C.I.
cient
chuẩn
Statistic
nghĩa
Lồi (Mú chấm đen/mú
chấm nâu)
0.5333
0.0437
6.5081
-0.6286
1.2764
-0.4925
0.6224
Lồi (Mú mè/mú chấm
nâu)
0.3556
0.0619
2.0418
-1.0341
0.8918
-1.1595
0.2462
*
*
*
-0.0645
0.3594
-0.1796
0.8575
CONSTANT
Phân tích nguy cơ mắc bệnh VNN theo
nhóm kích cỡ cá mú ni tại Khánh Hịa
ra rằng nguy cơ mắc bệnh VNN khác nhau
(P=0,02) ở các nhóm cá ni có kích cỡ khác
Kết quả phân tích tình trạng mắc bệnh
VNN ở 48 đàn cá mú ni tại Khánh Hòa chỉ
nhau (bảng 4).
22
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
Trường Đại học Nha Trang
Bảng 4. Phân tích nguy cơ mắc bệnh VNN theo nhóm kích cỡ cá mú
Chỉ tiêu
Hệ số
chênh
95%
C.I.
Coefficient
Sai số
chuẩn
ZStatistic
Mức ý
nghĩa
Kích cỡ
0.8371
0.7242
0.9675
-0.1779
0.0739
-2.4075
0.02
CONSTANT
*
*
*
0.9186
0.6109
1.5036
0.13
Những số liệu phân tích cũng chỉ ra rằng
13cm trong khi nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá
nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá mú có kích
thước nhỏ hơn 6cm cao gấp 10 lần (P=0,04)
mú có kích thước từ 7-12cm cao hơn gấp 9,6
lần (P=0,05) so với nhóm cá có kích thước lớn
so với nhóm cá có kích cỡ lớn hơn hoặc bằng
hơn (bảng 5).
Bảng 5. Phân tích nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá mú theo 3 nhóm kích cỡ
(nhóm 1: >12cm, nhóm 2:>6 – 12cm, nhóm 3: ≤6cm)
Hệ số
Chỉ tiêu
chênh
95%
C.I.
Sai số
Z-
Mức ý
Coefficient
chuẩn
Statistic
nghĩa
Kích cỡ (nhóm2/1)
9.625
0.9799
94.5381
2.2644
1.1657
1.9426
0.05
Kích cỡ (nhóm3/1)
10
1.0872
91.9817
2.3026
1.1322
2.0338
0.04
CONSTANT
*
*
*
-2.3979
1.0445
-2.2958
0.02
KẾT LUẬN
Bệnh VNN đã xuất hiện ở cá mú, cá chẽm
so với nhóm cá có kích cỡ lớn hơn hoặc bằng
13cm trong khi nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá
và cá bớp ni tại Khánh Hịa.
Nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá mú cao gấp
mú có kích thước từ 7-12cm cao hơn gấp 9,6
lần (P = 0,05) so với nhóm cá có kích thước
3,12 lần so với cá chẽm (P = 0,047).
Nguy cơ mắc bệnh VNN ở cá mú có kích
lớn hơn.
thước nhỏ hơn 6cm cao gấp 10 lần (P = 0,04)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi S C, Lo B J and Lin S.C 2001. Characterization of grouper nervous necrosi virus
(GNNV), Journal of Fish Disease, 24, 3 – 13
2. Chi S.C, Shieh J. R., Lin S.J. 2003. Genetic and antigenic analysis of betanodaviruses
isolated from aquatic organisms in Taiwan. Diseases of aquatic organisms 55, 221-228
3. Curtis P A, M Drawbridge, T Iwamoto, T Nakai, R P Hedrick and A P Gendron 2001.
Nodavirus infection of juvenile white seabass, Atractoscion nobilis, cultured in southern
California: First record of viral nervous necrosis (VNN) in North America. Journal of fish
diseases 24, 263-271.
4. Danayadol Y., Direkbusarakom S. & Supamattaya K. 1995. Viral nervous necrosis in
Epinephelus malabaricus, cultured in Thailand. In: Disease in Asian Aquaculture II edited
by M. Shariff, J.R. Arthur & R.P. Subasinghe. Fish Health Section, Asian Fisheries Society,
Manila. pp: 277 – 233
23
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản - số 01/2008
Trường Đại học Nha Trang
5. Lai Y S, H-C Chiu, S Murali, I-C Guo, S-C Chen, K Fang and C-Y Chang 2001. In vitro
neutralization by monoclonal antibodies against yellow grouper nervous necrosis virus
(YGNNV) and immunolocalization of virus infection in yellow grouper, Epinephelus awoara
(Temminck & Schlegel). Journal of Fish diseases 24, 237-244.
6. Munday B. L & Nakai T. (1997) Special topic review: nodavirus as pathogens in larval and
juvennile marine finfish. World Journal of Microbiology and histopathology, 375 –381
7. Munday, B. L, et al 1992. Mass mortality associated with a viral-induced vacuolating
encephalopathy and retinopathy of larval and juvenile barramundi, Lates calcarifer Bloch.
Aquaculture, 103, 197-211.
8. Smail D. A. , A.L.S. Munro 2001. The virology of teleosts. In: Fish pathology edited by
Ronald J Roberts, third edition, W.B Saunders. pp: 133-150.
9. Tanaka S, I Kuriyama, T Nakai and Miyazaki 2003. Susceptibility of cultured juveniles of
several marine fish to the sevenband grouper nervous necrosis virus. Journal of fish
diseases 26, 109-115.
10. Tanaka S, M Takagi and T Miyazaki 2004. Histopathological studies on viral nervous
necrosis of sevenband grouper, Epinephelus septemfasciatus Thunberng, at the grow-out
stage. Journal of fish diseases 27, 385-399.
11. Yukio Maeno, Leobert D. De La Pena and Erlinda R. Cruz-Lacierda 2004. Mass mortalities
associated with viral nervous necrosis in hatchery-reared sea bass Lates calcarifer in
Philippines. JARQ 38 (1), 69-73.
12. Zafran, et al 2000. Viral nervous necrosis in humpback grouper Cromileptes altivelis larvae
and juvenile in Indonesia. Fish Pathology, 35, 95-96.
ABSTRACT
VIRAL NERVOUS NECROSIS INFECTION OF MARINE FISH CULTURED
IN KHANH HOA
Viral nervous necrosis (VNN) has spread worldwide among cultured marine fish with the number of
susceptible host species continuing to grow (Munday and Nakai 1997). Affect fish exhibit a range of
neurological signs, such as abnormal swimming behaviour and pale-grey discoloration of the body.
In Khanh Hoa, grow-out fish (grouper-Epinephelus spp, sea bass-Lates calcarifer and cobiaRachycentron canadum) had been suffering from a disease characterized by similar clinical signs with
high mass mortality. Histological investigations in moribund fish revealed marked vacuolation in the
retina and brain. The size of vacuolation was varying from 4-30um with different shape from oval to
circle. These results indicate the presence of VNN in cultured marine fish in Khanh Hoa.
24