Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo cua lột (Scylla paramamosain) thương phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.09 KB, 8 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỨC ĂN HỖN HỢP TẠO CUA LỘT
(Scylla paramamosain) THƯƠNG PHẨM
Lê Hoàng1*, Nguyễn Thành Trung1, Trần Thị Lệ Trinh1, Nguyễn Văn Nguyện1

TĨM TẮT
Cua lột có giá trị dinh dưỡng cao, vỏ mềm và được nhiều người ưa chuộng ở Việt Nam. Chất lượng
nguyên liệu thức ăn và đặc điểm dinh dưỡng của cua trước và sau khi lột là những nền tảng cơ bản
trong việc nghiên cứu tạo thức ăn hỗn hợp cho việc sản xuất cua lột thương phẩm. Thức ăn nuôi
cua, nguyên liệu thức ăn và cua nguyên con trước và sau khi lột được phân tích thành phần sinh
hóa. Kết quả phân tích cho thấy cám gạo lau khô, cám chà và bột gan mực chứa hàm lượng béo cao
(16,15,17,64% và 13,78% tương ứng), trong khi thức ăn ni cua thương phầm tại vùng Cần Giờ
có hàm lượng dinh dưỡng khá thấp (protein: 17,22%; lipid: 6,56% và xơ: 10,76%). Ngồi ra, có sự
thay đổi về thành phần dinh dưỡng trong thân cua trước và sau khi lột, trong đó hàm lượng protein,
lipid của cua tăng đáng kể sau khi lột (protein: 44,1% vs 71,38%; lipid: 6,25% vs 13,66%) ngược
lại hàm lượng canxi và khoáng giảm rõ rệt (canxi: 14,69% vs 2,71%; khoáng: 43,55% vs 13,66%),
đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và C18:2 tăng mạnh (2,76% và 3.98 %) so với giai đoạn trước
khi lột (0,44% và 0,10%).
Từ khóa: cua lột, cua biển, Scylla paramamosain, thức ăn hỗn hợp, nguyên liệu, thành phần hóa học.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi cua biển (Scylla spp) được nuôi rộng
rãi ở nhiều nước trong khu vực Châu Á như
Philippines, Indonesia, Myanmar, Ấn Độ, Nhật
Bản, Thái Lan, Việt Nam (Keenan, 1999; FAO,
2015). Cua biển có kích thước tương đối lớn,
thịt nhiều, thơm ngon nên nó là đối tượng ni
trồng thủy sản tiềm năng ở nhiều nơi trên thế
giới (Keenan, 1999; Christensen và ctv., 2004;
FAO, 2015).


Bên cạnh việc nuôi cua con thành cua thịt,
nuôi cua gạch trong ao và lồng, việc nuôi cua lột
cũng đang được quan tâm ở các nước như Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam, Malaysia, Indonesia
(FAO, 2015). Cua biển (Scylla spp) thường
được bán dưới dạng sống ngoại trừ cua lột. Giá
cua phụ thuộc vào mùa vụ, kích cỡ, chất lượng
cua, giới tính, tình trạng tuyến sinh dục. Cua
sống thường được xuất khẩu sang Hồng Kơng,
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan (FAO, 2015).
Ngồi kích cỡ, giá của sản phẩm cua lột còn
phụ thuộc vào tình trạng vỏ cua. Cua lột thường
được tiêu thụ tại địa phương hoặc xuất bán sang
1
*

Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Mỹ và Châu Âu (FAO, 2015).
Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) là sản phẩm
được ưa chuộng trên thị trường thế giới do thành
phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng
canxi và phospho cao, dễ hấp thụ (Nguyễn Thị
Bích Thuý và ctv., 2004). Bên cạnh việc chứa
hàm lượng protein và khống cao, thịt cua lột
cịn chứa nhiều loại axit amino cần thiết cho
cơ thể (Sudhakar và ctv., 2009). Giá của sản
phẩm cua (Portunidae) có vỏ mềm có thể bán
cao hơn gấp 7 lần so với giá của sản phẩm cua
có vỏ cứng (Wickins và Lee, 2002; Tavares và
ctv., 2017). Sự chênh lệch giá hai sản phẩm này

là mối quan tâm của các nhà quản lý và kinh
doanh thủy sản cũng như các nhà nghiên cứu
với mục đích tạo ra công nghệ sản xuất cua lột
đạt hiệu quả kinh tế cao.
Ở Việt Nam, cua biển (Scylla spp.) được
nuôi từ những năm 1990 chủ yếu ở các tỉnh
ven biển, với phương thức nuôi trong ao hoặc
nuôi chung với tôm và cá, cho ăn thức ăn tươi
từ còng và cá tạp xay nhỏ (Christensen và ctv.,

