Mục lục
1
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, truyện ngắn đã có những bước phát triển đáng
kể, gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng và tạo dựng được một vị trí vững
chắc bên cạnh các thể loại văn học khác. Gọn, cơ động, dễ dàng cơng bố trên
báo chí, khởi đi từ một tình huống, một khoảnh khắc mà có thể hé lộ cả một số
phận, một tính cách của một con người cùng một trạng thái nhân sinh - truyện
ngắn quả thật là một món ăn tinh thần hấp dẫn và có tầm phổ biến rộng rãi. Nói
đến truyện ngắn Việt Nam đương đại, không thể không nhắc đến Nguyễn Huy
Thiệp - người đã góp phần làm cho đời sống văn học thời kì đổi mới trở nên sôi
nổi và khởi sắc hơn bao giờ hết. Tràn đầy tinh thần cách tân, Nguyễn Huy
Thiệp đã sử dụng một cách tối đa khả năng của ngôn ngữ và đặc trưng của thể
loại để biểu đạt một cách cao nhất ý tưởng, tình cảm của mình. Chính vì sự mới
mẻ ấy mà từ khi xuất hiện đến nay, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên dư luận. Ý
kiến về truyện ngắn của ông, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt
và thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa. Thời gian trôi qua, những xúc
cảm nóng bỏng về những gì ơng viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền
ngẫm kĩ lưỡng. Nhiều người bắt đầu đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá tài
năng văn chương của ông một cách khách quan hơn qua những trang viết thận
trọng. Sau đúng hai mươi năm xuất hiện trên văn đàn, ngày 9 tháng 7 năm
2007, đại sứ Pháp tại Việt Nam đã tổ chức trọng thể buổi lễ trao tặng huân
chương Văn học nghệ thuật của Pháp cho Nguyễn Huy Thiệp. Huân chương
này là một phần thưởng đầy vinh dự cho Nguyễn Huy Thiệp, điều khơng phải
bất kì nhà văn nào cũng có thể đạt được. Nó cũng cịn là một minh chứng cho
tầm ảnh hưởng rộng lớn của tác phẩm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp đối
với độc giả trên thế giới. Đó là những lí do chính thơi thúc tơi lựa chọn truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu này.
Lịch sử vấn đề
Xuất hiện vào những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Nguyễn
Huy Thiệp đã khuấy động cả một bầu khơng khí sinh hoạt văn hố, văn nghệ
nước nhà. Tác phẩm của ông, với những hiệu ứng mà nó gây nên, đã góp phần
phá vỡ thế bình ổn của văn học dân tộc trong suốt hai cuộc kháng chiến, đồng
thời tạo nên sự chuyển nhịp, tăng tốc cho những bước đi vốn bình thường,
chậm rãi của lí luận và phê bình văn học đương đại Việt Nam. Các ý kiến xung
quanh “hiện tượng”Nguyễn Huy Thiệp trong vòng hơn hai thập kỉ qua phải tính
đến con số hàng trăm và chắc hẳn con số này ngày càng một nhiều thêm.
Đặc biệt từ sau khi chùm truyện “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ” liên
tiếp ra mắt bạn đọc từ tháng 4 năm 1988, dư luận về tác phẩm của ông mới trở
nên sôi nổi, tạo thành hai xu hướng: khẳng định và phủ định, trong đó xu
hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo.Những người phê phán Nguyễn Huy
Thiệp thường có cách làm khá giống nhau. Hoặc đối chiếu các hình tượng hư
cấu trong trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp với các nhân vật lịch sử, văn
hoá đã trở nên khá quen thuộc, hoặc đồng nhất văn học với lịch sử, từđ ó họđi
đến kết luận: những hình tượng Quang Trung, Gia Long, Nguyễn Du... trong
tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là sự xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Nhà sử học Tạ
Ngọc Liễn, lúc thì cảnh báo: “Chúng ta phải nhắc nhở anh cần định hướng lại
1.
2.
một cách chín chắn hơn khi ngồi trước trang giấy, đặc biệt, cần kiểm tra lại vốn
tri thức văn hoá, vốn hiểu biết lịch sử trong hành trang anh đang có nếu như
anh vẫn tiếp tục các đề tài lịch sử” [42, tr. 170] lúc thì chỉ trích khá gay gắt,
rằng Nguyễn Huy Thiệp là người có “nhận thức phiến diện”, “trình độ học vấn
chưa đầy đủ”[42, tr. 176], cách viết của ông là “xúc phạm danh dự dântộc” ...
Từ góc nhìn lịch sử, Tạ Ngọc Liễn u cầu Nguyễn Huy Thiệp: “không được
hư cấu xuyên tạc một cách tuỳ tiện, giống như khơng ai được phá hoại các di
tích lịch sửđã được xếp hạng” [42, tr. 471]. Cùng một cách nhìn thiếu thiện cảm
với chùm truyện vềđề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thúy Ái đã
giật một cái “title” khá ấn tượng cho một bài viết của mình “Viết như thế cũng
là một cách bắn súng lục vào quákhứ” [42, tr. 203]. Một vài người khác còn
quả quyết rằng Nguyễn Huy Thiệp thiếu cái tâm trong sáng của người cầm bút.
Ở xu hướng khẳng định Nguyễn Huy Thiệp, người phê bình thường đưa ra
các lập luận xác đáng, dựa trên cơ sở phân tích thấu đáo những đóng góp của
nhà văn trên cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật. Đặc biệt, nhiều nhà
nghiên cứu chỉ ra rằng: trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, những
cách tân nghệ thuật là rất cần thiết cho một khuynh hướng văn học mới. Năm
2001, trong lời tựa cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (cuốn sách tập hợp khá
nhiều bài viết về Nguyễn Huy Thiệp), Phạm Xuân Nguyên khẳng định: “...một
hướng kết tinh đầy ấn tượng của thời kì đổi mới văn học là sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp. Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp – đó là thành quả của đổi
mới”. [42, tr. 5]
Lại Nguyên Ân là một trong những người đầu tiên bênh vực Nguyễn Huy
Thiệp. Phản bác lại các ý kiến phê phán đã nói ở trên, ông viết : “đọc văn phải
khác với đọc lịch sử”, và mạnh dạn đưa ra quan điểm riêng của mình: “qua
những Kiếm sắc, Vàng lửa. Tơi nghĩ là anh có điểm nhấn riêng, theo kiểu văn
học” [42, tr. 186, 187]. Văn Tâm khẳng định: “không thể đọc truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (những sáng tạo thẩm mỹ) bằng đôi mắt sử ký giáo khoa
thư như nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã làm” [42, tr. 287]. Nguyễn Văn Lưu
cho rằng: Nguyễn Huy Thiệp không hề“bôi đen” hay “xuyên tạc lịch sử”. Anh
chỉ viết theo cách cảm, cách nghĩ của riêng mình. Nguyễn Huy Thiệp chỉ mượn
lịch sử để bộc lộ“thái độ đối với hiện tại” [42, tr.311]. Nguyễn Văn Bổng cũng
quả quyết “anh không định qua các nhân vật ấy đánh giá lại lịch sử, đánh giá
lại bản thân các nhân vật. Anh chỉ mượn các nhân vật và hoàn cảnh lịch sử để
nói chuyện khác” [42, tr. 148]. Các ý kiến của Lê Xuân Giang, Trịnh Bá Đĩnh
cũng có những phát hiện khá lí thú về hình tượng nhân vật của Nguyễn Huy
Thiệp, họ chứng minh rằng thông qua việc xây dựng hình tượng nhân vật,
Nguyễn Huy Thiệp nhằm đối thoại với bạn đọc. Như vậy, trong sáng tác của
mình, Nguyễn Huy Thiệp không đi chệch ra khỏi những vấn đề liên quan đến
con người. Và ở các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử, những gì nhà văn thể
hiện cũng khơng nằm ngồi mục đích ấy.
Trước những vấn đề về đời sống xã hội mà Nguyễn Huy Thiệp đặt ra trong
các tác phẩm, Mai Ngữ khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã “gây
bất ngờ, sửng sốt cho người đọc, khiến mọi người phải suy nghĩ nghiêm túc về
thực trạng xã hội hiện nay, về sức mạnh và khả năng của văn học”[42, tr. 418].
Đi vào khảo sát một tác phẩm cụ thể, Vũ Đức Phúc nhận thấy: với “Tướng về
hưu”, “thực trạng xã hội thể hiện qua thái độ lạnh lùng của nhà văn như một
liều thuốc đắng thức tỉnh con người”. Hoàng Ngọc Hiến bổ sung cho luận
điểm trên bằng những nhận xét cô đọng, thấu đáo: “Dẫu là kể chuyện cổ tích,
Nguyễn Huy Thiệp trước sau vẫn viết về cuộc sống ngày hôm nay” [42, tr. 6].
Trước những sự thật, những xấu xa được phơi bày trong tác phẩm của Nguyễn
Huy Thiệp, Đông La thẳng thắn đánh giá: “Nguyễn Huy Thiệp đã xé toạc cái
khách sáo của con người ở chốn đông đúc ấy để viết về cái lõi tâm lí, cái tâm lí
thật, cái tơi của con người. Từ cái cao cả đến cái thấp hèn, từ phù du ảo huyền
đến thơng thục. Đó là những ao ước, khát khao, những toan tính mưu mơ, kể cả
những ham muốn bản năng...Nhiều khi anh đẩy đến tận cùng khiến người đọc
phải e ngại” [42, tr. 132]. Bằng tấm lòng trân trọng và thấu hiểu tài năng của
Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đồng cảm sâu sắc với những trăn trở,
xót xa của nhà văn khi phải đặt bút phơi bày phần khuất tối trong mỗi con
người “nói về sự đốn mạt, hèn kém của con người, câu văn Nguyễn Huy Hiệp
thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình.
