Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
194
c.mác
195
bruyn
kể từ cuộc chiến tranh chống Gia-cô-banh. Sau coup d'état1* ngày
18 tháng Sương mù, Bô-na-pác-tơ cử Bruyn làm uỷ viên Hội đồng
quốc gia mới được thành lập, rồi phái ông đi đánh bọn bảo hoàng
ở Brơ-ta-nhơ.
Được phái đến quân đoàn I-ta-li-a vào năm 1800, Bruyn đÃ
chiếm được ba dinh luỹ của địch, củng cố trận địa trên bờ sông
Vôn-ta, đẩy địch sang bên kia sông và thi hành những biện pháp
để vượt sông tức khắc. Theo lệnh của ông, quân đoàn phải vượt
sông ở hai địa điểm: cánh phải do tướng Đuy-pông chỉ huy vượt
sông ở quÃng giữa trạm xay bột trên bờ sông Vôn-ta và làng Pốttxan-lô; cánh trái do Bruyn đích thân chỉ huy vượt sông ở Môn-bôdôn. Khi cánh trái triển khai hoạt động thì gặp khó khăn, Bruyn ra
lệnh lui lại 24 giờ, mặc dù cánh phải đà bắt đầu vượt sông ở địa
điểm khác, đà bước vào chiến đấu với quân áo có số quân đông hơn
rất nhiều. Chỉ nhờ sự cố gắng của tướng Đuy-pông cánh phải mới
không bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh, điều đó sẽ đe doạ thắng
lợi của toàn chiến dịch. Sai lầm ấy làm cho Bruyn bị gọi về Pa-ri.
Từ năm 1802 đến năm 1804, Bruyn đóng vai trò không đáng
kể với chức vụ đại sứ ở Công-xtăng-ti-nô-plơ, nơi đây tài ngoại
giao của ông không được lưỡi lê chi viện như ở Thuỵ Sĩ và Pi-êmông. Khi ông trở về Pháp tháng Chạp 1804, Na-pô-lê-ông thăng
ông lên nguyên soái, coi trọng ông hơn những tướng như Lơ-caubơ. Qua một thời gian làm tư lệnh trại lính Bu-lông154, năm 1807,
ông được cử đến Hăm-buốc làm tổng đốc các thành phố thuộc liên
minh Han-dây và tư lệnh đội hậu bị của đại quân. Giữ chức vụ
ấy, ông tích cực giúp Buốc-ri-en-nơ biển thủ tài sản quốc gia. Để
giải quyết một số điều tranh chấp của hiệp định ngừng bắn ký kết
với Thuỵ Điển ở Slắc-ten, Bruyn đà tiến hành hội đàm riêng kéo
dài với vua Gu-xtáp, là người trên thực tế đà đề nghị ông phản
bội hoàng thượng của mình. Phương thức mà ông từ chối đề
nghị đó đà gây ra sự hoài nghi của Na-pô-lê-ông; Na-pô-lê-ông đÃ
nổi cơn lôi đình khi Bruyn thảo hiệp định chuyển giao đảo Ri-ughen cho người Pháp chỉ nhắc đến quân Pháp và quân Thuỵ Điển
với tư cách là hai bên ký kết, chứ không nhắc gì đến "đức hoàng đế
và đức quốc vương". Bruyn lập tức bị triệu hồi bằng bức thư của Bécti-ê, trong đó Béc-ti-ê theo chỉ thị đặc biệt của Na-pô-lê-ông đà chỉ
rõ "từ thời Pha-ra-mông chưa hề có chuyện tai tiếng như vậy".
Trở về Pháp, Bruyn đi vào cuộc sống riêng. Năm 1814 ông
tuyên thệ với sắc lệnh của thượng nghị viện155 và được Lu-i XVII
thưởng huân chương chữ thập thánh Lu-i. Trong thời kỳ xảy ra sự
kiện Trăm ngày156 ông lại trở thành một phần tử Bô-na-pác-tơ và
được bổ nhiệm làm tư lệnh quân đoàn thám sát trên sông Va-ra,
nơi đây ông truy nà bọn bảo hoàng cũng với sự không thương tiếc
và sự kiên quyết như khi ông thuộc phái Gia-cô-banh. Sau trận
Oa-téc-lô, ông tuyên bố mình là người ủng hộ quốc vương. Từ Tulông đi Pa-ri, ngày 2 tháng Tám ông đến A-vi-nhôn vào lúc thành
phố nằm trong tay bọn ác ôn bảo hoàng đang tiến hành giết người
và đốt nhà trong 15 ngày. Chúng nhận ra ông và ông bị bắn chết.