Trung tâm công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Email:

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018

59


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

2004), hoặc cho ăn theo nhiều giai đoạn sử dụng
thức ăn của tôm cho giai đoạn đầu và thức ăn
ít đạm cho giai đoạn thương phẩm. Hiện nay,
nghề nuôi cua biển (Scylla spp) đã phát triển
rộng ra nhiều tỉnh ven biển từ Quảng Ninh cho
tới Cà Mau. Tuy vậy, một trong những khó khăn
chính của người ni hiện nay là thức ăn, nhất là
đối với thức ăn cho cua lột.
Vì vậy, để nghề nuôi cua trở thành một
ngành công nghiệp bền vững, cần có chiến lược

phát triển sản xuất thức ăn cơng nghiệp nuôi
cua, bắt đầu với các nghiên cứu từ dinh dưỡng
tới xây dựng công thức và công nghệ sản xuất
thức ăn cơng nghiệp cho cua ở các giai đoạn
trong vịng đời của chúng, trong đó có giai đoạn
lột vỏ. Thức ăn viên có lợi thế về việc chủ động
được thành phần dinh dưỡng, tiện dụng, thời
gian bảo quản lâu và dễ bổ sung thêm thuốc hay
vitamin.
Đối với cua biển (Scylla spp.) đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về dinh dưỡng ni cua
biển và cua biển lột vỏ (Rodriguez và ctv.,
2001; Catacutan và ctv., 2003; Christensen và
ctv., 2004; Trần Ngọc Hải và ctv., 2006; Tuan
và ctv., 2006; Ut và ctv., 2007; Nguyen và ctv.,
2014). Tuy nhiên chưa có nhiều cơng bố về xây
dựng công thức thức ăn để tạo sản phẩm cua lột
thương phẩm.
Cho đến nay thức ăn dùng cho nuôi cua lột
rất hạn chế. Ở Việt Nam, người nuôi chủ yếu
vẫn sử dụng cá tạp, nhuyễn thể nhỏ (Trung tâm
khuyến nông Tp. HCM 2015). Khi nguồn thức
ăn tự nhiên khan hiếm, người nuôi thường phải
dùng thức ăn nuôi tôm để nuôi cua, vừa lãng
phí vừa khơng phù hợp về dưỡng chất cũng như
với tập quán bắt mồi của cua. Để kích thích ghẹ
xanh (Portunus pelagicus) lột, Nguyễn Thị Bích
Thủy và ctv., 2004 đã dùng các sản phẩm chứa
saponin, chitosan nhưng tỷ lệ thành công không
cao và cơ chế tác dụng chưa rõ ràng. Hiện tại,

trên thị trường chưa thấy có sản phẩm thức ăn
tin cậy dùng để kích thích cua biển lột xác.
Việc nghiên cứu nâng cao hiệu suất lột vỏ
và tỷ lệ lột vỏ đồng loạt là rất cần thiết, đặc biệt
việc tạo ra thức ăn có khả năng kích lột vỏ đồng
60

loạt giúp người nuôi chủ động trong quản lý,
giảm thiểu công lao động, hiệu quả cao, tăng
năng suất, tiến tới cơng nghiệp hố, chun mơn
hố nghề ni cua lột. Thông tin về nhu cầu
dinh dưỡng của cua ở giai đoạn lột rất hạn chế
do đó cần có các nghiên cứu về thành phần sinh
hoá trong cua ở giai đoạn trước và sau lột vỏ.
Nghiên cứu này tập trung vào phân tích và
đánh giá thành phần sinh hố của cua ở giai đoạn
trước và sau khi lột cũng như các loại nguyên
liệu có thể sử dụng để làm thức ăn cho giai đoạn
này nhằm làm cơ sở để thiết lập công thức ăn
cho giai đoạn cua lột thương phẩm.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
2.1.1. Cua chắc, cua lột và thức ăn nuôi cua
Thức ăn nuôi cua, mẫu cua (Scylla
paramamosain) chắc có trọng lượng trung bình
78 ± 6,63g và cua lột 100 ± 4,24g được thu tại
xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh.
Mẫu cua lột rửa sạch bùn đất bằng nước, để ráo
rồi xay nhuyễn đồng nhất. Cua chưa lột được
rửa sạch bùn đất bằng nước, để ráo nước, tách