Một nỗi đau âm thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc...Ngòi bút trào phúng của Nguyễn
Huy Thiệp vừa trào phúng vừa xót xa”. [42, tr. 14]
Về cách viết của Nguyễn Huy Thiệp, tiến sĩ sử học người Úc – Greg
Lockhart đã nhận xét: “cách viết của Nguyễn Huy Thiệp là cách viết của một
nghệ sĩ khách quan đứng ở ngồi truyện nhìn vào. Anh ấy không bị vướng chân
vào đời sống nhân vật, vừa nói vềđời sống vĩ đại của vua Gia Long, vừa nói về
đời sống của một đồ tể, của một bác sĩ phá thai, thậm chí vừa nói đến một
người Tây, thì số phận con người tự bộc lộ chỉ qua lời khái quát và hành động
của nó” [42, tr. 112]. Để lí giải vì sao lại chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp ra tiếng Anh, ông khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp khơng
chỉ là đóng góp cho văn học Việt Nam mà “cũng là đóng góp cho văn học thế
giới”, sở dĩ như vậy “chính là vì tính chất nhân bản của chúng”. [42, tr. 115]
Một điều thật thú vị cần phải nói thêm rằng, ngay cả những người từng lên
án chỉ trích gay gắt ông vẫn không thể không thừa nhận tài năng của cây bút
truyện ngắn độc đáo này. Bên cạnh những lời phê phán Nguyễn Huy Thiệp, nhà
sử học Tạ Ngọc Liễn viết: “mặc dầu mới xuất hiện, song anh đã sớm chứng tỏ
được mình là một nhà văn có bản sắc riêng, mới mẻ, bạo dạn, súc tích gây được
chú ý thật sự của độc giả”. [42, tr. 170]
Cùng với các bài viết đã được công bố rộng rãi trên sách báo mà những
người yêu mến Nguyễn Huy Thiệp biết tới, còn một số lượng khá lớn các bài
viết được đưa lên mạng internet rải rác trong khoảng hơn chục năm gần đây.
Những tác phẩm đã từng một thời gây bao sóng gió trên văn đàn cũng được
nhìn nhận, đánh giá lại một cách bình tĩnh hơn. Khuê Các (trong “Nhân đọc
“Vàng Lửa” - nguồn Talawas năm 2005) khẳng định: “Truyện ngắn “Vàng
Lửa” của Nguyễn Huy Thiệp có ba mảng, chính xác hơn là cuộc đời của ba
nhân vật: Gia Long,Nguyễn Du và Phăng. Nguyễn Huy Thiệp không hề viết
tiểu sử của ba nhân vật ấy, nhưng thông qua họ, Thiệp muốn đi sâu vào các chủ
đề: Quyền lực, quyền lợi và vai trị của trí thức nói chung và văn nghệ sĩ nói
riêng trong lịch sử nhân loại”. Bài “Triết lí văn chương trên trang viết Nguyễn
Huy Thiệp” trên Evăn cho rằng“Bởi khơng như Nam Cao, cuối cuộc hành trình
đó, Nguyễn Huy Thiệp không đưa ra bất kỳ một chân lý nào. Cái ông đem đến
cho người đọc lại là một sự hoài nghi về chân lý”. Trong “Đọc lại “Sang
sơng”(Evan ngày 21.1.2005) có đoạn “Mười một con người, mười một gương
mặt mờ nhạt. Theo tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực truyền thống, đó là những
nhân vật không đạt yêu cầu cả khái quát hóa lẫn cá biệt hóa. Nhưng Nguyễn
Huy Thiệp đâu có miêu tả nhân vật. Người trên đò là một tập hợp đủ các thành
phần nam phụ lão ấu, quân tử tiểu nhân, thiện và ác... Rõ ràng chuyến đò là sự
mã hóa chúng sinh hữu tình trơi lăn theo bánh xe sinh tử luân hồi... Nói tóm lại,
đó là chúng sinh thời mở cửa, thời kinh tế thị trường”. Nếu nhiều độc giả khó
tính chê Nguyễn Huy Thiệp rằng: trong truyện ngắn này ơng đã đưa ra một
hình mẫu nhân vật tên tướng cướp phi thực tế thì tác giả bài viết trên lại có
cách lí giải khác: Nguyễn Huy Thiệp đã “phá vỡ mơ hình, ném vào giữa thế
gian một "tên cướp lương thiện" hoang dã, chưa qua một lò đúc sẵn nào.
Nguyễn Huy Thiệp chỉ đưa ra những mảnh vụn về thế giới nhân sinh. Người
đọc mặc tình sắp xếp, lựa chọn, suy ngẫm. Tên cướp là một mảnh vụn đó. Cho
dù hắn là kẻ xấu, ta sẽ chẳng thể có căn cơ nào để đào thải hắn ra khỏi thế giới
loài người, cái thế giới mà Nho giáo đã dứt khốt khẳng định “nhân chi sơtính
bản thiện”.
Soi sáng tác phẩm của một số nhà văn bằng lí thuyết văn học hậu hiện đại,
tác giả La Khắc Hoà khẳng định: “Có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài những câu chuyện thể hiện tâm trạng và cảm
quan hậu hiện đại”. Không chỉ vậy, ơng cịn có những phát hiện xác đáng:
“Khó tìm thấy nhân vật chính diện trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và
Phạm Thị Hoài. Đọc truyện ngắn, truyện dài của Phạm Thị Hoài và Nguyễn
Huy Thiệp ta thường nghe thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc,
thậm chí tàn nhẫn... “Cuộc đời vơ nghĩa” là tứ truyện chi phối mạch vận động
của câu chữ, hình ảnh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.” [20]. Và hơn thế
nữa, ông cho rằng, cùng với Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp là người khởi
xướng ra một xu thế mới trong kĩ thuật viết truyện ngắn: “khi Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hồi xuất hiện, ta thấy có những dấu hiệu về một cuộc chia
tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của
nó... Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn
nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hố làm nền tảng cấu trúc hình tượng”.
Nguyễn Thị Minh Thái cũng đánh giá rất cao thủ pháp “lạ hoá” trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp: “Tiếng Việt được viết lạ chưa từng thấy. Cung cách
tưởng tượng và phản ánh hiện thực cuộc sống người Việt được “lạ hoá” một
cách hiện đại cũng chưa từng thấy” “Nguyễn Huy Thiệp kể một cách trầm tĩnh,
ém nhẹm một cái buồn nhân thế dưới cái nhìn “Dân chủ hố”. Dường như nhà
văn này thật kinh hãi sự giáo huấn thô lậu, lộ liễu và chỉ muốn khơi dậy, đánh
thức sự bất ổn trong người đọc” [68]. Châu Minh Hùng cũng tìm thấy ở truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp những điểm cách tân độc đáo: “Đến Nguyễn Huy
Thiệp, hình thức đa thanh như một tổ chức nghệ thuật mới được phát huy một
cách triệt để. Nguyễn Huy Thiệp tạo ra nhiều tiếng nói của nhiều quan điểm, tư
tưởng khác nhau bên ngồi mơi trường xã hội để tạo ra cuộc đối thoại không
khoan nhượng giữa các nhân vật”. [24]
Trên đây, tôi đã điểm qua một số ý kiến khen chê có thể được coi là khá
tiêu biểu về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Mặc dù mỗi bài có những phát hiện
và cách lí giải riêng nhưng tựu trung lại, đa số các ý kiến đó đều gặp nhau ở
chỗ thừa nhận: Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng văn chương lớn, đáng để
chúng ta quan tâm. Tất cả những ý kiến trên có tính chất định hướng, gợi mở,
giúp cho chúng tơi có điều kiện để hiểu hơn về văn chương cũng như con
người Nguyễn Huy Thiệp.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Huy Thiệp viết được nhiều thể loại: Truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết,
tiểu luận phê bình, trong đó, thể loại làm nên tên tuổi của ông là truyện ngắn. Ở
thể loại này, Nguyễn Huy Thiệp có tất cả 42 truyện. Trong đó, có những chùm
truyện gồm nhiều truyện nhỏ: “Những ngọn gió Hua Tát”(gồm 10 truyện nhỏ),
“Con gái Thủy thần” (gồm 3 truyện), “Chút thoáng Xuân Hương”(gồm 3
truyện), chùm “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”... Trong khuôn khổ đề tài
này, tôi tiến hành khảo sát chùm truyện ngắn “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm
tiết” , “Mưa Nhã Nam”, “Nguyễn Thị Lộ” của Nguyễn Huy Thiệp, trong tương
quan so sánh với truyện ngắn của một số nhà văn khác, để từ đó rút ra những
đặc trưng cơ bản truyện giả lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp.
4.
Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
1. Làm rõ vị trí, vai trò của chùm truyện giả lịch sử trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp.
2. Xác định được những nội dung cơ bản trong truyện giả lịch sử của Nguyễn Huy
Thiệp.
