Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2013
THÔNG BÁO KHOA HỌC
TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI CUA BIỂN
MANG ĐỘC TỐ Ở NHA TRANG - KHÁNH HÒA
STATUS OF EXPLOITATION AND UTILIZATION OF SOME POISONOUS CRABS
IN NHA TRANG - KHANH HOA
Lê Thị Hồng Mơ1, Trần Văn Dũng2
Ngày nhận bài: 28/9/2012; Ngày phản biện thông qua: 10/4/2013; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013
TÓM TẮT
Ngộ độc thực phẩm đang là một trong những mối quan tâm chính của tồn xã hội. Mỗi năm nước ta có hàng trăm vụ
ngộ độc thực phẩm liên quan đến các loài sinh vật biển mang độc tố. Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2011 - 2012 nhằm
cung cấp những thơng tin về tình hình khai thác và sử dụng một số lồi cua biển mang độc tố tại Nha Trang - Khánh Hòa.
Các mẫu cua biển được thu gom tại các cảng và các chợ đầu mối, các bãi triều ven biển và từ các ngư dân khai thác quanh
vùng biển Nha Trang và được phân loại thông qua các tài liệu phân loại thơng dụng trong và ngồi nước. Đồng thời, sử
dụng các phiếu điều tra kết hợp với phỏng vấn trực tiếp người dân nhằm tìm hiểu về tình hình khai thác và sử dụng các loài
cua độc. Kết quả điều tra cho thấy, có 10 lồi cua biển mang độc tố thường được người dân khai thác và sử dụng làm thực
phẩm và làm cảnh. Nhìn chung, hiểu biết của người dân về các loài cua mang độc tố vẫn còn hạn chế, điều này là nguyên
nhân làm cho các trường hợp bị ngộ độc cua vẫn diễn ra. Nghiên cứu cũng đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế nguy
cơ ngộ độc từ việc khai thác và sử dụng các lồi sinh vật này.
Từ khóa: cua biển mang độc tố, khai thác, phòng chống ngộ độc, sử dụng
ABSTRACT
Food poisoning is one of the major concerns of society. There are hundreds of cases of food poisoning related to
exploitation and utilization of poisonous marine animals in our country every year. This investigation was conducted
between 2011 and 2012 in order to provide information about the status of exploitation and utilization of some marine
poisonous crab species in Nha Trang – Khanh Hoa. Poisonous crab samples were collected in fishing ports, wholesale
markets, coastal areas and from fishermen exploited around Nha Trang coastal areas and then identified by common
classification materials home and abroad. A number of direct interviews and questionnaires were also carried out to learn
about the status of exploitation and utilization of poisonous crabs. The result showed that there were 10 poisonous crab
species commonly exploited and utilized by inhabitants for food and ornament. In general, inhabitants’ knowledge of
poisonous crab species was still limited. This resulted in several cases of crab poisoning every year. This survey also put
forward a great number of solutions in order to reduce the risk of food poisoning related to exploitation and utilization of
these kinds of species.
Keywords: exploitation, poisonous crabs, prevention and treatment, utilization
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cua biển bao gồm nhiều lồi có giá trị kinh tế
cao thường được tìm thấy ở các vùng nước ven
bờ. Có khoảng 8.000 lồi cua được biết trên thế
giới, đa số chúng là nguồn thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao và được nhiều người ưa chuộng [12].