phần mai cua đem sấy, sau đó trộn chung với
phần thịt và xay nhuyễn đồng nhất. Mẫu sau
khi đồng nhất lưu mẫu ở tủ đông – 30 oC đến
khi phân tích. Thức ăn ni cua được nghiền
nhỏ (bằng máy nghiền có kích thước lỗ sàng
1mm để bảo đảm độ đồng nhất và đưa đi phân
tích ngay.
2.1.2. Nguyên liệu thức ăn
Các nguyên liệu cung cấp protein, cung
cấp lipid và carbohydrate sản xuất thức ăn được
thu nhận từ các nhà máy và công ty cung cấp
nguyên liệu thức ăn thuỷ sản, lưu trữ trong điều
kiện bình thường đến khi phân tích thành phần
sinh hóa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thành phần sinh hóa của cua chắc, cua lột,
thức ăn ni cua và ngun liệu được phân tích
tại Phịng Phân tích chất lượng thực phẩm và
Dinh dưỡng thủy sản - Trung tâm Công nghệ
Thức ăn và Sau thu hoạch Thuỷ sản – Viện
Nghiên cứu Ni trồng Thuỷ sản II. Hàm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

lượng ẩm (%) được xác định theo phương pháp
TCVN 4326:2001, protein thô (%) theo TCVN
4328:2007, lipid thô (%) theo AOAC 920.39,

lipid tổng theo phuong pháp Folch, tro (%)
theo TCVN 4327:2007, xơ (%) theo TCVN
4329:2007, canxi (%) TCVN 1526-1:2007 và
phosphor TCVN 1525:2001. Axit béo thành
phần ở cua chắc và cua lột được phân tích theo
phương pháp AOAC 996.06 tại Trung tâm dịch
vụ phân tích thí nghiệm Tp. Hồ Chí Minh.
Số liệu được tính tốn giá trị trung bình và
độ lệch chuẩn sử dụng phần mềm Excel.

III. KẾT QUẢ
3.1. Thành phần sinh hóa của cua chắc
và cua lột
Kết quả phân tích thành phần sinh hóa (tính
theo vật chất khơ -VCK) của cua chắc và cua
lột (Bảng 1) cho thấy sự khác biệt rất lớn. Hàm
lượng protein của cua lột cao gần gấp đôi ở cua
chắc, tương tự như thế ở hàm lượng lipid cũng
cho thấy cua lột cao gần gấp đôi (11,48%) so
với cua chắc (6,25%). Ngược lại, hàm lượng tro
ở cua lột thấp hơn gấp ba lần so với cua lột,
đồng thời hàm lượng canxi ở cua lột cũng thấp
hơn rất nhiều lần.

Bảng 1. Thành phần sinh hóa của cua chắc và cua lột (VCK) (n=3 )
Thành phần sinh hóa (%)

Loại cua

Protein


Lipid tổng

Tro

Canxi

Cua chắc

44,17 ± 0,54

6,25 ± 0,13

43,55 ± 0,61

14,69 ± 0,29

Cua lột

71,38 ± 0,14

11,48 ± 0,29

13,66 ± 0,13

2,71 ± 0,42

Thành phần các axit béo trong cua chắc và
cua lột được phân tích, trình bày tại Bảng 2. Từ
kết quả phân tích axit béo thành phần cho thấy

sự khác biệt về thành phần axit béo ở cua lột và
cua chắc, đặc biệt hàm lượng axit béo C18:1 và
C18:2 ở cua lột cao (2,76 và 3,98 g/100g) so với

giai đoạn trước khi lột (0,44 và 0,10 g/100g).
Đồng thời, hàm lượng C22:6 ở cua chắc cao
hơn so với cua lột (0,22 so với 0,16, tương ứng).
Ngược lại, hàm lượng C14, C16:1, C17, C18:3
và C20:5 không phát hiện ở cua lột.

Bảng 2. Hàm lượng axit béo có trong toàn thân cua chắc và cua lột (VCK).

Hàm lượng axit béo

Cua chắc (g/100g)

Cua lột (g/100g)

C14:0
C16:0
C16:1
C17:0
C18:0
C18:1
C18:2
C18:3
C20:5
C22:6

0,10

0,71
0,27
0,07
0,37
0,44
0,10
0,12
0,42
0,22

0,57
0,32
2,76
3,98
0,16

Ghi chú: (-) không phát hiện

3.2. Thành phần sinh hóa của thức ăn
ni cua
Kết quả phân tích sinh hóa thức ăn ni cua
của các hộ nuôi, được thể hiện ở Bảng 3. Ở giai
đoạn Nu, cua được cho ăn thức ăn nuôi tôm, giai

đoạn này cua cần như cầu dinh dưỡng cao, hàm
lượng protein của thức ăn giai đoạn này vào khoảng
40%. Do trên thị trường chưa có thức ăn dành riêng
cho cua và để giảm giá thành, các hộ nuôi cua sử
dụng thức ăn có hàm lượng protein thấp (17,22%)
để ni cua thịt giai đoạn thương phẩm.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018

61


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 3. Thành phần sinh hóa trong thức ăn ni cua ở giai đoạn giống và thương phẩm.
Thành phần sinh hóa (%)