3. Làm rõ một số vấn đề về nghệ thuật trong truyện giả lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Đặc trưng chùm truyện ngắn giả lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp, tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận và
khảo sát trực tiếp văn bản và đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Xem xét các yếu tố tạo nên cấu trúc tác
phẩm, tìm ra nguyên tắc chi phối sự hình thành của chúng. Từ đó, rút ra kết
luận về nguyên tắc chi phối việc sáng tạo toàn bộ cấu trúc tác phẩm.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Là phương pháp chính, nhằm làm nổi bật
sự khác biệt của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp so với các nhà văn khác trên
các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, phương pháp sáng tác, nghệ thuật biểu
hiện... Những phương pháp này sẽ được tôi vận dụng một cách linh hoạt trong
quá trình nghiên cứu.
6.
Phạm vi khảo sát
Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát các truyện viết về đề tài giả lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”
7.
Cấu trúc
Gồm có 20 trang, ngồi phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (1 trang), Phần nội
dung chính của luận văn (gồm có 13 trang) chia thành:
Chương 1:khái lược về Nguyễn Huy Thiệp và quan điểm về lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp
1.1 Đặt vấn đề
1.2 Khái lược một số nét cơ bản về nhà văn và tác phẩm
1.3 Quan điểm về lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp
Chương 2: Biểu hiện Quan niệm về lịch sử trong chùm truyện ngắn giả lịch sử
của Nguyễn Huy Thiệp
2.1 Cách thể hiện đề tài mang tính chất phản đề
2.2 Con người trần trụi , bản năng trong truyện ngắn lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp.
2.3. Cốt truyện “mở” và nhân vật người kể chuyện khơng đáng tin cậy
Chương 3:Những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong một số truyện viết về
đề tài lịch sử
3.1.Từ phương diện sáng tác…
3.2. … Đến phương diện tiếp nhận
NỘI DUNG
Chương 1: khái lược về Nguyễn Huy Thiệp và quan điểm về lịch
sử của Nguyễn Huy Thiệp
1.1 Đặt vấn đề
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những cây bút đặc biệt của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Với hàng loạt các tác phẩm như: Những ngọn gió Hua Tát;
Tướng về hưu( 1989); Con gái thuỷ thần(1993); Những ngọn gió(1995); Tuổi
hai mươi yêu dấu(2002)... Nguyễn Huy Thiệp đã để lại dấu ấn khơng thể phai
mờ trong lịng độc giả.
Khi nhắc đến các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta không thể
không nhắc đến các sáng tác trong mảng đề tài viết về lịch sử của ông. Với
những quan điểm và cách nhìn nhận độc đáo về lịch sử của mình , nhà văn đã
thành cơng đưa cái” tinh thần hoài nghi hiện đại chủ nghĩa” vào trong các sáng
tác của mình. Nguyễn Huy Thiệp đã từng nói:”...nhiệm vụ của nhà văn không
phải nói ra chân lí mà là thức tỉnh ý thức hướng về chân lí hoặc chí ít cũng là
thức tính tình cảm về phẩm giá con người trong họ”. Vì vậy, các tác phẩm ấy
ngay từ khi ra đời đã gây ra hàng loạt các cuộc tranh luận nảy lửa trên văn đàn
văn học, đồng thời đây cũng được coi là những tác phẩm “có vấn đề” và “gây
sốc” đối với bạn đọc.
Để có thể đi sâu tìm hiểu thêm về các tác phẩm này cũng như quan
điểm của nhà văn về lịch sử khi viết các tác phẩm đó như thế nào, trong
phạm vi bài nghiên cứu này tơi xin đi tìm hiểu về “Quan niệm về lịch sử
trong chùm truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp( Kiếm sắc: Vàng
lửa; Phẩm tiết)”.
1.2 Khái lược một số nét cơ bản về nhà văn và tác phẩm
Từ nửa sau thập kỷ 80 của thế kỉ XX, vào thời Đảng tuyên bố “cởi trói cho
nhà văn”, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành “một hiện tượng văn học” lạ, độc
đáo và gây nhiều tranh cãi.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp khai thác nhiều đề tài , phản ánh nhiều
vấn đề phức tạp của đời sống với một tầm tư tưởng và triết lí sâu sắc đa chiều.
Và khi nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, người ta không thể bỏ qua mảng đề tài
viết về lịch sử của ông. Vốn là một giáo viên dạy lịch sử, ơng có sự am tường
lịch sử sâu sắc. Tuy nhiên điều quan trọng nhất ở ông là nhân quan lịch sử sắc
bén được kết hợp hài hồ với nhãn quan văn chương. Chính điều này đã giúp
nhà văn để lại dấu ấn rất độc đáo và khác biệt khi khai thác đề tài lịch sử trong
các sáng tác của mình.
Về tác phẩm, chùm truyện ngắn lịch sử( Kiếm sắc: Vàng lửa; Phẩm tiết)
này được viết trong khoảng thời kì báo “Văn nghệ” sơi động nhất( khoảng
1988) với vị Tổng biên tập báo trứ danh là nhà văn Nguyên Ngọc. Đáng lẽ ra,
chùm truyện ngắn này không chỉ kết thúc ở ba tác phẩm( nếu như nhà văn
Nguyễn ngọc không bị cách chức). Truyện thứ tư đã được viết xong kể về đứa
con của Đặng Phú Lân và Ngô Thị Vinh Hoa. Tuy nhiên, bản thảo này đã bị đốt
đi vào năm 1991.
Ngay từ khi xuất hiện, chùm truyện ngắn này đã gây ra những phản ứng
gay gắt, trái ngược trong việc đánh giá, thưởng thức và thẩm định các tác phẩm
này. Về cơ bản có thể chia làm hai xu hướng:
Thứ nhất, xu hướng phản đối, phủ nhận các truyện ngắn lịch sử của Nguyễn
huy Thiệp. Hầu hết các bài viết này đều chỉ trích Nguyễn Huy Thiệp “làm cho
diện mạo lịch sử méo mó đi”, “xúc phạm tới danh dự dân tộc”, coi đó là hành
động “bắn súng lục vào quá khứ”, “xúc phạm nghiêm trọng tới lịch sử và người
đọc”. Thứ hai, có thể coi là xu hướng ủng hộ, chấp nhận lỗi hư cấu lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp như một cách tân trong kĩ thuật viết, phân biệt một cách rõ
ràng “ đọc văn phải khác với sử”.
Hai xu hướng này mâu thuẫn sâu sắc với nhau, tạo nên cuộc bút chiến gay gắt
xung quanh việc tiếp nhận, thưởng thức các truyện ngắn lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp trên văn đàn Việt Nam. Vì vậy, qua bài viết “quan điểm về lịch sử
và con người trong chim truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp” chúng tôi
hi vọng có thể tiếp cận sâu hơn với tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và một lần
nữa có thể khẳng định tài năng, nỗ lực đổi mới và vai trò của Nguyễn Huy
Thiệp trên văn đàn nước ta trong suốt thời gian qua.
2.3. Quan điểm về lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên cũng như duy nhất viết về
đề tài lịch sử. Tuy nhiên, từ cái nhìn độc đáo, mới lạ của mình, nhà văn đã khai
thác lịch sử ở những khía cạnh riêng biệt và làm cho lịch sử” nổi loạn” qua
từng tác phẩm. Trong cái nhìn của nhà văn, lịch sử khơng phải là lịch sử khách
quan mà đó là những diễn ngơn về lịch sử, đó là những cách cắt nghĩa khác
nhau về lịch sử. Nhà văn đã đặt vấn đề lịch sử bằng cách riêng của một người
viết tiểu thuyết. Lịch sử của ơng người ta khó có thể tìm thấy trong chính sử và
ngay cả trong dã sử, đó là một kiểu lịch sử” khơng sử sách nào nhắc đến”, một
kiểu lịch sử” như tôi biết” và nó có thể giống hoặc khơng giống với những gì
mà người đời đã biết.
Ở các sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp không chú trọng việc đưa ra
các chi tiết lịch sử chính xác, ơng cũng khơng cố thuyết phục bạn đọc phải tin
vào những gì ơng đã viết mà ở tác phẩm của mình, nhà văn chỉ đơn giản là đưa
ra các khả năng khác của lịch sử, những cái “có thể đã xảy ra trong quá khứ.
Đó là những điều mà trước đây chưa được cộng đồng nhận thức, thậm chí nó
cịn có thể đảo lộn rất nhiều nhận thức mà trước đây người ta coi như chân lí
mà thờ phụng. Từ trước đến nay, trong tâm thức của cộng đồng người Việt đã
có mấy ai nhìn ỖNguyễn Ánh như là một khối cơ đơn khổng lồ”, nhìn Nguyễn
Huệ như là” người tài bị giời đày”. Người ta chỉ quen nhìn “Triều Nguyễn của
vua Gia Long lập ra là một triều đình tệ hại” mà quên mất rằng đây là một triều
đình để lại nhiều lăng”.
Với tư cách là truyện ngắn lịch sử, việc khảo sát lịch sử trong truyện không
chỉ giúp chúng ta biết nhà văn đã sử dụng lịch sử như thế nào mà cịn có khả
năng hé lộ một số mặt nào đó trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn.