Đám đông cướp lấy xác ông, kéo lê theo đường phố rồi quẳng ông
xuống sông Rôn. "Bruyn, Ma-xê-na, Ô-giê-rô và nhiều người khác
nữa" - Na-pô-lê-ông nói trên đảo Xanh Ê-len - "là những người
phá hoại không biết sợ sệt". Về tài năng quân sự của ông, Na-pôlê-ông nêu rõ: "Bruyn có công lao nhất định, nhưng nhìn chung ông
ta là général de tribune1* hơn là một chiến binh đáng sợ". Năm
1814 người ta dựng cho ông một đài kỷ niệm ở thành phố quê
hương.
_____________________________________________________________
_____________________________________________________________
1* - cuộc chính biến
Do C.Mác viết vào khoảng ngày 23-29
In theo bản in trong Bách
tháng Chín 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. IV, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
1* - viên tướng trên khán đài
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
196
đạn trái phá
ph.ăng-ghen
Đạn trái phá
Đạn trái phá hay là đạn pháo nổ, là đạn pháo bằng sắt và
rỗng được nhồi thuốc súng, dùng cho trọng pháo và cối; được bắn
đi theo góc khá cao và nhằm phát huy tác dụng nhờ sức rơi và sức
nổ của nó. Đạn trái phá là loại lớn nhất trong số các đạn pháo
được sử dụng, vì súng cối, loại pháo ngắn nhất trong các loại
pháo, có thể có đường kính và kích cỡ lớn hơn nhiều. Hiện nay,
người ta thường sử dụng đạn trái phá có đường kính 10, 11 và 13
in-xơ; năm 1832 trong cuộc vây đánh Ăng-ve157 người Pháp đà sử
dụng cối đúc ở Bỉ và đạn trái phá cỡ 24 in-xơ. Thuốc súng chứa
trong đạn nổ được nhờ có ngòi nổ là một ống tròn rỗng chứa đầy
thuốc cháy chậm bắt lửa khi bắn cối. Tác dụng của ngòi nổ ấy được
tính toán sao cho đạn nổ hết sức nhanh tới mục tiêu, có khi nổ
trước khi chạm mặt đất. Ngoài thuốc súng ra, trong đạn trái phá có
khi còn nhét mấy liều thuốc Va-lan-xi-en158 để đốt cháy những vật
bắt lửa, nhưng có ý kiến cho rằng thứ thuốc này vô dụng, vì khi
đạn nổ, nó bị phân thành những hạt nhỏ li ti, rằng không có thứ
thuốc này thì tác dụng đốt cháy của đạn trái phá cũng không mảy
may giảm sút. Việc bắn đạn trái phá được tiến hành với góc bắn
từ 15 đến 45, nhưng thông thường nhất là với góc 30 đến 45,
ngoài ra đạn trái phá cỡ lớn hơn với lượng thuốc nổ ít hơn thì có
tầm bắn tương đối lớn hơn khi góc bắn là 45, còn loại đạn trái
phá nhỏ hơn có lượng thuốc tăng lên sẽ có tầm bắn tương đối lớn
197
hơn, khi góc bắn là 30 hoặc khoảng 30. Trong mọi tình huống,
lượng thuốc súng tương đối nhỏ: đạn trái phá cỡ 13 in-xơ nặng
200 pao khi bắn bằng cối với góc bắn 45, với lượng thuốc súng là
3ẵ thì có tầm bắn là 1 000 i-ác-đơ, còn với lượng thuốc súng là 20
pao, tức là bằng 1/10 trọng lượng của đạn trái phá, thì tầm bắn là
4 200 i-ác-đơ. Sức phá hoại của đạn trái phá đó, rơi từ độ cao lớn,
sẽ rất lớn, nếu nó rơi vào cái gì dễ phá hoại. Nó xuyên thủng được
mọi tầng gác của ngôi nhà và trần che vòm kiên cố, và tuy đạn
trái phá cỡ 13 in-xơ, chứa cả thảy có chừng 7 pao thc sóng, song
kÕt qu¶ cđa søc nỉ cđa nã giống như kết quả của mìn nổ và mảnh
của nó, nếu không gặp trở ngại sẽ văng xa 800 và 1 000 i-ác-đơ.