Loại thức ăn

Protein

Lipid

Tro



Canxi

Thức ăn cua giai đoạn Nu

40,16 ± 0,11

7,25 ± 0,09 9,74 ± 0,06

2,94 ± 0,23


1,91 ± 0,05

Thức ăn cua giai đoạn
thương phẩm

17,22 ± 0,31

6,56 ± 0,35 7,32 ± 0,12

10,76 ± 0,70

1,43 ± 0,03

3.2. Thành phần sinh hóa của nguyên liệu
Kết quả phân tích sinh hóa các loại ngun
liệu sẽ được sử dụng trong việc nghiên cứu sản
xuất thức ăn cho cua lột thể hiện ở Bảng 4. Trong
đó, các nguyên liệu cung cấp protein chủ yếu từ
nguồn nguyên liệu có nguồn gốc động vật như
bột cá 65 protein (63,85%), bột cá 60 protein
(63,2%), bột huyết (88,92%), bột lông vũ
(80,44%), bột xương thịt (54,79%), bột gan mực

(46,57%) hay bột phụ phẩm gia cầm (62,08%),
bên cạnh đó các nguyên liệu có nguồn gốc thực
vật cũng có hàm lượng protein tương đối cao như
khô đậu nành (45,34%), bột nấm men (41,31%).
Một số nguyên liệu cung cấp cacbonhydrate như
bột mì, lúa mì và cám gạo lau ướt. Cám gạo lau

khô và cám chà là các loại nguyên liệu có thể
vừa cung cấp cacbonhydrate vừa cung cấp lipid
cho thức ăn cua do chứa lipid ở hàm lượng cao.

Bảng 4. Thành phần sinh hóa của một số nguyên liệu sử dụng làm thức ăn cua lột
Tên nguyên liệu