Trước hết, ta có thể nhận thấy trong truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp,
ngoại trừ những nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Huệ; Nguyễn Duy Nguyễn
Ánh... hay những cái tên có thật trong lịch sử như: Nguyễn Khải; Nguyễn
Nghiễm; Ngơ Thì Nhậm; Trần Văn Kỉ...thì Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng một
vài cái tên rải rác trong lịch sử song số phận của họ chi dính dáng ít nhiều hoặc
chỉ có thể tìm thấy bóng dáng của họ trong chính sử. Ví dụ như nhân vật Đặng
Phú Lân “ một hào kiệt mà khơng sử sách nào nhắc đến”, ta có thể coi đây là sự
hư cấu hoàn toàn của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, khi lật lại những trang sử
cuối thế kỉ XVIII, cái tên Lân cũng được tìm thấy trong chính sử với một họ
khác là:Hồ Văn Lân một trong những người có cơng gây dựng cơ đồ cho
Nguyễn Ánh nhưng số phận của nhân vật trong truyện lại có vẻ gần hơn với Đỗ
Thanh Nhân, một vị tướng thân cận với Nguyễn Ánh song sau này bị giết vì
“cậy cơng lộng quyền”. Như vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng vài chi tiết
thực trong cuộc đời hai vị tướng của Nguyễn Ánh hư cấu nên nhân vật Đặng
Phú Lân.
Các chi tiết và những cái tên lịch sử được sử dụng trong truyện có vẻ hết
sức tuỳ tiện. Tác giả đã nhặt nhạnh nó từ vơ vàn các chi tiết hỗn độn trong giai
đoạn khá rối ren phức tạp của lịch sử Việt Nam thế kỉ XVIII. Từ đó , nhà văn
đã tạo nên một lịch sử khơng trùng khít với chính sử. Các chi tiết nhỏ nhặt
được nhà văn hư cấu thành các sự kiện quan trọng của lịch sử. Chính sử và tiểu
thuyết ln tiềm ẩn những khả năng vênh nhau. Có thể trong lịch sử mỗi hành
động của Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh đều sẽ gây nên các biến cố lịch sử
nhưng trong tiểu thuyết điều này chưa hẳn đã xảy ra.
Trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp, lịch sử chưa hẳn đã là lịch sử
khách quan,là “sự thật lịch sử một cách tuyệt đối” mà đó là những khả năng”
như ơng từng viết:”... cịn điều mà chúng ta gọi là tri thức” thì được ủ bọc trong
trạng thái phôi thai, đúng hơn là ở trạng thái khả năng”. Điều này được thể hiện
Tõ nhất trong cái kết của truyện ngắn “Vàng Lửa”. Trong truyện ngắn này, nhà
văn đã đưa ra ba cái kết để người đọc tự chọn, tuỳ theo tâm thế, tầm đón đợi
của người đọc để tìm ra cái kết hợp lí nhất theo tâm niệm của chính người đọc:
Khơng có tài liệu gì và cũng khơng ai biết gì về thung lũng Quạ hoặc chuyện
của những người châu Âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi trong nhiều
năm nay vô hiệu. Tôi hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn đọc
tùy ý lựa chọn”.
Đoạn kết thứ nhất gợi cho ta cảm hứng khá “lãng mạn” ở chi tiết cuốn sổ
ghi chép của Phăng, phản ánh khao khát sự hoàn hảo về tinh thần và rất duy lí,
u cầu cái hồn hảo về tinh thần đó phải được đảm bảo về vật chất. Và tất cả
những gì Phăng đã trải nghiệm cũng chỉ là “những lí thuyết chắp vá đầy ngụy
biện; những mối bất hồ kì thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống
của chúng ta mong manh và kì ảo xiết bao”. Chi tiết này bao hàm ý nghĩa hàm
ẩn , nó cho thấy sự bất lực của cách viết” và “đọc” lịch sử từ một trung tâm tạo
nghĩa. Nó yêu cầu phải nhìn và đánh giá lịch sử khách quan ở nhiều nhãn quan
khác nhau, từ cái nhìn đa chiều, đa trung tâm bởi vì những gì chúng ta đã biết
chỉ là những lí thuyết chắp vá đầy ngụy biện”
Ở cái kết thứ hai, chúng ta đặc biệt lưu ý chi tiết Phăng trở về Pháp và”
Ông thường kể lại cho con cháu nghe về những kỷ niệm quá khứ, về những
biến cố ở xứ An Nam xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam mới là sự bắt
đầu lịch sử của quốc gia người Việt, khi này biên giới phân định, chữ viết có
gốc từ chữ La tinh phổ biến, người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng sợ của nền
văn minh Trung Hoa, có những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại”
Rõ ràng điều này được phản ánh từ cái nhìn của phương Tây, trong đó phương
Đông chỉ như một thực thể tồn tại và phương Tây. Theo đó, lịch sử của các
nước phương Đơng chỉ bắt đầu từ ngày phương Tây khám phá ra nó.
Kết thúc thứ ba phản ánh sự cực đoan dữ dội của chủ nghĩa dân tộc”, bài
xích, bác bỏ sự giao lưu văn hoá với các luồng văn hoá khác. Chi tiết này bao
hàm nhiều ý nghĩa. Triều Nguyễn là “một triều đại tệ hại”, nó “tìm cách tránh
mọi tiếp xúc với bên ngoài và rất ghét ai “nhắc lại mối quan hệ với người này,
người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người Việt, người Trung Hoa hay
người châu Âu nào khác.” Nó khơng chỉ thuần t nói về sự cơ lập văn hố, xã
hội của một triều đại trong lịch sử mà kết thúc này còn nhắc đến khả năng
“đọc” lịch sử một cách biệt lập, lấy chính mình làm trung tâm và cắt đứt những
tương tác từ bên ngoài.
Như vậy , ba kết thúc này khơng đóng lại câu chuyện mà nó tiếp tục đưa
lịch sử đến với những khả năng khác. Ta thấy, vấn đề mà “Vàng Lửa “nêu ra là
sự phủ nhận đối với tất cả những chế độ quyền lực đang áp đặt nghĩa cho lịch
sử, buộc con người phải nhìn nhận lịch sử theo một chiều hướng nhất định nào
đó phục vụ cho mục đích chính trị. Với ba kết thúc này, Nguyễn Huy Thiệp chỉ
nêu ra những giả thiết, những khả năng. Ơng khơng buộc người đọc phải tin
vào những gì ơng viết, cũng khơng áp đặt bất cứ kết thúc nào cho câu truyện,
ông để cho người đọc tự chọn cái kết thúc mà họ cho là hợp lý nhất, thậm chí ,
người đọc có thể tự đi tìm một kết thúc khác ngoài ba kết thúc mà nhà văn đưa
ra miễn là hợp lý.
Ở điểm nhìn của Nguyễn Huy Thiệp lịch sử luôn tồn tại ở trạng thái khả
năng vì vậy tác giả khơng bao giờ cố thuyết phục người đọc tin vào những gì
mình viết. Có lẽ do vậy tác giả đã xây dựng hình tượng người kể chuyện không
đáng tin cậy. Ta thấy, trước mọi biến cố trong cuộc đời nhân vật, tác giả thường
kể bằng một giả thuyết thiếu chắc chắn nhất. Ví dụ như trong “Kiếm sắc” tác
giả đã dùng cụm từ “nghe nói trước sự kiện Nguyễn Phúc Ánh sai đao phủ
dùng kiếm gia truyền của Lân để chém đầu Lân. Thậm chí người kể cịn nói rõ
mình đã can thiệp vào việc xây dựng truyện” Khi viết tơi có tự ý thay đổi một
vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện”.
Với việc xây dựng nhân vật người kể chuyện không đáng tin cậy, tác giả buộc
chúng ta khi tiếp cận tác phẩm phải tỉnh táo. Là một tác phẩm lịch sử, nó buộc
chúng ta phải nghi ngờ thứ lịch sử đã được xây dựng trong truyện. Với sự nghi
ngờ ấy, người ta sẽ tiến gần hơn với “sự thật”. Như chúng ta đã biết, tất cả các
tư liệu lịch sử, các hiện vật, biểu tượng, văn tự, lăng mộ, cung điện...chỉ có thể
giúp chúng ta nhìn rõ q khứ hơn, chứ khơng bao giờ là nhìn thấy một cách
chính xác tuyệt đối cả. Không chỉ dừng lại ở nhân vật kể chuyện không đáng
tin cậy, mà trong bộ ba tác phẩm này ta thấy tồn tại sự xen lẫn giữa hư cấu và
phi hư cấu, các yếu tố hoang đường kì ảo đã tạo ra cảm giác nghi hoặc trong
lòng bạn đọc. Những chi tiết nhuốm đầy màu sắc huyền thoại như “Khi chén,
máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại” (Kiếm
sắc) hay như trong “Phẩm tiết” tác giả viết về cảnh khi Vinh Hoa sinh ra” Khi
để Vinh Hoa trên nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, toả ánh sáng rực
rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có tràng hoa cuốn cổ,
x lịng bàn tay thấy có viên ngọc ở trong khắc hai chữ thiên mệnh”. Như vậy,
liệu có một câu hỏi chính xác về “sự thật lịch sử”, cái mà chúng ta vẫn coi là
“sự thật” sẽ dừng lại ở điểm nào trên nấc thang nhận thức của con người.
Với việc tạo ra các chi tiết khơng trùng khít với chính sử và các chi tiết
mang tính huyền hoặc tạo nghi ngờ cho bạn đọc, Nguyễn Huy Thiệp đã thành
công trong việc khơi gợi sự tò mò của bạn đọc về lịch sử và đưa ra những nhãn
quan khác nhau khi “đọc” và “viết lịch sử. Ta có thể khẳng định một điều rằng,
trong quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp lịch sử luôn tồn tại ở trạng thái khả
năng, nó chỉ những diễn ngơn, là những cách cắt nghĩa khác nhau về lịch sử
chứ chưa hắn nó đã là lịch sử khách quan. Vì vậy, khi tìm hiểu về lịch sử,
người đọc cần nhìn nó với cái nhìn đa chiều nhiều trung tâm để có thể tiến gần
hơn với “sự thật lịch sử”.