Mặt khác, nếu đạn trái phá rơi vào đất mềm, nó sẽ xuyên sâu từ 8
đến 12 phút và hoặc là không nổ, hoặc là nổ, nhưng không gây tác
hại được nữa. Đồng thời đạn trái phá thường được dùng làm mìn
nhỏ hoặc bom phá - người ta chôn nó dưới đất ở độ sâu chừng một
phút ở những nơi mà địch phải đi qua; để làm nó nổ, người ta dùng
ngòi nổ hoặc dây cháy chậm. Phương pháp ban đầu sử dụng đạn trái
phá là như vậy. Theo các nhà viết sử biên niên Trung Quốc thì ngay
từ mấy thế kỷ trước công nguyên, người Trung Quốc đà sử dụng
những quả cầu bằng kim loại chứa đầy chất nổ và những mảnh kim
loại, những quả cầu này nổ nhờ ngòi cháy chậm. Họ sử dụng những
quả cầu đó trong việc phòng thủ các hẻm núi, chôn chúng ở đó khi
địch đến gần. Năm 1232, trong trận phòng ngự Phủ Khai Phong, khi
bị đột kích, người Trung Quốc thường lăn đạn trái phá từ trên tường
chắn xuống quân Mông Cổ đang cường tập vào cứ điểm của họ. Sắc
Gút-giê-ra là Ma-khơ-mút vây đánh Cham-pa-nia vào năm 1484
đà quăng đạn trái phá vào trong thành. ở châu Âu, nếu không
nhắc đến những thí dụ có sớm hơn và không đáng tin cậy lắm, thì
người A Rập ở Tây Ban Nha và nối gót họ là người Tây Ban Nha
từ đầu thế kỷ XIV đà dùng pháo bắn đạn trái phá và đạn cháy,
nhưng giá đắt và khó khăn trong việc chế tạo đạn rỗng đà cản
trở trong một thời gian dài việc sử dụng rộng rÃi những loại
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
198
199
ph.ăng-ghen
đạn đó. Chỉ từ giữa thế kỷ XVII chúng mới trở thành yếu tố hợp
thành quan trọng của pháo binh công thành.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
Ph.ăng-ghen
Pháo thủ
Pháo thủ ban đầu là lính thao tác cối trong khẩu đội cối,
nhưng hiện nay trong một số quân đội, thuật ngữ ấy được dùng để
gọi hạ sĩ quan pháo binh có cấp bậc thấp hơn cấp trung sĩ. Chức
trách chính của pháo thủ thường là ngắm pháo. ở áo đà thành
lập quân đoàn pháo thủ, nó được coi là trường huấn luyện các hạ
sĩ quan pháo binh, là tổ chức góp phần đáng kể vào việc xây dựng
phương pháp huấn luyện pháo binh một cách khoa học và có hiệu
quả, nhờ đó mà binh chủng này nổi bật trong quân đội áo.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
200
201
pháo kích
ph.ăng-ghen
pháo kích
Pháo kích là bắn phá thành phố hoặc cứ điểm bằng đạn trái phá
để gây ra cháy. Cuộc pháo kích hoặc mang tính chất không có hệ
thống khi các tàu chiến, các khẩu đội pháo dà chiến và một số lượng
tương đối nhỏ khẩu đội pháo công thành dùng đạn trái phá bắn vào
một địa điểm nào đó để doạ dân cư và đội quân bảo vệ, để đạt được
sự đầu hàng nhanh chóng, cũng như nhằm mục đích khác, hoặc
mang tính chất chính quy khi người ta sử dụng nó làm một trong
những phương pháp công kích cứ điểm. Việc tấn công cứ điểm bằng
pháo kích chính quy được người Phổ tiến hành lần đầu tiên vào năm
1815, sau trận Oa-téc-lô, trong cuộc vây đánh các cứ điểm ở miền
Bắc nước Pháp. Vì quân đội Pháp và những người ủng hộ Bô-napác-tơ bấy giờ đà sa sút tinh thần rất nhiều, còn toàn bộ số cư dân
còn lại thì khao khát hoà bình, nên lần này quân Phổ quyết định vứt
bỏ các hình thức vây đánh cũ tiến hành tuần tự từng bước và thay
thế bằng cuộc pháo kích ngắn và mÃnh liệt gây ra những đám cháy
và làm nổ các kho thuốc súng, khiến cho toàn thể cư dân trong cứ
điểm mất ngủ suốt đêm, do đó thúc đẩy sự đầu hàng nhanh chóng