Tuy nhiên, nhiều trường hợp ngộ độc do ăn cua đã
được báo cáo tại nhiều quốc gia ở vùng châu Á Thái
1
Bình Dương như: Nhật Bản, Philippines, Singapore,
Đài Loan,… [16]. Các chất độc trong cơ thể cua độc
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thức ăn hay
các sinh vật có trong mơi trường [10, 12]. Con người
thường bị nhiễm độc thông qua ăn uống. Bản chất
của các loại độc tố ở cua độc rất đa dạng nhưng
chủ yếu thuộc nhóm chất độc thần kinh do chúng
tác động trực tiếp lên hệ thần kinh, hô hấp và tim
ThS. Lê Thị Hồng Mơ, 2ThS. Trần Văn Dũng: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
mạch gây ra các triệu chứng ngộ độc điển hình (co
giật, hơn mê, trụy hô hấp/tim mạch) [11]. Đây đều là
những chất độc rất nguy hiểm có thể gây tử vong
cao trong thời gian ngắn ở liều lượng thấp. Người bị
nhiễm độc, tùy theo mức độ nặng hay nhẹ, thường
có những biểu hiện rối loạn tiêu hóa, hơ hấp, thần
kinh, co giật, hôn mê, trụy tim mạch và cuối cùng là
chết. Các cơ quan mang độc tố cũng rất đa dạng, có
thể nằm trong cơ thịt, nội tạng hay tuyến sinh dục.
Trong những năm gần đây, ở nước ta các vụ
ngộ độc liên quan đến việc khai thác và sử dụng
các loài thủy sinh vật mang độc tố thường xuyên
xảy ra, chỉ riêng với cá nóc đã có khoảng 500 vụ ngộ
độc và 30 ca tử vong mỗi năm. Điều đáng lo ngại
hiện nay là ở nhiều địa phương, các loài thủy sản
mang độc tố vẫn được khai thác và sử dụng cơng
khai như một loại thực phẩm thơng thường ngồi
chợ bất chấp sự cảnh báo về nguy cơ ngộ độc từ
các cơ quan chức năng. Điều này là do những quan
niệm rất sai lầm trong nhân dân và sự thiếu hiểu
biết khoa học về các loài sinh vật mang độc tố cũng
như việc nhận biết và phòng tránh chúng [8]. Thực
tế cho thấy, các loại độc tố như tetrodotoxin hay
saxitoxin đều khơng bị phân hủy hay biến tính bởi
các phương pháp chế biến và bảo quản thơng
thường (phơi, sấy, nấu chín, cấp đơng,...) [10, 13,
15]. Điều này giải thích tại sao các trường hợp ngộ
độc do ăn các loài hải sản mang độc tố vẫn thường
xuyên xảy ra. Nghiên cứu này là cơ sở cho việc xây
dựng các giải pháp nâng cao ý thức người dân trong
việc khai thác và sử dụng nguồn cua biển mang độc
tố, góp phần hạn chế những ca tử vong đáng tiếc
có liên quan.
Số 2/2013
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2011 - 2012
trên các loài cua mang độc tố tại vùng biển Nha
Trang - Khánh Hòa. Các mẫu cua mang độc tố được
thu tại các cảng cá và chợ đầu mối, các bãi triều ven
biển và từ các ngư dân lặn bắt quanh khu vực vùng
biển Nha Trang - Khánh Hịa. Trong q trình điều
tra, tiến hành phỏng vấn trực tiếp người dân và thông
qua trả lời các bản câu hỏi (phương pháp đánh giá
nhanh nông thôn - RRA và phương pháp điều tra qua
phiếu - SQ) nhằm tìm hiểu về tình hình khai thác, chế
biến và sử dụng các loài cua mang độc tố; cách nhận
biết các bộ phận và cơ quan có chứa độc tố; phương
pháp loại bỏ các loại độc tố đó. Các mẫu cua độc
được thu, bảo quản, phân tích và định loại thơng qua
các tài liệu phân loại giáp xác thông dụng trong và
ngoài nước [9, 12, 17, 18, 20].