Thành phần sinh hóa (%)
Ẩm

Protein

Lipid



Tro

Canxi

Phosphor

Cám gạo lau ướt

12,21 ±0 ,01

12,97 ± 0,26

8,41 ± 0,15


1,91 ± 0,03

6,29 ± 0,04

0,46 ± 0,07 1,40 ± 0,06

Cám gạo lau khô

10,37 ± 0,03

12,56 ± 0,20

16,15 ± 0,18 7,75 ± 0,27

8,16 ± 0,02

0,44 ± 0,07 1,74 ± 0,07

Cám chà

9,28 ± 0,02

12,42 ± 0,09

17,64 ± 0,33 14,49 ± 0,10 9,74 ± 0,08

0,63 ± 0,08 1,83 ± 0,09
0,55 ± 0,11 0,33 ± 0,02

Lúa mì


11,05 ± 0,01

12,66 ± 0,28

2,58 ± 0,38

5,61 ± 0,13

Bột cá 60 CP

5,26 ± 0,01

63,20 ± 0,26

6,72 ± 0,30

1,29 ± 0,14 24,95 ± 0,00 4,85 ± 0,18 2,82 ± 0,17

1,68 ± 0,01

Gluten bột mì

7,08 ± 0,01

73,62 ± 0,22

1,77 ± 0,34

2,07 ± 0,04


0,72 ± 0,01

0,14 ± 0,01 0,13 ± 0,00

Bột mì

11,57 ± 0,01

12,71 ± 0,30

1,99 ± 0,21

0,89 ± 0,17

1,12 ± 0,01

0,15 ± 0,04 0,08 ± 0,00

Bột gan mực

5,95 ± 0,01

46,57 ± 0,13

13,78 ± 0,29 8,58 ± 0,09 10,49 ± 0,06 2,77 ± 0,22 0,68 ± 0,04

Bột xương thịt

5,25 ± 0,06


54,79 ± 0,16

8,56 ± 0,17

3,18 ± 0,44 26,76 ± 0,13 10,07 ± 0,40 4,02 ± 0,24

Khô đậu nành

10,14 ± 0,02

45,34 ± 0,02

2,14 ± 0,26

5,03 ± 0,41

5,86 ± 0,02

1,18 ± 0,04 0,60 ± 0,00

Bột huyết

7,05 ± 0,01

88,92 ± 0,15

0,59 ± 0,11

0,98 ± 0,01


4,16 ± 0,01

0,36 ± 0,01 0,31 ± 0,02

1,66 ± 0,12 22,42 ± 0,07 4,96 ± 0,18 2,45 ± 0,02

Bột cá 65 CP

7,14 ± 0,03

63,85 ± 0,10

3,71 ± 0,30

Bột phụ phẩm gia cầm

5,53 ± 0,01

62,08 ± 0,01

10,52 ± 0,24 1,81 ± 0,18 17,32 ± 0,02

5,91± 0,04

Bột nấm men

6,70 ± 0,00

41,31 ± 0,33


1,79 ± 0,17

8,08 ± 0,38

6,96 ± 0,08

0,75 ± 0,08 0,58 ± 0,04

Bột lông vũ

5,43 ± 0,01

80,44 ± 0,28

3,98 ± 0,18

1,64 ± 0,12

3,81 ± 0,04

1,30 ± 0,03 0,47 ± 0,00

IV. THẢO LUẬN
Kết quả phân tích cho thấy giá trị dinh dưỡng
có trong thức ăn hiện đang sử dụng nuôi cua lột
rất thấp (bảng 3) so với nhu cầu dinh dưỡng cơ
bản của cua ở giai đoạn thương phẩm (bảng 1).
Kết quả phân tích hàm lượng lipid thơ và axit
béo thành phần ở bảng 1 và bảng 2, cho thấy

khuynh hướng giai đoạn cua lột xác cần tích lũy
nhiều năng lượng, do vậy hàm lượng béo ở cua
62

1,55 ± 0,01

lột cao gấp đôi cua chắc. Những chất dự trữ này,
mà phần lớn chứa trong gan tụy, được dùng để
đáp ứng những nhu cầu đặc biệt về nguyên liệu
và năng lượng cho q trình lột xác, khơng được
sử dụng cho việc tăng trưởng các mơ nói chung.
Phần chính của các chất dự trữ hữu cơ trong gan
tụy được tích lũy trong giai đoạn tiền lột xác là
lipid, hầu như hoàn toàn ở dạng các axit béo và
glycerol. Hàm lượng axit béo trong gan tụy cua

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Cancer pagurus Linn tăng gấp 3 lần trong thời
kỳ ăn mồi và chỉ chấm dứt khi cua bước vào
giai đoạn tiền lột xác (Renaud, 1949). Dự trữ
lipid một phần được biến đổi thành glycogen
rồi thành glucose được sử dụng trong việc tạo
thành chitin, một thành phần trong vỏ cua và
cung cấp năng lượng cho quá trình lột xác. Hàm
lượng cholesterol gia tăng nhanh chóng lúc lột
xác, từ 22 mg lên đến 70 mg/100g trọng lượng

cua C.pagurus (Renaud, 1949). Cholesterol là
một sterol động vật rất quan trọng, là tiền chất
của nhiều phức hợp sinh lý như hormone giới
tính, hormone lột vỏ, corticoid thượng thận,
axit mật và vitamin D (Teshima và Kanazawa
1971, Sheen 2000). Hầu hết các động vật có thể
tổng hợp sterol này từ acetate (muối của axit
axetic với một kiềm) ngoại trừ các loài giáp xác
(Teshima và Kanazawa 1971). Protein là một
thành phần cần thiết của các chất dự trữ hữu cơ
tích lũy trong gan tụy ở giai đoạn lột xác, gần
70% nitơ protein của cua Cancer pagurus ở giai
đoạn lột xác được dùng để tổng hợp nên protein
vỏ (Passano, 1960).
Lựa chọn nguyên liệu thích hợp để phối chế
thức ăn cho cua lột cần phải hội đủ các điều kiện
cơ bản là đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng cho giai
đoạn lột xác, giá thành và tính sẵn có của ngun
liệu. Các nguồn nguyên liệu cung cấp protein có
nguồn gốc thuỷ sản như phụ phẩm chế biến thuỷ
sản, bột cá, bột mực, bột nhuyễn thể thường
được động vật thủy sản (loài ăn thịt) trong đó
có cua sử dụng hiệu quả hơn nguồn protein thực
vật (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn,
2009). Tuy nhiên, nguồn cung bột cá ngày càng
khan hiếm, giá thành ngày càng tăng nên giá
thành thức ăn cũng tăng cao, làm ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế của người nuôi. Do đó cần phải
tìm nguồn ngun liệu thay thế đáp ứng được
nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi đồng thời bảo

đảm nguồn cung dồi dào, bền vững và giá cả
hợp lý. Các nguồn nguyên liệu thay thế thường
được sử dụng trong thức ăn thủy sản là: phụ
phẩm của ngành chế biến thực phẩm, giết mổ và
các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật. Nhóm
protein thực vật hiện nay được sử dụng nhiều
trong thức ăn thuỷ sản với mục đích thay thế