hoặc bởi áp lực tinh thần của cư dân đối với bộ tư lệnh, hoặc bởi số
lượng những sự phá huỷ thực tế và sự kiệt sức của đội quân phòng
thủ. Tuy phương pháp tấn công chính quy vào các công sự phòng
ngự
bằng hoả lực bắn thẳng còn tiếp tục được sử dụng, nhưng nó đÃ
trở thành phương pháp thứ yếu so với phương pháp bắn cầu vồng
bằng đạn trái phá bắn đi từ các khẩu lựu pháo hạng nặng. Trong
một số tình huống chỉ cần sử dụng biện pháp pháo kích không có
hệ thống là đủ, trong những tình huống khác thì phải dùng đến
phương pháp pháo kích chính quy, nhưng trong cả hai trường hợp
ấy mục đích đều nhất định đạt được, nên hiện nay trong lý thuyết
về vây đánh, người ta thừa nhận một nguyên tắc là tiêu diệt các
nguồn dự trữ của địch bằng hoả lực cầu vồng và nhờ đó làm cho
việc ở lại trong cứ điểm trở thành nguy hiểm, - cách đó cũng quan
trọng (nếu không phải là quan trọng hơn) như phá hoại công sự
ngoại vi bằng hoả lực bắn thẳng và bắn chéo. Việc pháo kích vào
cứ điểm cỡ vừa có đông dân thường đem lại hiệu quả lớn nhất, vì
tác dụng tinh thần của việc pháo kích là một trong những thủ
đoạn buộc bộ chỉ huy đầu hàng. Việc pháo kích vào cứ điểm lớn
đòi hỏi số lượng rất lớn các nguồn dự trữ vật chất. Cuộc vây đánh
Xê-va-xtô-pôn là một ví dụ điển hình nhất, trong cuộc vây đánh
này người ta đà bảo tồn được một số đạn dược chưa từng thấy159.
Cũng cuộc chiến tranh này đà cho chúng ta một ví dụ rõ rệt nhất
về phương pháp pháo kích không có hệ thống, khi các thuyền
trang bị súng cối của quân Anh - Pháp tấn công Xvê-a-boóc-gơ,
lúc bấy giờ người ta đà bắn vào cứ điểm này trên 5 000 đạn trái
phá và một số lượng như thế đạn đặc160.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5 tháng
In theo bản in trong Bách
Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
202
203
ph.ăng-ghen
ph.ăng-ghen
pháo thuyền
Pháo hạm
Thuật ngữ pháo thuyền hiện nay thường được dùng để chỉ
chiến thuyền có đặt cối kiểu cổ hơn (galiotes à bombes 1*). Chúng
được chế tạo khá vững chắc để có thể chịu đựng được những chấn
động gây ra bëi sù giËt lïi cđa cèi, dµi 60-70 phót, träng tải từ
100 tấn đến 150 tấn, mớn nước từ 8 đến 9 phút và thông thường
có hai cột buồm. Trên loại thuyền này bố trí hai khẩu cối và mấy
khẩu pháo. Tính năng hàng hải của chúng đương nhiên là rất
thấp. Chúng thường có tàu bổ trợ - thông thường là chiến thuyền
có hai cột buồm - đi kèm, thuyền bổ trợ này, trước khi bắt đầu
cuộc chiến đấu, chở pháo thủ và phần lớn đạn dược.
Pháo hạm, hay là chiến thuyền trang bị cối là thuật ngữ dùng
để chỉ một loại tàu chiến hiện đại hơn được trang bị súng cối.
Trước cuộc chiến tranh Nga1* trong hạm đội Anh, những tàu
chiến kiểu này có mớn nước 8-9 phút, trên đó ngoài 2 khẩu cối cỡ
10 in-xơ, còn bố trí 4 khẩu pháo cỡ 68 pao và 6 khẩu pháo Car«ng cì 18 pao. Khi cc chiÕn tranh víi Nga làm cho hoạt động
của hạm đội ở nơi nước nông và đường biển quanh co trở nên cần
thiết, còn các cứ điểm bờ biển kiên cố của quân Nga không thể bị
đánh chiếm bằng cuộc công kích chính diện của tàu chiến, đòi hỏi
sử dụng chiến thuyền có trang bị súng cối thì người ta phải phát
minh ra loại pháo hạm mới. Những tàu chiến mới này dài khoảng
60 phút, rất rộng, mũi tàu tròn như ở các tàu Ga-li-ốt của Hà
Lan, đáy bằng, mớn nước 6-7 phút, và chạy bằng máy hơi nước.