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Trình độ của người tham gia khai thác và sử
dụng các loài cua mang độc tố
Kết quả điều tra cho thấy, hầu hết các ngư dân
khai thác và sử dụng nguồn cua mang độc tố được
điều tra có trình độ văn hóa rất hạn chế. Đa phần
có trình độ văn hóa cấp II chiếm 69,14%, trong khi
số người học cấp III chỉ chiếm 14,29% thấp hơn cả
số người học cấp I (16,60%). Trình độ nhận thức
hạn chế là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến những sai lầm trong quá trình khai thác và sử
dụng các lồi hải sản nói chung [4, 6] và cua độc nói
riêng, hậu quả làm gia tăng số trường hợp tử vong
do ngộ độc. Đồng thời, cũng là trở ngại trong việc
tiếp cận các thơng tin tun truyền về phịng chống
và xử lý ngộ độc các loài sinh vật độc này.
2. Các hình thức khai thác và lưu giữ một số lồi cua mang độc tố
Bảng 1. Hình thức khai thác và lưu giữ một số loài cua mang độc tố (n = 35)
STT
Khai thác và lưu giữ
Số người trả lời có
Tỉ lệ (%)
4
11
20
11,43
31,43
57,14
Số người trả lời có
Tỉ lệ (%)
13
22
37,14
62,86
Hình thức khai thác
1
2
- Giã cào
- Lặn bắt
- Lưới bén
Hình thức lưu giữ
1
2
- Ướp lạnh
- Giữ ẩm
Các hộ ngư dân thường sử dụng các hình thức
khai thác như: lưới bén, giã cào hay lặn bắt để khai
thác các loài cua độc, trong đó lưới bén là chủ yếu
chiếm 57,14%. Hoạt động lặn bắt (31,43%) thường tập
trung chủ yếu tại các rạn san hơ, các khe, hốc đá vì
đây là nơi phân bố chính của các lồi cua độc. Mặc
dù hình thức khai thác bằng giã cào chỉ chiếm 11,43%
10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
nhưng đây là hình thức mang tính hủy diệt cao, gây cạn
kiệt nguồn lợi thủy sản ven bờ, hủy hoại môi trường
của các hệ sinh thái biển (san hơ, cỏ biển,...) [7]. Sau
khi khai thác, các lồi cua độc thường được giữ ẩm
(62,86%) hay bảo quản lạnh sau đó được sử dụng làm
thực phẩm. Việc khai thác các loài sinh vật này diễn ra
quanh năm, tập trung từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 2/2013
3. Các loài cua mang độc tố thường được người dân sử dụng
Bảng 2. Thành phần lồi, mục đích và giá trị sử dụng của một số loài cua độc
Địa điểm thu
Mục đích
sử dụng
Giá trị sử dụng
(ngàn đồng)
Cảng, bãi triều
Trạm thu mua
Zosimus aeneus
Nuôi cảnh
10 - 15/con
*
*
Cua mặt rỗ
Daldorfia horrida
Nuôi cảnh
20 - 30/con
*
*
3
Cua mặt quỷ
Demania scaberrima
Nuôi cảnh
15 - 20/con
*
*
4
Cua lồi san hô Carpilius convexus
Nuôi cảnh
20 - 25/con
*
*
5
Cua đốm
Carpilius maculatus
Nuôi cảnh,
Thực phẩm
25 - 30/con
*
*
6
Cua
Phô-lo-ri-da
Atergatis floridus
Nuôi cảnh
15 - 20/con
*
*
7
Cua rụt rè
Atergatis
integerrimus
Nuôi cảnh
20 - 30/con
*
*
8
Cua sỏi
Etisus splendidus
Làm cảnh,
Thực phẩm
45 - 50/con
*
*
9
Cua bùn
Dromia erythropus
Bỏ
-
*
-
10
Cua đăng ten
Camposcia retusa
Bỏ
-
*
*
STT
Tên tiếng Việt
Tên khoa học
1
Cua mặt quỷ
2
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 10 lồi cua
mang độc tố, thuộc 8 giống, 5 họ thường được
người dân khai thác và sử dụng. Trong số 10 lồi
này, có tới 5 lồi thuộc họ Xanthidae. Đây cũng
chính là họ có nhiều đại diện cua độc nhất với tần
số bắt gặp cao, đặc biệt là các loài thuộc giống
Zosimus, Demania và Atergatis. Chúng phân bố
rộng rãi ở vùng Ấn Độ - tây Thái Bình Dương, từ
Biển Đỏ và Đông Phi đến Nhật Bản, Hawaii và Tahiti
[11]. Các nghiên cứu về cua độc ở nước ta hầu như
chưa được đề cập, trong nghiên cứu này chúng tơi
tìm ra được 10 lồi, các báo cáo trước đó chỉ bắt
gặp 2 - 3 lồi [3, 8].