Chương 2: Biểu hiện Quan niệm về lịch sử trong chùm truyện
ngắn giả lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp
2.1. Cách thể hiện đề tài mang tính chất phản đề
Nguyễn Huy Thiệp khơng phải là người đầu tiên cũng như duy nhất lấy đề
tài, chất liệu từ lịch sử. Tuy nhiên, nhà văn lại có cách khai thác riêng, làm cho
lịch sử “nổi loạn” qua mỗi tác phẩm. Truyện ngắn viết đề tài lịch sử của ông
như Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị Lộ là những
truyện tiêu biểu. Nó gây men hoài nghi đối với người đọc ở hầu hết các phương
diện từ đề tài đến nhân vật, cốt truyện, lối kể chuyện…
Năm 1988, bộ ba truyện ngắn Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết ra mắt khiến
dư luận xôn xao. Sau đó hai năm là Nguyễn Thị Lộ, rồi tiếp theo hai năm
là Mưa Nhã Nam tiếp tục gây tranh luận. Nói một cách chính xác hơn, trên văn
đàn Việt Nam, đấy là những tác phẩm “gây sốc”.
Nguyễn Huy Thiệp đặt vấn đề lịch sử bằng cách của một người viết tiểu
thuyết và tiếp cận lịch sử bằng cái nhìn của một nhà hồi nghi chủ nghĩa. Lịch
sử trong tác phẩm của ơng người ta khơng tìm thấy trong chính sử mà dã sử
cũng chẳng phải. Nó là mơt kiểu lịch sử “không sử sách nào nhắc đến”, một
kiểu lịch sử “như tơi biết”, có thể khơng giống với những gì người đời đã biết.
Nguyễn Huy Thiệp đưa ra trong tác phẩm của mình những khả năng khác
của lịch sử, những cái “có thể”. Nó là những điều chưa được biết đến trong
kinh nghiệm cộng đồng và làm đảo lộn nhiều kinh nghiệm đã có của cộng
đồng. Bởi cộng đồng mới chỉ biết đến Đề Thám như một “Hùm xám Yên Thế”
- không biết “ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược”; cộng
đồng chỉ quen nhìn “Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ
hại” mà quên mất rằng “đây là mơt triều đình để lại nhiều lăng”; Cộng đồng
cũng chưa bao giờ nói Nguyễn Ánh “là một khối cơ đơn khổng lồ”, Nguyễn
Huệ là một “người tài bị giời đày” hay Nguyễn Trãi “cô đơn giữa đời như một
hành tinh hoặc một ngọn gió”.
Đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp là một phản đề. Nhưng nhà văn
không qui chụp. Nhà văn chỉ đưa ra những khả năng, những giả thiết. Có nghĩa
rằng lịch sử chỉ còn là những chất liệu, là phương tiện để xây dựng tác phẩm.
Nguyễn Huy Thiệp không viết sử, không viết Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm
tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam để phản ánh một cái nhìn lịch sử như cách
viết truyền thống. Ơng dùng chất liệu quá khứ để nói chuyện hiện tại, lấy đề tài
lịch sử để nói chuyện mn đời.
Ở Nguyễn Huy Thiệp, lịch sử vẫn còn là một cách đặt vấn đề. Nó là một
lịch sử hư cấu có dụng ý. Nó khơng bắt người đọc phải tin nhưng nó làm người
đọc phải nghĩ. Nó gây men nghi ngờ hiện thực. Hóa ra tất cả những gì chúng ta
biết chỉ là những khả năng, “biết hay không biết chỉ là những ước lệ, mơ hồ có
tính lịch sử và hạn chế”. Phản đề lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp chạm đến niềm
tin bất khả xâm phạm của nhiều người, có thể bị coi là “bắn súng lục vào quá
khứ”. Song một tinh thần hồi nghi “bắt cả dân tộc soi lại mình” ở đây là tinh
thần của khoa học.
Đề tài lịch sử ở Nguyễn Huy Thiệp tạo ra một sự nghi ngờ gợi mở sáng tạo.
Hóa ra người ta có thể viết như vậy về quá khứ, liệu có cách nghĩ, cách viết nào
khác? Hóa ra lịch sử có thể diễn ra như vậy, có thể được nhìn nhận như vậy,
liệu có cịn một lịch sử khác, một hiện thực nào nữa? Nhà văn cảnh tỉnh người
đọc trước cái nhìn một chiều về quá khứ. Dùng quá khứ như một phương tiện
nghệ thuật để chuyển tải nội dung, tư tưởng, dùng những phản đề lịch sử với
một cách xử lí vấn đề hết sức mới mẻ và hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp đã mang
đến một lối suy nghĩ, lối tư duy mới khách quan và tồn diện hơn về lịch sử nói
riêng và đời sống nói chung.
2.2. Con người trần trụi , bản năng trong truyện ngắn lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp.
Trong ba tác phẩm “Kiếm sắc: Vàng lửa; Phẩm tiết”, Nguyễn Huy Thiệp đã
xây dựng nên diện mạo mới cho các nhân vật lịch sử tưởng như đã quá quen
thuộc. Nhân vật ấy có thể là anh hùng của dân tộc như Nguyễn Huệ hay nhà
văn nhà thơ được người đời kính ngưởng như Nguyễn Du, nhân vật ấy cũng có
thể là Nguyễn Ánh , người đã trùng hưng lại cơ đồ cho nhà Nguyễn. Cho dù là
ai đi chăng nữa, đó cũng là những nhân vật biểu tượng cho sự thiêng liêng bất
khả xâm phạm trong tâm thức của cộng đồng. Tuy nhiên, Nguyễn Huy Thiệp
khơng khai thác những hình tượng này ở những chiến cơng, với những mưu mơ
chính trị mà ơng khai thác những hình mẫu lịch sử ấy trong những khía cạnh
đời thường, trả người anh hùng về cuộc sống thường nhật với số phận cá nhân
của chính họ.
Ví dụ như khi nói về nhân vật Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải gần như
đã trở thành một vị thánh trong tâm thức cộng đồng người Việt. Theo nhà sử
học Đỗ Bang, có ít nhất 25 cuốn sách viết về tài thao lược và ca ngợi phẩm
chất của vua Quang Trung trên nhiều phương diện khía cạnh khác nhau, chưa
kể một loạt những cuốn sách lịch sử mang tính chính thống như Việt Nam sử
lược, Đại cương lịch sử Việt Nam tồn tập ... Với những chiến cơng vĩ đại, bốn
năm làm vua, hai lần đại thắng quân xâm lược Xiêm la và Mãn Thanh khiến
cho ánh nhìn về Nguyễn Huệ chủ yếu chú trọng đến các chiến thắng lực chói
ấy mà coi nhẹ các chi tiết đời thường khác. Tuy nhiên trong các sáng tác của
mình, Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vị anh hùng ấy trở về với đời sống. Trong
Phẩm tiết người anh hùng áo vải cờ đào cũng có khi tức giận, nóng nảy khơng
kiềm chế với những lời lẽ lăng mạ kẻ khác:” Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu,
khinh ta quá chừng! Trời cho mày sống, cướp không biết bao nhiêu lộc thiên
hạ, ăn miếng ngon khơng biết đây mồm, cịn chê là lợm. May nhờ phúc tố, có
ít của chìm, như cái đuôi khô, tháng ba ngày tám mang ra gặm tưởng xênh
xang ư?” hay như khi nhìn thấy sắc đẹp của Vinh Hoa, Quang Trung cũng có
những hành động như của một người bình thường, biết yêu và thưởng thức cái
đẹp” Nhà vua thấy Vinh Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu
quý cầm tay “, hay ngay cả khi nhà vua mất cũng “chết không nhắm mắt” có lẽ
do cho đến khi chết Quang Trung cũng khơng chiếm được Vinh Hoa làm của
riêng của mình, khơng được thành thân với Vinh Hoa” Khi lâm chung, có Vinh
Hoa đúng hầu bên giường, nhà vua nhìn mãi Vinh Hoa mà khơng nhắm mắt.
Cả triều đình thương cảm. Con trai nhà vua là Nguyễn Quang Toản vuốt mắt
cho cha nhưng hề buông tay ra mắt nhà vua lại mở trừng trồng. Đến cả Hoàng
hậu Ngọc Hân cũng thế. Sang Vinh Hoa phải lấy ngón tay tát của mình đặt lên
hai mi mắt nhà vua thì mắt nhà vua mới nhắm lại được. Sau đấy, chỗ ngón tay
út của Vinh Hoa đen như chàm, rửa thế nào cũng không sạch”. Ta có thể thấy
cách viết của Nguyễn Huy Thiệp về Quang Trung có điểm giống với “ Hồng
Lê nhất thống chí” đều sử dụng ngơn ngữ bình dị dân dã Như khi Nguyễn Hữu
Chỉnh nói với Quang Trung ý nghĩ muốn kết tình thơng gia của vua Lê, Quang
Trung đã nói:” Vì dẹp loạn mà ra, để rồi mà lấy vợ về, bọn trẻ nó cười cho thì
sao. Tuy nhiên, ta mới chi quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc hà, nay
cũng nên thử một chuyến xem có tốt khơng”. Đây là thứ ngơn ngữ bình dị,
chân thực khơng kiểu cách cầu kì. Nó rất gần với ngơn ngữ của Quang Trung
trong “Phẩm tiết”.