Chúng được trang bị hai khẩu cối cỡ 10 hoặc 13 in-xơ và mấy
khẩu pháo dà chiến hoặc pháo Ca-rông dùng đạn có nhiều mảnh
kim loại nhỏ để đẩy lùi các đơn vị đánh lên tàu; trên tàu loại này
không có trọng pháo. Chúng đà tác chiến trong trận Xvê-a-boócgơ có hiệu quả lớn khi bắn vào cứ điểm này ở cự ly 4 000 i-ác-đơ.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
_____________________________________________________________
1* - pháo thuyền Ga-li-ốt
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
_____________________________________________________________
1* - Chiến tranh Crưm 1853-1856
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
204
công sự chống đạn trái phá
ph.ăng-ghen
205
mÃnh liệt suốt ngày đêm như hiện nay thì không thể hy vọng
quân phòng thủ có thể chịu đựng được cuộc vây đánh như vậy,
nếu nó không được bảo đảm có được các công sự ẩn nấp chắc chắn,
trong đó các phân đội thay thế nhau có thể nghỉ ngơi và khôi phục
sức lực. Vì vậy trong việc xây dựng cứ điểm hiện đại, số lượng
công sự này hoàn toàn chắc chắn sẽ tăng lên không ngừng.
công sự chống đạn trái phá
Công sự chống đạn trái phá là công trình che đỡ có kết cấu
nhất định đủ vững chắc để chống được sức công phá của đạn trái
phá rơi trúng nó. Trong tình hình sử dụng những cỡ đạn rất lớn
hiện nay thì hầu như không thể làm cho đại bộ phận các kiến trúc
chống được trái phá, tuyệt đối an toàn trước hoả lực cầu vồng, vả
lại, hiển nhiên là điều này cũng không hợp lý. Mái vòm dày 3ẵ
phút ở ngay vòm đá cuốn có thể chống đỡ được phần lớn các đạn
trái phá, thậm chí một quả đạn cỡ 13 in-xơ không xuyên qua
được, nhưng quả thứ hai thì phần nhiều là xuyên qua được. Do
đó, công sự tuyệt đối chống được đạn trái phá chỉ được xây dựng
cho kho đạn dược, phòng thí nghiệm v.v., nơi đây một quả đạn
trái phá sẽ gây ra một vụ nổ có sức mạnh cực lớn. Mái vòm kiên
cố, trên có phủ một lớp đất dày 3-4 phút, sẽ đem lại sự an toàn
lớn nhất. Mái vòm của hầm thông thường không cần phải kiên cố
như vậy, vì khả năng rơi trúng lần thứ hai vào đúng một chỗ là
rất hiếm. Đối với công sự chống đạn tạm thời thì lợp bằng những
xà gỗ kiên cố kê liền nhau, trên phủ các bó cành cây rồi đến rác
rưởi và cuối cùng phủ đất. Với việc sử dụng các pháo đài và lôcốt có hầm ngầm, cũng như các doanh trại phòng ngự kiểu hầm
ngầm thường được bố trí dọc theo mặt dốc trong của tường cứ
điểm và ở gần tường đó mà số lượng công sự chống trái phá
trong cứ điểm tăng lên rất nhiều; vả lại, trong điều kiện sử dụng
phương pháp kết hợp vây đánh chính quy cứ điểm với pháo kích
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 5
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
In bằng tiếng Nga lần đầu
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
206
cầu quân sự
ph.ăng-ghen
cầu quân sự161
Kỹ thuật xây dựng các cầu tạm để cho quân lính qua các sông
lớn và eo biển hẹp đà được người cổ đại nắm vững, và các công
trình loại này của họ có khi làm người ta ngạc nhiên về quy mô
của chúng. Đa-ri đà vượt eo biển Bô-xpho và sông Đa-nuýp, còn
Cxe-rcơ-xơ thì vượt eo biển Hê-le-xpôn-tơ bằng cầu phao được
dựng lên bằng các tàu thuyền; chúng ta thấy trong tác phẩm của
Hê-rô-đốt162 đà ghi chép về những chiếc cầu ấy. Quân đội của
Cxe-rcơ-xơ đà bắc hai cầu qua eo biển Đác-đa-nen. Cầu thứ nhất
gồm 360 tàu được gắn các neo ở mũi thuyền và ở đuôi thuyền và
áp mạn vào nhau, sống tàu hướng theo dòng nước; các tàu được
nối liền bằng xích chắc, bên trên lát ván, hai bên được củng cố
bằng xà ngang và phủ một lớp đất. Cầu thứ hai gồm 314 tàu và
cũng được xây dựng theo phương pháp đó. Theo lời kể của A-ri-anốt, trong quân đội của A-lếch-xan-đrơ có đội cầu phao thường
trực gồm các tàu nhẹ163. Người La MÃ có các tàu đan bọc da thú
dùng để đỡ mặt lát ván của cầu; cho mÃi đến thời kỳ sụp đổ của
Đế quốc La MÃ, những tàu này là một bộ phận của đoàn vận tải
của quân đội. Song, nếu cần vượt qua những con sông chảy xiết,
người La MÃ cũng biết cách xây dựng những chiếc cầu quân sự
vững chắc hơn; bằng chứng của điều đó là những chiếc cầu nổi
tiếng gá trên những trụ chống mà Xê-da dùng để vượt sông
Ranh164.