nguồn protein bột cá, nhằm giảm giá thành thức
ăn. Nguồn cung cấp protein có nguồn gốc thực
vật rất phong phú như khô dầu đậu nành, các
loại khô dầu khác và gluten cùng với giá thành
thấp rất nhiều so với các nguyên liệu có nguồn
gốc thủy sản. Nhiều nghiên cứu trên cua bùn
(Scylla sp.) cho thấy hiệu quả sử dụng nguyên
liệu thực vật cuả cua bùn rất cao với độ tiêu
hóa thức ăn trên 85% (Azra và Ikhwanuddin,
2016; Nguyen và ctv., 2014; Catacutan và ctv.,
2003). Sử dụng nguyên liệu thực vật trong sản
xuất thức ăn nuôi cua lột sẽ mang lại hiệu quả
về mặt kinh tế, giúp giảm giá thành thức ăn,
giảm chi phí cho người ni. Tuy nhiên, một số
vấn đề cần lưu ý khi sử dụng protein thực vật
trong thức ăn cho cua liên quan đến hàm lượng
acid amin và tính cân bằng acid amin, đặc biệt
là lysine và methionine, làm giảm tăng trưởng
của đối tượng nuôi (Wilson 1989; Floreto và
ctv., 2000) . Hơn thế nữa, mùi của đạm thực vật
thường không hấp dẫn (Lim và Dominy, 1990)
và khả năng tiêu hóa carbohydrate của lồi thủy

sản ăn thịt khá thấp (NRC, 2011; Arockiaraj và
ctv., 1999). Bột phụ phẩm gia cầm (PGC), bột
lông vũ và bột lông vũ thủy phân được xem như
nguồn nguyên liệu nhiều tiềm năng thay thế
trong thức ăn cho cua lột với hàm lượng protein
cao (khoảng 58 –80%) và hàm lượng tro tương
đối thấp (3-8%). Mặc dù PGC có hàm lượng
acid amin thấp hơn so với bột cá nhưng có thể
bổ sung bằng các nguồn acid amin hoặc protein
động vật có hàm lượng protein cao khác như
bột huyết... nhằm tăng hiệu quả sử dụng protein,
giảm hệ số chuyển đổi thức ăn và thúc đẩy tăng
trưởng. PGC chứa khoảng 10% chất béo đó là
nguồn cung cấp năng lượng tiêu hóa quan trọng
cho cua lột.
Nhiều nghiên cứu cho thấy dầu thực vật có
thể thay thế đến 50% dầu cá tuyết trong khẩu
phần thức ăn cua bùn (S. serrata) (Alava và
ctv., 2007; Ali và ctv., 2011). Do đó cần nghiên
cứu bổ sung nhóm các nguyên liệu cung cấp
lipid có nguồn gốc thực vật như dầu lanh, dầu
cọ, dầu đậu nành và dầu cám chà (bảng 4) trong
thức ăn cho cua lột. Trong đó, nhóm cung cấp
lipid có chứa mạch carbon C18:0, C18:1 và

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018

63



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

C18:2 (1,6; 39,1 và 33,4 g/100g) ở dầu cám có
tỷ lệ cao (Nguyễn Công Khẩn và Hà Thị Anh
Đào, 2007). Nghiên cứu của (Sheen và Wu,
1999) cho thấy khi tỷ lệ trộn dầu cá và dầu
bắp theo tỉ lệ (2:1) vào thức ăn từ 5,3% đến
13% cho tần suất cua lột cao hơn so với thức ăn
không bổ sung lipid tương ứng với 3,6 lần lột
so với 2,8 lần lột, trong 63 ngày nuôi, tỷ lệ C16
(g/100g) trong axit béo thành phần từ 12-13%,
C18:0 chiếm khoảng 2,5%, C18:1 khoảng
25,5% và C18:2 khoảng từ 25,6% đến 28,8%.
Catacutan và ctv., 2003 cho rằng cua (Scylla
serrata) có khả năng tiêu hóa dầu thực vật tốt
hóa hơn dầu mỡ động vật, do đó việc chọn lựa
nguyên liệu như cám chà có hàm lượng lipid
cao là việc cần lưu ý trong lập khẩu phần thức
ăn cho cua lột.
IV. KẾT LUẬN
Cua lột có chỉ số sinh hố về protein, lipid
cao hơn ở cua thịt. Các chỉ số về thành phần axit
béo cũng cho thấy ở cua lột cao hơn ở cua thịt ở
axit béo có mạch cacbon cao (C18:1 và C18:2)
Thức ăn nuôi cua hiện đang sử dụng chưa
đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho cua
thương phẩm.
Một số nguyên liệu sẵn có như cám chà, cám
gạo lau ướt, cám gạo lau khơ, bột lơng vũ,… có
thành phần dinh dưỡng có khả năng sử dụng làm

nguồn thức ăn cho cua lột thương phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Công Khẩn, Hà Thị Anh Đào, 2007. Bảng
thành phần thực phẩm Việt Nam – Vietnamese
food composition table., Nhà xuất bản Y học.
Nguyễn Thị Bích Thuý, Đinh Tấn Thiện, Lê Minh
Vương, Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Chí, Nguyễn
Xuân Nam, Lê Vịnh, 2004. Nghiên cứu phương
pháp kích thích đồng loạt lột xác ghẹ xanh
(Portunus pelagicus) thương phẩm. Trung Tâm
Nghiên Cứu Thủy Sản III.
TCVN 1525:2001. Thức ăn chăn nuôi. Xác định
hàm lượng Phospho. Phương pháp quang phổ.
TCVN 4326:2001 (ISO 6496:1999). Thức ăn chăn
nuôi. Xác định độ ẩm và hàm lượng chất bay hơi
khác.