Hay khi viết về Nguyễn Ánh, một người đã có cơng trùng hưng lại nhà
Nguyễn “một triều đại tệ hại” nhà văn đã sử dụng những chi tiết hết sức đời
thường với cái nhìn độc đáo. Rõ ràng là vua của một nước nhưng không sử
dụng ngôn ngữ trang trọng mà vua một nước cần phải có. Khi tức giận vị vua
ấy cũng sẵn sàng chửi tục” Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê tr? Ta cho
cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt” hay như khi nhìn thấy Vinh Hoa bị trói khơng
mảnh vải che thân “ Nhà vua đến gần, thấy Vinh Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây
xẩm mặt mày. Nước thơm từ cung xuân Vinh Hoa tiết ra thơm ngát như mùi
hoa sữa. Nhà vua thở dài , ngã quay ra đất ngất lịm đi” Cho dù là vua của một
nước hay là ai đi chăng nữa cũng có sự dung cảm sâu xa với cái đẹp, cũng có
những nhu cầu bản năng của một con người bình thường. Khác với Nguyên
Huệ luôn trân trọng Vinh Hoa , chiều theo những ý muốn của cô dù cũng muốn
được thành thân với cơ thì Nguyễn Ánh chỉ muốn sở hữu nàng như “muôi con
gà, con vịt trong nhà”. Nhà vua muốn chiếm thể xác của Vinh Hoa, khi được
Nguyễn Văn Thành can ngăn nhà vua đã nói : “Thế là Huệ dại, Huệ trọng tinh
thần mà bị thế xác”, “... Bậc đế vương giữ nước là ở tinh thần, cịn giữ mình là
thể xác”
Dù là Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ họ đều là những con người cô đơn. |
Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng những chi tiết rất đắt để nêu bật bản chất bi kịch
của bậc đế vương” chỉ được quyền cao cả, không được quyền để tiện” của
những người tài, bị trời hành” của những khối cô đơn khổng lồ”. Họ là những
số phận cá nhân xuất chúng. Họ cũng là những giới hạn, những bi kịch, bi kịch
của nỗi cô đơn, bi kịch bị lịch sử lựa chọn. Có lẽ đó là nguyên nhân Nguyễn
Ánh đã thốt lên “Ta chỉ thích làm người thường thơi”. Nhà văn như muốn “đối
thoại” với quan điểm coi người anh hùng như ý chí tuyệt đối, hình mẫu lí
tưởng, làm “phá sản” quan điểm thiêng liêng hoá, thần thánh hoá con người.
Nguyễn Huy Thiệp chọn những nhân vật lịch sử từ lâu đã là một hình mẫu tồn
vẹn , một hình ảnh bất khả xâm phạm trong tâm thức cộng đồng người Việt.
Nhà văn đã tạo nên một sự đảo lộn trong nhận thức của bạn đọc. Nhân vật như
một niềm tin tuyệt đối bị phá vỡ, bị nghi ngờ.Người anh hùng được soi chiếu
bởi nhiều “ luồng sáng” khác nhau, được đặt dưới những cái nhìn đa dạng, đa
chiều để trở thành một con người đích thực. Cách đề xuất này về con người đã
chống lại những tư tưởng phong thánh con người đưa con người trở về cuộc
sống đời thường. Có lẽ cũng vì vậy nhân vật lịch sử trong truyện ngắn của ông
trở thành biểu tượng cho khát vọng đời thường hết sức nhân bản.
Nguyễn Huy Thiệp đã cho người đọc những cách nhìn mới về những niềm
tin cũ. Ông giễu nhại sự cả tin của con người, bởi thực chất con người là hữu
hạn , là bất toàn. Dù là bậc đế vương hay những con người bình thường khơng
có ai là tồn vẹn cả. Các nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp buộc người
đọc phải nhận thức lại lịch sử và con người lịch sử. Người tốt liệu có phải
khơng bao giờ xấu? Và người xấu liệu có phải khơng tồn tại bất kì chút tốt đẹp
nào?...Hàng loạt các vấn đề được nêu ra đã khơi gợi hàng loạt những câu hỏi về
cá nhân, về cuộc đời, về con người và về lịch sử. Nó buộc người đọc phải xem
lại tồn bộ những gì mà mình đã biết kể cả những niềm tin kề như là bất khả
xâm phạm. Qua đây, ta đã hiểu thêm phần nào về quan điểm khi nhìn nhận các
nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp.
2.3. Cốt truyện “mở” và nhân vật người kể chuyện không đáng tin cậy
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường gợi cho người đọc cảm giác
chưa kết thúc. Nhà văn sử dụng kiểu cốt truyện khép kín, mỗi truyện như một
sự lắp ghép của những truyện nhỏ hơn, có thể dừng lại ở đó mà cũng có thể cịn
kéo dài. Người đọc có thể suy nghĩ, bàn bạc, dự đoán… để tham gia “đối
thoại”. Nguyễn Huy Thiệp xây dựng nhiều điểm nhìn khác nhau, như tập hợp
các điểm nhìn độc lập với nhau có sức mạnh ngang nhau, nhà văn chỉ là người
tường thuật lại những cách nhìn ấy. Tiêu biểu là truyện “Vàng lửa”, có điểm
nhìn của Phăng (Nhật kí của Phăng), của người Bồ Đào Nha kể lại và ba điểm
nhìn từ 3 cách kết thúc truyện. Điều này là cho kết cấu truyện tưởng như rời
rạc, lỏng lẻo, nhưng kỳ thực lại kết dính với nhau ở mạch ngầm tư tưởng sâu
sắc. Đồng thời, lối xây dựng cốt truyện, kết cấu như vậy chính là một cách để
tạo khơng khí “hồi nghi” cho bạn đọc. Nhà văn luôn sẵn sàng “đối thoại”, mỗi
chi tiết nêu ra dường như đều nhằm kích thích suy nghĩ, phán đốn của người
đọc, khuyến khích họ nghi ngờ và tự tìm tịi, khám phá ý nghĩa câu chuyện.
Kết thúc thứ nhất khá “lãng mạn” ở chi tiết cuốn sổ ghi chép của Phăng,
phản ánh sự khao khát cái hoàn hảo tinh thần và – rất duy lý – u cầu cái hồn
hảo tinh thần đó phải được bảo chứng bằng vật chất. Chi tiết này hàm nghĩa sự
bất lực của những cách “viết” và “đọc” lịch sử từ một trung tâm tạo nghĩa: tất
cả những gì Phăng đã trải nghiệm qua, rốt cục, chỉ là “những lý thuyết chắp vá
đầy ngụy biện; những mối bất hòa kỳ thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh
nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao”.
Kết thúc thứ hai đặc biệt đáng lưu ý ở chi tiết Phăng trở về Pháp và “viết
lại” lịch sử Việt Nam bắt đầu từ những ngày anh ta đến: “Ông thường kể lại
cho con cháu nghe về những kỷ niệm quá khứ, về những biến cố ở xứ An Nam
xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam mới là sự bắt đầu lịch sử của quốc gia
người Việt, khi này biên giới phân định, chữ viết có gốc từ chữ La tinh phổ
biến, người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng sợ của nền văn minh Trung Hoa,
có những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại.” Rõ ràng điều này phản
ánh cái nhìn lý tính của phương Tây trong đó phương Đơng chỉ là một thực thể
tồn tại vì phương Tây và cho phương Tây. Kết thúc này gợi mở hướng “đọc”
lịch sử theo con mắt phương Tây, theo đó, lịch sử phương Đơng bắt đầu từ
ngày phương Tây khám phá ra nó.
Kết thúc thứ ba phản ánh sự cực đoan dữ dội của thế lực dân tộc chủ nghĩa
trong việc bài bác các yếu tố giao lưu và sự tương tác với các luồng văn hóa
khác. Chi tiết cuối cùng bao hàm nhiều ẩn ý: Triều Nguyễn là “một triều đại tệ
hại” – một trong những tệ hại của nó là “tìm cách tránh mọi tiếp xúc với bên
ngồi” và khơng bao giờ “nhắc lại mối quan hệ với người này, người nọ khi
nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người Việt, người Trung Hoa hay người châu Âu
nào khác”. Khơng chỉ thuần túy nói về sự cơ lập văn hóa xã hội của một triều
đại trong lịch sử, kết thúc này nhắc đến khả năng “đọc” lịch sử một cách biệt
lập, lấy chính mình làm trung tâm và cắt đứt những tương tác từ bên ngồi.
Như vậy, ba kết thúc này khơng đóng lại câu chuyện mà tiếp tục đưa lịch sử
đến với những khả năng tái cấu trúc tiếp sau. Khi đọc Vàng lửa như một dụ
ngôn lịch sử, chúng tôi nhận thấy ở đó khả năng hình thành một dịng chảy văn
hóa mới từ những tiếng nói ngoại biên, vẫn tồn tại im lặng bên cạnh những
tiếng nói chiếm vị thế trung tâm – ở đây là tiếng nói của một nhà văn thời đại
mới đang lật lại vấn đề cái nhìn lịch sử chứa đựng trong những trang bản thảo
cũ. Dù chưa thật sự hình thành trọn vẹn nhưng diễn ngơn lịch sử mới đang thấp
thống nảy mầm từ chính tâm thế bất an, hồi nghi và cái nhìn riết róng đó.