207
Chúng ta không tìm thấy những tư liệu về sự tồn tại trong các
quân đội thời Trung cổ những khí tài chuyên dùng để vượt sông và
bắc cầu, nhưng trong thời kỳ có cuộc Chiến tranh ba mươi năm, các
quân đội tác chiến đều mang theo khí tài để bắc cầu qua những con
sông lớn ở Đức. Các tàu được sử dụng thời đó rất nặng, thường được
làm bằng gỗ sồi. Mặt cầu được đỡ bằng những chiếc giá dựng đứng
trên đáy tàu. Người Hà Lan là những người đầu tiên sử dụng
những chiếc tàu kiểu nhẹ hơn, đáy bằng, thành tàu hầu như thẳng
đứng, mũi tàu và đuôi tàu nhọn, ngoài ra, hai đầu cao hơn mặt
nước theo một góc nhất định. Những tàu này được làm bằng khung
gỗ, bọc sắt lá và gọi là cầu phao. Theo Phô-la-rơ165 người Pháp cũng
cho mình là người phát minh ra cầu phao, nhưng lại bọc bằng
đồng, và có ý kiến cho rằng khoảng năm 1672 họ có hẳn một đội
cầu phao hoàn bị. Vào đầu thế kỷ XVIII, tất cả các quân đội châu
Âu đà có những tàu như vậy, và thông thường có bộ sườn gỗ bọc
bằng sắt hoặc đồng, phủ da hoặc vải buồm tẩm dầu. Người Nga sử
dụng loại vật liệu kể ra cuối cùng đó. Các con tàu không lớn và để
cho cầu có thể nổi trên mặt nước ở mức độ nào đó, thì cần bố trí các
tàu gần nhau, chỉ để lại một khoảng trống không quá 4-5 phút
giữa chúng với nhau; điều đó cản trở rất nhiều cho nước chảy,
khiến cho sự an toàn của cầu bị đe doạ và làm cho địch có thể phá
hoại cầu bằng cách thả vào cầu những vật nổi.
Thuyền phao hiện sử dụng trong các quân đội của các nước
trên lục địa châu Âu có kích thước lớn, nhưng về cơ bản thì giống
cầu phao sử dụng trước đây 100 năm. Từ năm 1829 người Pháp
dùng các tàu đáy bằng, thành hầu như thẳng ®øng, mịi nhän,
®u«i cịng nhän, tuy ë møc ®é Ýt hơn; hai đầu của tàu cao hơn mạn
tàu và cong lên giống như ở thuyền độc mộc. Kích thước của các
tàu như sau: dài 31 phút, trên rộng 5,7 phút, đáy rộng 4,4 phút.