64

TCVN 1526-1:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định
hàm lượng canxi. Phần 1 - Phương pháp chuẩn
độ
TCVN 4327:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định tro
thô
TCVN 4328-1:2007. Thức ăn chăn nuôi. Xác định
hàm lượng nitơ và tính hàm lượng protein thơ.
Phần 1 - Phương pháp kjeldahl.
TCVN 4329:2007 (ISO 06865:2000). Thức ăn chăn
nuôi. Xác định hàm lượng xơ thơ. Phương pháp
có lọc trung gian.

Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn
Anh Tuấn, Phạm Minh Đức, 2006. Nuôi cua lột
(Scylla sp.) trong hệ thống tuần hoàn với các loại
thức ăn và mật độ khác nhau. Tạp chí Nghiên cứu
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, 159-170.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009.
Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản
Nông nghiệp. 191 trang.
Trung tâm khuyến nông Tp. HCM, 2015. Nuôi cua
biển thương phẩm từ nguồn giống nhân tạo. Tài
liệu khuyến nông – Sở Nông nghiệp và Phát triển
nơng thơn TP. Hồ Chí Minh.
Alava, V. R., Quinitio, E. T., De Pedro, J. B., Priolo,
F. M. P., Orozco, Z. G. A., and Wille, M., 2007.
Lipids and fatty acids in wild and pond-reared
mud crab Scylla serrata (Forsskål) during
ovarian maturation and spawning. Aquaculture
Research Vol. 38, 1468–1477.
Ali, S. A., Dayal, J. S., and Ambasankar, K., 2011.
Presentation and evaluation of formulated feed
for mud crab Scylla serrata. Indian Journal of
Fisheries, 58(2), 67–73.
AOAC, 2000. Official methods of analysis.
(996.06) Fat (total, saturated, unsaturated, and
monounsaturated) in foods; hydrolytic extraction
gas chromatographic method (17th ed.). USA:
AOAC International.
AOAC, 2000. Official methods of analysis. (920.39)
Crude Fat or Ether Extract: Animal Feeds. (17th
ed.). AOAC International, Gaithersburg, MD.

Arockiaraj, J., Muruganandam, M., Marimuthu,
K. & Haniffa, M.A., 1999. Utilization of
carbohydrates as a dietary energy source by
striped murrel (Channa striatus) fingerlings.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Acta Zoologica Taiwanica 10, 103-111.
Azra, M.N. & Ikhwanuddin, M. 2016. A review
of maturation diets for mud crab genus Scylla
broodstock: Present research, problems and
future perspective. Saudi Journal of Biological
Sciences 23: 257-267.
Catacutan, M.R., Eusebio, P.S., Teshima, S.-i., 2003.
Apparent digestibility of selected feedstuffs by mud
crab, Scylla serrata. Aquaculture. 216, 253–261.
Christensen, S.M., Macintosh, D.J., Phuong, N.T.,
2004. Pond production of the mud crabs Scylla
paramamosain (Estampador) and S. olivacea
(Herbst) in the Mekong Delta, Vietnam, using
two different supplementary diets. Aquaculture
Research. 35, 1013-1024.
FAO, 2015. Fisheries and Aquaculture topics.
Capture fisheries resources. Topics Fact Sheets.
In: Fisheries and Aquaculture Department
[online]. Rome.
Floreto E.A., Bayer R.C. & Brown P.B., 2000. The
effects of soybean-based diets, with and without

amino acid supplementation, on growth and
biochemical composition of juvenile American
lobster, Homarus americanus. Aquaculture189,
211–235.
Folch J, Lees, M, Stanley GHS. A simple method for
the isolation and purification of total lipids from
animal tissues. J Biol Chem. 1957; 226: 497-509.
Keenan, C.P., 1999. Aquaculture of the Mud Crab,
Genus Scylla — Past, Present and Future. Mud
crab aquaculture and biology. . in: Keenan,
C.P., Blackshaw, A (Ed.), Proceedings of an
international scientific forum held in Darwin,
Australia,. ACIAR Proceedings No. 78, 216 p.
Lim, C. and Dominy, W. 1990. Evaluation of
soybean meal as a replacement for marine animal
protein in diets for shrimp (Penaeus vannamei).
Aquaculture 87:53-63.
NRC (2011). National Research Council, Nutrient
requirement of fish and shrimps.
National Academy Press, Washington.