Vấn đề mà Vàng lửa nêu ra là sự phủ nhận đối với tất cả những trung tâm
quyền lực đang áp đặt nghĩa cho lịch sử, và hé mở một cánh cửa của sự đa
nghĩa và giải tâm vốn là lực đẩy cho sự hình thành tiềm lực phát triển văn hóa
cho bất cứ nền văn hóa hậu thực dân nào.
Một yếu tố rất đặc biệt khác trong các truyện “giả lịch sử” của Nguyễn Huy
Thiệp là nhân vật kể chuyện. Với lối kể chuyện không áp đặt, người kể chuyện
ở đâu cũng có vị trí ngang bằng, thậm chí thấp kém hơn người đọc, đưa ra một
số câu chuyện “như tôi biết”, đối khi công khai sự nhầm lẫn của mình. Điểm
nhìn trong các câu chuyện này thường là điểm nhìn bên ngồi, người kể chuyện
chỉ như một người quan sát và thuật lại, không đi sâu vào thế giới nội tâm nhân
vật, nếu người đọc muốn biết thì hãy tự hỏi và tự trả lời. Người kể chuyện
nhiều khi cịn khơng biết rõ câu chuyện, khơng biết rõ kết thúc chuyện.
Trong bộ ba “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết”, người đọc dễ dàng nhận ra
những chí tiết mâu thuẫn như chi tiết về cái chết của Đặng Phú Lân và câu
chuyện về tổ phụ của ông Quách Ngọc Minh là Đặng Phú Lân và Ngô Thị Vinh
Hoa trong “Kiếm sắc”… Bên cạnh đó là việc tác giả dựng những nhân chứng,
vật chứng cịn sót lại như ông và lời kể của ông, ngôi mộ đồn là của bà Ngơ Thị
Vinh Hoa… Nó cịn làm cho câu chuyện nửa thực nửa hư, nửa đáng tin nửa
đáng ngờ. Nó vừa như một truyền thuyết, vừa như một giai thoại. Người kể
chuyện vừa viện dẫn đến những “Nhật kí của Phăng”, lời kể của người Bồ Đào
Nha, của ông Quách Ngọc Minh, thậm chí là một lời đồn đại khơng rõ nguồn
gốc từ đâu, kiểu như: “nghe nói…”, “đồn rằng…”. Những đồn đại ấy thường
manh những yếu tố kỳ ảo: “Nghe nói, Nguyễn Phúc Ánh đã sai đao phủ dùng
thanh kiếm gia truyền của Lân để chém đầu Lân. Khi chém đầu, máu phun ra
không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại” (Kiếm sắc) hay “đồn
rằng hơm ấy có rồng bay trên sơng Cái” (Nguyễn Thị Lộ). Lối kể chuyện ấy
buộc người đọc phải nghi ngờ. Nhân vật kể chuyện ấy quả thật không đáng tin
cậy.
“Phẩm tiết”, ở góc độ nào đó là cuộc đối thoại lớn của hai nhân vật tầm cỡ
trong lịch sử - đối thoại của những quan niệm về tình yêu, lẽ sống, thái độ với
các đẹp. Vinh Hoa trong cái nhìn của Quang Trung: “Ta được Vinh Hoa như
được một báu vật”, với Gia Long: “Ta muốn sở hữu nàng như nuôi con gà, con
vịt trong nhà”. Vinh Hoa nhìn Quang Trung với cái nhìn trân trọng, nàng “ăn
nói khoan hịa, cư xử thơng minh lịch lãm” trong thời gian ở với Quang Trung,
và nàng nhìn Gia Long: “Thế bệ hạ muốn làm vua gà, vua vịt hay sao?”. Gia
Long nhìn Quang Trung: “Thế là Huệ dại, Huệ trọng tinh thần mà bỉ thế xác…
bậc đế vương giữ nước là ở tinh thần, giữ mình là ở thế xác”. Như vậy, tinh
thần đối thoại với bạn đọc thể hiện rất rõ trong các truyện ngắn lịch sử của
Nguyên Huy Thiệp. Nó vừa là một cách để kích thích suy nghĩ của bạn đọc,
cũng là một yêu cầu đối với nhà văn luôn sẵn sàng đối thoại, phải tự vấn mình
một cách nghiêm khắc trước bạn đọc.
Có thể thấy một đặc điểm quan trọng về cốt truyện, điểm nhìn và lối kể
chuyện trong truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp là khơng đơn nhất.
Điểm nhìn thường xuyên di động. Các nhân vật trong sáng tác của ơng ln tồn
tại trong điềm nhìn khơng phải chỉ là của người trần thuật, người kể chuyện mà
còn, thậm chí cơ bản trong cái nhìn của các nhân vật khác. Bên cạnh đó, nhân
vật của Nguyễn Huy Thiệp cịn nhìn nhau, nhìn mình và dường như ít nghĩ:
hình ảnh của người này trong con mắt của người kia không tồn tại được lâu
bằng sự phân tích của lí trí mà dường như tồn tại trong cái bột phát tự nhiên
của những cái nhìn tình cờ. Chính sự khơng đơn nhất trong lối kể chuyện ấy đã
góp phần rất lớn tạo nêm tinh thần hồi nghi, khơng khí đối thoại dân chủ cho
các tác phẩm. Người đọc có hồi nghi nên mới tranh luận, và họ có quyền lựa
chọn cho mình một cách tiếp cận vấn đề. Đó là lý do vì sao truyện ngắn lịch sử
của Nguyễn Huy Thiệp là những tác phẩm đa nghĩa, đa chiều, nói được những
ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, những qui luật muôn đời của đời sống. Mỗi người
đọc đến với tác phẩm sẽ hồi nghi một cách riêng và tìm ra những giá trị riêng
cho mình. Đề tài và nhân vật lịch sử sẽ chỉ còn là những luận đề, khơi gợi suy
nghĩ của độc giả.
Chương 3:Những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong một số
truyện viết về đề tài lịch sử
Có thể thấy rằng trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện
tinh thần hồi nghi lí trí, tấn cơng mạnh mẽ vào chủ nghĩa duy lí. Nhà văn
mang đến một cách nhìn khác tồn diện, đầy đủ hơn về cuộc đời và con người
dựa trên cơ sở của tinh thần hồi nghi. Đồng thời, ơng cũng đề cập đến những
quan điểm mới có tính chất cách tân trên cả hai phương diện sáng tác và tiếp
nhận.
3.1.Từ phương diện sáng tác…
Ở phương diện sáng tác, truyện lịch sử Nguyễn Huy Thiệp đặt một dấu hỏi
về quan điểm hiện thực trong văn học. Người ta buộc phải hồi nghi ngay
chính cái thế giới mà mình biết, hồi nghi chính lí trí của mình. Bản thân hiện
thực, bản thân thế giới đã là một sự hư cấu. Lịch sử cũng vậy - được hình thành
do những nhận thức cá nhân nhiều hạn chế. Nguyễn Huy Thiệp đã làm đảo lộn
lịch sử nhưng thực chất là dùng lịch sử làm phương tiện để lên men nghi ngờ lí
trí, khiến người đọc phải nhìn nhận hàng loạt vấn đề, đặt biệt là bản chất của
đời sống cộng sinh, những bi kịch cá nhân, số phận cá nhân trong lịch sử. Hư
cấu cả những tên tuổi có thật, hư cấu quá khứ trở thành một thủ pháp quan
trọng nhằm thể hiện những tư tưởng của nhà văn. Đọc văn Nguyễn Huy Thiệp,
đặc biệt là đọc truyện viết về đề tài lịch sử của ông nếu tiếp thu và giải mã dưới
hệ qui chiếu xã hội học, thiếu chiều sâu nhân bản người đọc sẽ không thể hiểu
được hết nội dung ông viết, không thể đánh giá đúng về ông.
Mỗi truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp dưới cái vỏ bọc ngồi là lịch
sử ẩn chứa trong đó tầng tầng lớp lớp những chiều sâu suy tưởng. Ông đã tạo ra
một lối viết mở mà cứ mở được cánh cửa này, người ta lại thấy một cánh cửa
xa hơn phía trước. Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam và Nguyễn
Thị Lộ… đều là những truyện ngắn sáng tác với tinh thần dân chủ triệt để. Đặt
lại vấn đề vốn rất quen thuộc với lịch sử dân tộc, nói đến những nhân vật ở
“tầm cỡ” vĩ nhân nhưng nhà văn giải thiêng lịch sử, giải thiêng thần tượng.
Ông muốn để chúng ta tiếp cận với hiện thực lịch sử đó đa chiều như bản chất
vốn thế của cuộc sống, để chúng ta nhìn nhận những nhân vật anh hùng trong
lịch sử ở góc độ cá nhân, góc độ con người với nhân bản cao cả. Đó cũng là
cách đánh giá đúng đắn cho mọi vấn đề trong cuộc sống. Chọn những nhân vật
nổi tiếng nhà văn chỉ muốn tập trung hơn nữa sự đối thoại của người đọc bởi
đó những con người ai cũng biết, và đều biết như lịch sử đã viết. Từ “cái đã
biết” đi đến “cái chưa biết” Nguyễn Huy Thiệp đã dám chấp nhận dư luận, dám
gây hấn và “khiêu chiến” để xác định cho con người một cách tiếp nhận mới.