Khác với các loài cá độc và động vật thân mềm
mang độc tố [3, 5], các lồi cua độc ít được sử
dụng làm thực phẩm ngoại trừ 2 loài cua sỏi (Etisus
splendidus) và cua đốm (Carpilius maculatus). Khi
sử dụng làm thực phẩm, người dân thường chỉ ăn
phần càng cua và loại bỏ cơ quan sinh dục và nội
tạng. Phương pháp chế biến tương tự như các lồi
tơm, cua khác, thường chỉ hấp chín. Đa số cua độc
được sử dụng làm cảnh. Chúng được thu mua và
giữ sống bởi thương lái, sau đó xuất bán cho người
ni sinh vật cảnh trong và ngồi nước, với giá dao
động từ 10.000 - 50.000 đồng/con tùy lồi. Ngồi ra,
những con bị chết trong q trình bảo quản hoặc
đánh bắt lẫn với cá tạp thường được sử dụng làm
thức ăn cho các đối tượng nuôi hải sản.
Đa số người dân khai thác biết và ít dùng các
lồi cua độc làm thực phẩm (78,6%), các trường
hợp ngộ độc thường xảy ra với những người thiếu
hiểu biết và muốn ăn thử. Thông thường, người dân
nhận biết cua độc thông qua nghe nói từ những
người xung quanh (74,29%) và kinh nghiệm của
bản thân (25,71%) khi tiếp xúc với các loài cua độc
này. Điều đáng lưu ý là các thông tin về cua độc
hầu như chưa được đề cập trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, ngoại trừ một số dưới dạng
báo cáo khoa học trong và ngoài nước [3, 8, 10,
12]. Điều này làm gia tăng nguy cơ xảy ra ngộ độc
cua biển nói riêng và các lồi hải sản mang độc tố
nói chung. Để nhận biết cua độc, người dân thường
dựa vào màu sắc của chúng, so với các lồi cua
biển khác, các lồi cua độc thường có các dấu hiệu
đặc trưng như: màu sắc sặc sỡ, mắt đỏ, trứng màu
nâu đỏ, một số con mang bọt biển với mùi hơi khó
chịu (Dromia erythropus).
4. Các loại độc tố và giải pháp phòng tránh
4.1. Các loại độc tố
Căn cứ vào độc lực có thể chia cua độc thành 2
nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các lồi ln mang
độc tính mạnh có thể gây chết người. Các đại diện
của nhóm này đều thuộc họ Xanthidae có màu sắc
sặc sỡ như: Demania spp., Zosimus aeneus và
Atergatis floridus. Các độc tố thường xuất hiện ở cơ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
thịt, nội tạng, tuyến sinh dục và vỏ cua [11, 13]. Tuy
nhiên, phần phụ được cho là chứa nhiều độc tính
hơn so với các phần cịn lại [13]. Các lồi cua độc
này tích lũy chất độc trực tiếp hay gián tiếp thơng
qua thức ăn do khi nuôi chúng bằng thức ăn thông
thường trong điều kiện ni nhốt, độc tính giảm rõ
rệt. Mặc dù độc tính có thể khác nhau giữa các cá
thể, nhưng chúng thường mang một lượng độc tố
đủ để giết chết một người trưởng thành hay 1 gam
cơ thịt của chúng có thể giết chết 42.000 con chuột
[15]. Nhóm thứ hai bao gồm những lồi cua có độc
tính trung bình hoặc/và đơi khi mới độc. Việc sử
dụng các lồi cua này làm thực phẩm có thể ngộ độc
nhưng hiếm khi tử vong. Các đại diện thuộc nhóm
này bao gồm giống Carpilius, Etisus và Atergatis.