feed efficiency and energy budget during a molt
cycle of mud crab juveniles, Scylla serrata (Forskål,
1775), fed on different practical diets with graded
levels of soy protein concentrate as main source of
protein. Aquaculture. 434, 499-509.
Rodriguez, E., Quinitio, E., Parado-Estepa, F.,
Millamena, O., 2001. Culture of Scylla serrata
Megalops in Brackishwater Ponds Asian
Fisheries Science. 14, 185-189.

Sheen, S.-S., Wu, S.-W., 1999. he effects of dietary
lipid levels on the growth response of juvenile mud
crab Scylla serrata. Aquaculture. 175, 143–153.
Sudhakar, M., Manivannan, K., Soundrapandian,
P., 2009. Nutritive Value of Hard and Soft Shell
Crabs of Portunus sanguinolentus (Herbst).
International Journal of Animal and Veterinary
Advances. 1, 44-48.
Tavares, C.P.d.S., Silva, U.A.T., Pereira, L.A.,
Ostrensky, A., 2017. Systems and techniques
used in the culture of soft-shell swimming crabs.
Reviews in Aquaculture.
Teshima, S.I., Kanazawa, A., 1971. Biosynthesis
of sterols in the lobster, Panulirus japonica, the
prawn, Penaeus japonicus, and the crab, Portunus
trituberculatus. Comparative Biochemistry and
Physiology Part B: Comparative Biochemistry.
38, 597-602.
Tuan, V.-a., Anderson, A., Luong-van, J., Shelley, C.,
Allan, G., 2006. Apparent digestibility of some
nutrient sources by juvenile mud crab, Scylla
serrata (Forskal 1775). Aquaculture Research.
37, 359-365.
Ut, V.N., Le Vay, L., Nghia, T.T., Hong Hanh, T.T., 2007.
Development of nursery culture techniques for the
mud crab Scylla paramamosain (Estampador).
Aquaculture Research. 38, 1563-1568.
Wickins, J.F., Lee, D.O.C., 2002. Crustacean-FarmingRanching-and-Culture. Blackwell Science.
Wilson R.P. (1989) Amino acids and proteins.
In:Fish Nutrition(ed. by J.E. Halver), pp. 112–

151. Academic Press Inc., San Diego, CA, USA.

Nguyen, N.T.B., Chim, L., Lemaire, P., Wantiez, L.,
2014. Feed intake, molt frequency, tissue growth,

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018

65


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

STUDY ON FORMULATED FEED FOR COMMERCIAL SOFT SHELL
MUD CRAB PRODUCTION (Scylla paramamosain)
Le Hoang1*, Nguyen Thanh Trung1, Tran Le Trinh1, Nguyen Van Nguyen1

ABSTRACT
Soft - shell mud crab is a nutritious food and commonly consumed in Vietnam. The quality of feed
ingredients and nutritional requirement of pre- and post-molt crabs are the essential fundament for
development of the formulated feed for commercial soft shell mud crab production. Commercial
crab feeds, feed ingredients and grow-out crabs in pre- and post-molt stage were sampled to
investigate the chemical properties and nutrient composition. The studied results showed that fresh
rice brans (full fat rice bran) and squid liver powder contained high fat content, respectively (16.1517.64% and 13.78%), on the contrary, the low nutrient content was recorded in the commercial crab
feeds using for mud crab farming in Can Gio (protein: 17,22%; lipid: 6,56% and fiber: 10,76%).
Furthermore, a great variation of nutrient characteristics of grow –out mud crabs before and after
molting was found, in which protein and lipid content increased markedly after molting (44.1% vs.
71.38%; 6.25% vs. 13.66%) while the content of calcium (14.69% vs. 2.71%) and ash (43.55% vs.
13.66%) notably decreased. In particular, fatty acids of C18: 1 and C18: 2 in whole body of postmolting crab (2.76% and 0.44%) presented markedly higher content than those (3.98% and 0.10%)
in the pre- molt crab.
Keywords: Commercial soft-shell crab production, mud crab, Scylla paramamosain, formulated

feed, feed ingredients, chemical properties.

Người phản biện: TS. La Xuân Thảo
Ngày nhận bài: 12/6/2018
Ngày thông qua phản biện: 30/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/7/2018

1
*

Research Center for Aqua-Feed Nutrition and Fishery Post-Harvest Technology, Research Institute for Aquaculture No.2
Email:

66

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018



×