Khung bằng gỗ sồi có bọc ván gỗ thông. Mỗi cầu phao nặng
1 658 pao và có sức nổi (sức chở khi tàu ngập xuống nước đến
phía trên mạn tàu) là 18 675 pao. Khi bắc cầu, các tàu được bố
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
208
ph.ăng-ghen
trí với khoảng cách nhau là 14 phút giữa các mạn tàu. Bề rộng
an-giê-ri
209
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
210
ph.ăng-ghen
của phần đi lại được là 11 phút. Đội tiền tệ của quân đội dùng cầu
phao nhỏ để vượt những con sông nhỏ hơn. Cầu phao của áo giống
cầu phao lớn hơn của Pháp nhưng để tiện vận chuyển, chúng được
chia ở giữa ra thành hai bộ phận, các bộ phận này sẽ được ghép lại
với nhau, một khi đà thả xuống nước. Hai đầu áp mạn với nhau và
được nối liền bằng những khúc gỗ ngắn, rồi dùng những khúc gỗ dọc
đỡ xà ngang của mặt cầu để tạo thành trụ nổi của cầu. Những cầu
phao này, do Bi-ra-gô phát minh, được sử dụng lần đầu năm 1825.
Cầu phao của người Nga có bộ sườn gỗ mà cấu tạo cho phép tháo dỡ
xà ngang giữa hoặc cột chống; bộ sườn này bọc vải buồm tẩm dầu
hoặc phết dung dịch cao su. Mỗi cầu phao dài 21,9 phút, rộng 4,11
phút, cao 2,4 phút và nặng 718 pao. Bề rộng của phần đi lại trên cầu
là 10 phút, khoảng cách giữa các phao là 8 phút. Người Nga còn có
cầu phao víi bé sên gièng thÕ, nhng bäc da. Ngêi ta khẳng định
rằng người Phổ là người đầu tiên phân chia cầu phao của mình ra
thành nhiều khoảng bằng những tấm chắn ngang để cho các phao
không bị đắm, khi một chỗ nào đó bị rò. Cầu phao của họ làm bằng
gỗ, đáy bằng. Khi bắc cầu, họ để lại giữa các phao một nhịp hoặc
khoảng trống dài từ 8 đến 16 phút tuỳ theo tình hình. Người Hà Lan
từ năm 1832 và người Pi-ê-mông có các đội cầu phao giống với đội
cầu phao sử dụng trong quân đội áo. Tàu làm phao của Bỉ, có mũi
nhọn, nhưng phía lái thì không nhọn. Trong tất cả các quân đội
thuộc các nước trên lục địa, các đội cầu phao đều được trang bị kèm
theo những thuyền nhỏ để chở neo.
Quân đội Anh và Mỹ hoàn toàn không sử dụng thuyền cho đội
cầu phao, mà sử dụng những ống tròn rỗng bịt kín làm bằng vật
liệu nhẹ để đỡ cầu. ở Anh năm 1836 người ta đà thay thế tất cả
các loại cầu phao khác bằng phao ống có hai đầu hình chóp nón,
hình bán cầu hoặc hình pa-ra-bôn, do đại tá Blăng-sác-đơ thiết
kế năm 1828. Phao lớn của Anh dài 24ẵ phút và có đường kính 2
phút 8. Phao được làm bằng tôn lá, được gắn một loại bánh xe
bằng tôn mà nan hoa là những ống tôn rỗng, một ống tôn lớn
cầu quân sự
211
hơn có đường kính 1ắ in-xơ tạo thành trơc chung cđa chóng vµ
kÐo dµi hÕt chiỊu däc cđa phao.
ở Mỹ đà thí nghiệm phao cao su hình ống. Năm 1836 đại uý
(sau là đại tá) Lê-in đà bắc một cầu phao như vậy qua sông sâu
và chảy xiết ở A-la-ba-ma, còn năm 1839 ông Am-xtơ-rông đÃ
thiết kế những phao giống như thế, khi được bơm căng rồi sẽ dài
18 phút, đường kính 18 in-xơ và nặng 39 pao; ba phao đó sẽ tạo
thành một nhịp của cầu. Năm 1846 quân đội Mỹ đà sử dụng phao
cao su bơm trong cuộc chiến tranh chống Mê-hi-cô166. Chúng rất
dễ vận chuyển do trọng lượng không nặng và chiếm không nhiều
chỗ khi được gấp lại, nhưng sẽ hỏng và không sử dụng được do sự
cọ xát vào sỏi v.v., và có những nhược điểm vốn có ở các loại phao
ống. Những nhược ®iĨm ®ã lµ: khi phao ®· ngËp xng níc tíi
nưa chiều cao của nó thì độ chìm của nó ngày càng lớn khi trọng
tải tăng đều, trong khi người ta yêu cầu điều trái lại; thứ nữa, ở
hai đầu ống dễ giữ lại mọi vật nổi trôi qua; sau hết, để di chuyển
chúng trên mặt nước, cần dùng ván cầu nối chúng từng đôi một
thành bè, trong khi đó cầu phao bằng tầu thuyền có thể độc lập di
chuyển trên mặt nước như những chiếc thuyền bình thường và có
thể dùng để chở nhanh chóng binh lính qua sông bằng mái chèo.