Trong hầu hết các trường hợp, các lồi cua này
khơng hồn tồn độc, độc tính của chúng thường
thay đổi theo vùng phân bố và mùa vụ. Chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nguồn thức ăn mang độc
tố trong môi trường như hải quỳ, vi khuẩn độc và
đặc biệt là các loài tảo độc liên quan đến hiện tượng
thủy triều đỏ [10, 12, 14, 15].
Các chất độc ở cua chủ yếu là chất độc thần
kinh, tan trong nước nhưng lại không bị phân hủy
bởi nhiệt độ trong q trình chế biến và bảo quản.
Mỗi lồi cua độc thường mang một hoặc nhiều độc
tố (các dạng khác nhau của tetrodotoxin, palytoxin,
saxitoxin, neosaxitoxin, gonyautoxin, paralytic shellfish
poison,...) với tỷ lệ khác nhau [12]. Cụ thể, độc tố
của loài Zosimus aeneus có 82% tetrodotoxin và
18% gonyautoxins, lồi L. pictor có 89% và 11%,
D. reynaudii có 88% và 12%, Atergatis floridus có
85% và 15% hai loại độc tố trên, theo thứ tự [15].
Tuy nhiên, thành phần và tỷ lệ các loại độc tính này
thường thay đổi rất lớn ngay chỉ trong cùng một
loài tùy theo vùng phân bố và mùa vụ khai thác.
Gonyautoxins (một dạng của PSP) thuộc nhóm chất
độc gây liệt cơ sinh ra bởi tảo hai roi (dinoflagellates,
Alexandrium minutum), trong khi tetrodotoxin là chất
độc thần kinh sinh ra bởi vi khuẩn Vibrio alginolyticus
và V. parahaemolyticus [15].
4.2. Triệu chứng lâm sàng
Hầu hết chất độc trong cua thuộc dạng chất độc
thần kinh, tác động trực tiếp lên hệ thần kinh, hô
hấp và tim mạch. Con người chỉ bị ngộc độc thông
qua con đường ăn uống, khi bị cua cắp thì khơng
có biểu hiện ngộ độc. Khi ăn phải cua độc 5 - 30
phút, nạn nhân xuất hiện các triệu chứng mệt, hoa
mắt, chóng mặt, buồn nơn, nơn, tiết nhiều nước bọt,
chống váng, tái nhợt, mất cảm giác, tê môi, lưỡi và
cổ họng. Cảm giác tê buốt sau đó lan ra các ngón
tay và chân. Trong các giai đoạn sau, bệnh nhân
12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 2/2013
vã mồ hôi, rối loạn hô hấp và hôn mê. Trường hợp
nặng, xuất hiện chứng đau cơ, đau thắt ngực, nhịp
tim nhanh, thở nông, da, đặc biệt là da tay và miệng
chuyển màu xanh tím. Ở giai đoạn cuối, xuất hiện
chứng liệt cơ và đôi khi co giật. Bệnh nhân bị chết
do liệt hô hấp sau 6 - 24 giờ.
4.3. Giải pháp phòng tránh
Để hạn chế nguy cơ nhiễm độc trong quá trình
khai thác và sử dụng các lồi cua độc cần có sự
phối hợp của người dân, chính quyền các cấp và
các cơ quan chức năng. Hạn chế khai thác và sử
dụng các loài cua độc làm thực phẩm dưới mọi hình
thức. Việc sử dụng cua độc cho mục đích ni cảnh
nên được quản lý chặt chẽ bởi các cơ quan chức
năng. Không ăn các loại cua lạ, có màu sắc sặc sỡ,
đặc biệt là những loài được khai thác từ các vùng
rạn san hơ vì đây là nơi phân bố của hầu hết các
sinh vật độc. Nên nhận biết và phòng tránh ngộ độc
thông qua tài liệu, sách báo, các phương tiện thông
tin đại chúng.
Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm
được thuốc giải các loại độc tố ở cua biển, đặc biệt
là tetrodotoxin, chính vì vậy các biện pháp điều trị
chỉ mang tính hỗ trợ để loại bỏ độc tố trong ruột. Do
đó, việc ngư dân, người thích ăn hải sản và khách
du lịch cần nhận biết và phòng tránh các loài cua
độc là rất cần thiết. Về biện pháp sơ cứu khi bị ngộ
độc: Ngay khi thấy các dấu hiệu ngộ độc đầu tiên
như tê lưỡi, tê môi, tê ngón tay, người bệnh vẫn
cịn tỉnh phải tìm mọi cách làm cho nôn ra được.
Khi gây nôn chú ý để bệnh nhân nằm nghiêng, đầu
thấp để tránh sặc. Cho bệnh nhân uống than hoạt
tính (25 - 30 gam pha với nước) càng sớm càng
tốt. Than hoạt tính có tác dụng hấp phụ chất độc
và hơi độc ở đường tiêu hóa, nếu cho người bệnh
uống sớm trong vòng một giờ sau khi ăn sẽ có hiệu
quả cao. Trường hợp người bệnh đã rối loạn ý thức,
hôn mê, tụt huyết áp, co giật, loạn nhịp tim, thở yếu
hoặc ngừng thở,... phải khẩn trương thổi ngạt bằng
đường miệng - miệng hay miệng - mũi. Trong mọi
trường hợp phải tìm mọi cách nhanh chóng đưa
bệnh nhân đến bệnh viện gần nhất để được cấp
cứu và điều trị kịp thời, dùng các loại thuốc và biện
pháp cần thiết để hồi sức hơ hấp, tuần hồn, bảo
đảm chức năng sống.
Chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng
(ngành Y tế, Nông nghiệp) cần phối hợp với nhau
trong việc tuyên truyền người dân về tính độc hại,
cách nhận biết, biện pháp phòng tránh và cấp cứu khi
bị ngộ độc. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát
việc thực thi các chỉ thị về phòng chống ngộ độc do
các loài thủy sinh vật mang độc tố gây ra [1].
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Có 10 lồi cua biển mang độc tố thường được
người dân khai thác và sử dụng làm cảnh và thực
phẩm. Nhìn chung hiểu biết của người dân về các
lồi cua độc và cách phịng tránh cịn nhiều hạn chế.
Cần tiến hành điều tra đầy đủ về thành phần
lồi giáp xác mang độc tố nói riêng và các lồi hải
Số 2/2013
sản mang độc tố nói chung tại vùng biển nước ta,
tiến tới quy hoạch việc khai thác và sử dụng nguồn
lợi các loài này phục vụ cho y học và xuất khẩu.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng
cao ý thức người dân về mối nguy hiểm và các biện
pháp phòng chống ngộ độc khi khai thác và sử dụng
các loài cua độc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.
Cục An tồn vệ sinh thực phẩm Bộ Y tế, 2011. Cơng văn số 601/ATTP-NĐTP, ngày 28/4/2011 về việc tăng cường phòng
chống ngộ độc thực phẩm do độc tố tự nhiên.
2.
Trần Văn Dũng và Lê Thị Hồng Mơ, 2012. Tình hình khai thác và sử dụng một số loài động vật thân mềm mang độc ở Nha
Trang - Khánh Hòa. Tuyển tập Hội nghị Khoa học trẻ Ngành Thủy sản toàn quốc lần thứ 3, trang 561-571.