Thông điệp mà nhà văn đề xuất thật ra là qui luật của mn đời. Khơng có chân
lí tuyệt đối, càng khơng có những con người hồn mĩ. Vì vậy, với những khao
khát cá nhân trong chừng mực của con người đều cần được nhìn nhận với sự
trân trọng và chia sẻ.
Mỗi chi tiết trong truyện Nguyễn Huy Thiệp đều là “điểm rơi” của tư
tưởng, chi tiết nào nào cũng đầy sức gợi và có khả năng kích thích đối thoại rất
mạnh. Chi tiết sau đây chẳng hạn rất tiêu biểu cho cách thức dồn nén thông tin
của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: “Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khơi ngơ, ăn
nói khoan hịa mà thủ đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở ln bên mình. Một
lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân.
Bấy giờ co con cá sấu rất to bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi
người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thốt.
Ánh hỏi: “Ai vì nước Việt mà chết?”. Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có
Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: “Trượng phu quí mạng sống thế à?” Lân
chắp tay: “Chúa công đừng giận. Nước Việt thì khơng ai hại được. Cịn thốt
hàm cá sấu thì cần gì phí một mạng người”. Nói rồi nhăt hịn đá ở mạn thuyền
ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ
thuyền, lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: “Thế này thì nghiệp ta
thế nào trời cũng cho thành” (Kiếm sắc).
Muốn thật sự nắm được tư tưởng của Nguyễn Huy Thiệp thì chi tiết phải
đặt trong mối quan hệ văn bản và liên văn bản. Nhà văn để cho nhiều nhân vật
trong nhiều truyện khác nhau phát biểu những ý kiến rất khác nhau về mọi vấn
đề và đó là lượng thơng tin ơng muốn chuyển đến tùy bạn đọc lựa chọn cách
cho phù hợp với mình. Có thể nói Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định thành
cơng khát vọng dân chủ hóa nghệ thuật của thời đại bằng kiểu “người kể
chuyện khơng đáng tin cậy”. Đó là người kể chuyện kém cỏi, không biết hết,
đứng thấp hơn bạn đọc, thường xuyên nhầm lẫn và cố ý cho bạn đọc thấy sự
nơng cạn, sự hồi nghi của mình về chính những điều mà mình đang kể. Anh ta
nhiều lúc phải viện đến “các tư liệu cố”, các “lời đồn đại” thế mà có lúc bất lực
đành “rủ rê” bạn đọc “hợp tác” kể chuyện. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Huy
Thiệp đã đánh mạnh vào thói quen tiếp nhận lười nhác, thụ động của bạn đọc,
gây hấn với họ, tra vấn họ.
3.2. … Đến phương diện tiếp nhận
“Viết, với nhà văn là một sự tự ý thức, một nhu cầu tự biểu hiện. Nhưng
văn chương nói riêng, nghệ thuật nói chung chỉ thật sự có ý nghĩ khi nó được
tiếp nhận bởi công chúng”[2, 30]. So với văn học 1945-1975, tinh thần đối
thoại là biểu hiện của sự đổi mới quan trọng, nó gắn liền với tư tưởng về một
hiện thực đa chiều, không thể biết hết, không thể biết trước. Nhà văn khơng
“mách nước”, khơng áp đặt chân lí. Mỗi hiện tượng đời sống bị chi phối bởi
hàng loạt yếu tố ngẫu nhiên và tất yếu nên có nhiều khả năng vận động khác
nhau.
Nằm trong tinh thần ấy, như đã phân tích truyện lịch sử của Nguyễn Huy
Thiệp đã thể hiện quan niệm mới về bạn đọc, cũng đòi hỏi một cách đọc mới,
một cách tiếp cận mới. Nhà văn khơng áp đặt chân lý, cũng có nghĩa là người
đọc phải tự mình đi hết chiều sâu của tác phẩm, bóc tách từng lớp nghĩa theo
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nhận thức của cá nhân mình. Nguyễn Huy
Thiệp viết theo hướng muốn đối thoại trực tiếp với bạn đọc, lường trước những
mối nghi ngờ trong lòng bạn đọc và gài sẵn câu trả lời trong tác phẩm. Phần
nhiều các câu chuyện đều bỏ lửng như cái hiện thực được diễn tả trong đó vẫn
đang trơi chảy. Một tình huống tác giả có thể đưa ra nhiều cách kết thúc, đã có
người bảo thấy nhân vật chết rồi “lại có tin đồn rằng” trái hẳn.
Đặc biệt, lối kết cấu “mở” là một cách tích cực để người đọc tham gia vào
câu chuyện. Đoạn kết của “Vàng lửa” là một cách tạo nên kết cấu ấy, tạo nên
những “khoảng trống” để người đọc bước vào. Lối viết đa chiều của Nguyễn
Huy Thiệp cho người đọc làm quen với sự nghi ngờ và những khả năng của đời
sống. Nhà văn tôn trọng và khuyến khích sự đối thoại của người đọc, những
suy tưởng của họ. Ông viết như thể là dành riêng cho những độc giả “đặc
tuyển”, những người biết đọc, biết cảm nhận sự hồi nghi, những người có nền
tảng văn hóa tốt. Đó là một quan niệm mới về người đọc, cũng là yêu cầu đổi
mới cách đọc khi tiếp cận văn chương hiện đại. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Huy
Thiêp đã từng tâm sự: “…văn chương chỉ là một bộ phận của đời sống mà thôi.
Mà đã là đời sống thì phải đối xử như đời thường. Huyễn hoặc chính mình, coi
mình là thiên chức nâng cái nghiệp lên thành thàn bí thì ắt sinh ra chứng coi
thường bạn đọc. Nhân vật, sự kiện trong truyện của tôi chỉ là những mảng,
những khối của cuộc sống. Tôi cho chúng tiềm nhập một cách tự nhiên. Truyện
của tôi kết thúc thường khơng có hậu. Đã có hậu thì răn dạy mất rồi, rằng
cuộc đời này sao mà đơn giản. Mà tơi thì răn dạy được ai. Vậy có lẽ ở đời, ăn
nhau là ở cái thật”[ 17, tr 5].
Có thể thấy rằng tinh thần hoài nghi là một yếu tố của tư duy nghệ thuật
Nguyễn Huy Thiệp. Nó bao trùm kên hầu hết các yếu tố của tác phẩm: đề tài,
nhân vât, cốt truyện, cách kể chuyện…Nó chi phối đến cách nhìn, cách xây
dựng hình tượng… của nhà văn. Đó là cách đặt vấn đề lịch sử như những phản
đề, nhân vật như những xác tín bị nghi ngờ và cốt truyện “mở”, người kể
chuyện “không đáng tin cậy”.
Truyện lịch sử Nguyễn Huy Thiệp để lại những ám ảnh đặc biệt trong lịng
bạn đọc, góp phần tạo nên một cách tiếp cận văn học mới, đi sâu vào bản chất
các tư tưởng nghệ thuật mang tầm triết học. Nó khơi mở những vấn đề thuộc về
quy luật của đời sống, tác động sâu sắc đến nhận thức của con người hiện đại.
Bằng lối viết trên tinh thần hoài nghi, kích thích tinh thần hồi nghi, Nguyễn
Huy Thiệp đã tiếp cận nhiều chân lí thời đại thơng qua các chất liệu lịch sử.
Người đọc có dịp “soi lại mình”, soi lại cả cộng đồng mình, đặt ra những câu
hỏi “Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?”. Truyện
lịch sử Nguyên Huy Thiệp khơng dài, cũng khơng hồnh tráng đồ sộ nhưng nó
là một khối tư tưởng lớn mang đậm chất nhân văn chủ nghĩa.
Tơi hi vọng rằng sẽ có dịp trở lại vấn đề lịch sử trong chùm truyện ngắn
lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp Bởi lẽ đây là môt vấn đề thuộc về bản chất
trong sự sáng tạo văn học nghệ thuật cũng như khoa học. Văn học Việt Nam
đương đại xem tinh thần hoài nghi thường kèm theo là tinh thần đối thoại và
cấu trúc trần thuật mở là những biểu hiện cơ bản cho sự đổi mới của mối quan
hệ nhà văn – bạn đọc. Cuộc sống vẫn tiếp tục trơi chảy và cuốn theo đó là tất cả
nhiều vấn đề. Cái đến hôm nay tất yếu không bao giờ giống cái hôm qua. Đây
là qui luật đã trở thành chân lí. Và có lẽ vì thế chúng ta cần phải nhìn nhận mọi
thứ bằng cái nhìn “cập nhật”, bằng chính sự trải nghiệm cá nhân. Văn học, đặc
biệt là văn Nguyễn Huy Thiệp rất cần tiếp nhận với một thái độ dân chủ ấy.
KẾT LUẬN
Với việc tìm hiểu ba tác phẩm Kiếm sắc: Vàng lửa; Phân tiết chúng ta có
thể thấy được những thơng điệp khác nhau ẩn chứa sau mỗi con chữ. Qua đó,
mỗi người có thể nhận ra quan niệm về lịch sử cũng như về con người của tác
giả. Nhờ vậy, bạn đọc có thể rút ra những bài học kinh nghiệm khi nhìn nhận
đánh giá bất kì một sự kiện lịch sử nào. Trong tác phẩm, nhà văn ln hướng
bạn đọc đến cái nhìn đa chiều, đa trung tâm, phá vỡ mọi nhận thức trước đây
của cộng đồng về các nhân vật lịch sử cũng như là các sự kiện lịch sử...