3.
Nguyễn Khắc Hường, 1992. Cá và sinh vật độc hại ở biển. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
4.
Võ Thiên Lăng, 2001. Một số vấn đề về quản lý nguồn lợi thủy sản ven bờ trên cơ sở cộng đồng tại các thôn biển xã Ninh
Ích - Ninh Hịa - Khánh Hịa. Báo cáo khoa học, Sở Thủy sản Khánh Hòa.
5.
Lê Thị Hồng Mơ và Trần Văn Dũng, 2012. Tình hình khai thác và sử dụng một số loài cá biển mang độc tố ở Nha Trang Khánh Hịa. Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản, số 3, trang 25-29.
6.
Trung tâm tin học - Bộ Thủy sản, 2007. Hiện trạng và các giải pháp phát triển bền vững khai thác hải sản ở Việt Nam. Thông
tin chuyên đề số 4/2007.
7.
Võ Sĩ Tuấn, 2003. Các hệ sinh thái biển - chức năng, hiện trạng sử dụng và những tác động. Trong: Khóa huấn luyện
quốc gia về quản lý khu bảo tồn biển, 7 - 36. Viện Hải Dương Học Nha Trang.
8.
Võ Sĩ Tuấn, 2006. Khảo sát và nghiên cứu sinh vật mang độc tố có thể gây chết người ở vùng biển Việt Nam. Tuyển tập
Nghiên cứu biển, tập XV. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
9.
Dai, A. and Yang, S., 1991. Crabs of The China Seas. China Ocean Press Beijing, 682 pp.
Tiếng Anh
10. Fredrick WS, Ravichandran S, Balasubramanian T, 2011. Toxicity of Brachuryan crabs in India. Toxicological &
Environmental Chemistry, 93 (2): 406–411.
11. Garth, J.S. and Alcala, A.C., 1977. Poisonous crabs of Indo-West Pacific reefs, with special reference to the genus
Demania Laurie. Proceed. Third International Coral Reef Symposium, Rosenstiel School of Marine and Atmospheric Science,
University of Miami, 645-651.
12. Gopalakrishnakone, P., 1990. A colour guide to dangerous animals. Venom & Toxin Research Group, Faculty of Medicine,
National University of Singapore. 156 pp.
13. Hashimoto, Y., Konosu, S., Yasumoto, T., Inoue, A., Noguchi, T., 1967. Occurrence of toxic crabs in Ryukyu and Amami
Islands. Toxicon 5(2): 85-90.
14. Hashimoto, Y., 1979. Marine toxins and other bioactive marine metabolites. Japan Scientific Society Press, Tokyo.
15. Hwang, D.F., & Tsai, Y.H., 1999. Toxins in toxic Taiwanese crabs. Food Reviews International, 15 (2): 145 - 162.
16. Llewellyn, L.E. & Endean, R., 1991. Paralytic shellfish toxins in the xanthid crab Atergatis floridus collected from Australian
coral reefs. Journal of Wilderness Medicine 2, 118-126.
17. Manning, R.B. & Holthuis, L.B., 1981. West African Brachyuran Crabs (Crustacea: Decapoda). Smithsonian Institution
Press, City of Washington. 396 pp.
18. Ng, P.K.L., Wang, C.H., Ho, P.H., Shih, H.T., 2001. An annotated checklist of brachyuran crabs from Taiwan (Crustacea:
Decapoda). National Taiwan Museum Special Publication Series, 11: 1-86.
19. Ng, P.K.L., Guinot, D., Peter, J.F.D., 2008. Systema Brachyurorum: Part I. An annotated checklist of extant brachyuran crabs
of the world. The Raffles bulletin of Zoology 17: 1-286.
20. Powers, L.W., 1977. A catalogue and bibliography to the crabs (Brachyura) of the Gulf of Mexico. Contributions in Marine
Science, 20 (Supplement): 1-190.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13