Để so sánh sức nổi của cầu phao ống với cầu phao thuyền, chỉ cần
đưa ra những số liệu sau đây là đủ rõ: một thuyền cầu phao của
Pháp đỡ được khoảng 20 phút cầu và có sức nổi (không kể trọng
lượng của cấu trúc bên trên của cầu), trên 150 tạ Anh1*, chiếc bè
Anh gồm hai phao đỡ được một đoạn cầu đại để ngang như thế,
nhưng sức nổi của nó, không kể cấu trúc ở bên trên, chỉ bằng 77
tạ Anh, trong đó chỉ có một nửa là trọng tải cho phép.
Ngoài các thuyền phao ra, đội cầu phao còn bao gồm các mái
chèo, sào, neo, dây và những vật dụng khác cần thiết để di chuyển
thuyền phao trên mặt nước, cũng như để cố định nó tại chỗ, cũng
_____________________________________________________________
1* - Một tạ Anh bằng 112 pao hc 50,8 kg.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
212
ph.ăng-ghen
như có cả rầm và những tấm lát (ván) dùng cho mặt cầu. Cầu
phao bằng thuyền thường được sắp xếp trước từng cái vào vị trí,
rồi chúng được nối liền bằng rầm và ván; các phao ống thì được
nối từng đôi một thành bè, rồi mới thả neo cách đầu cầu một cự ly
thích đáng và được nối liền với cầu bằng rầm và ván. Nếu tình
hình cho phép, từng nhịp cầu gồm 3, 4 hoặc 5 thuyền phao được
nối liền bằng mặt cầu, được dựng lên ở nơi kín đáo ở phía trên địa
điểm định bắc cầu, rồi sau đó được thả từng nhịp một xuống địa
điểm đó. Trong một số trường hợp, khi có những lính bắc cầu giàu
kinh nghiệm, thì toàn bộ chiếc cầu được xây dựng ở bên một bờ
sông, và khi được bắc qua sông sẽ mượn sức chảy của dòng sông
để đẩy sang bên kia bờ. Cầu của quân đội Na-pô-lê-ông để vượt
sông Đa-nuýp vào đêm trước trận Va-gram, đà được bắc theo cách
như vậy. Toàn bộ chiến dịch này cực kỳ bổ ích xét theo góc độ vượt
sông lớn bằng cầu quân sự ngay trước mắt địch.
Song, đội cầu phao không phải bao giờ cũng có sẵn trong tay,
và khi cần, kỹ sư quân sự phải biết bắc cầu qua sông trong trường
hợp không có nó. Có các loại vật liệu và phương pháp bắc cầu hết
sức khác nhau để đạt mục đích đó. Những thuyền lớn, thường
hiện diện trên các con sông đi lại được, có thể được dùng để bắc
cầu phao. Nếu không tìm được thuyền và chiều sâu hoặc hình
dáng của lòng sông đòi hỏi xây dựng trụ nổi thì có thể dùng bè gỗ,
phao bằng thùng hoặc những vật nổi khác. Nếu sông không sâu
và lòng sông rắn chắc, tương đối bằng phẳng thì người ta sẽ dựng
những trụ cầu cố định được làm bằng cọc gỗ bảo đảm xây dựng
được những chiếc cầu kiên cố và chắc chắn, nhưng đòi hỏi mất
nhiều thời gian và sức lao động, hoặc được làm bằng giá đỡ có thể
được dựng lên nhanh chóng và dễ dàng. Có khi những xe lớn chứa
đầy cành cây v.v. và được nhận chìm vào những chỗ tương đối sâu
của con sông, có thể tạo thành trụ đỡ cho mặt cầu. Cầu qua nơi bị
ngập nước, đầm lầy v.v., có thể được bắc bằng những sọt đất lớn.
Để vượt qua các sông hẹp hoặc khe núi và chỉ để cho bộ binh qua
thôi, thì người ta sử dụng các loại cầu treo; những cầu này thường
được treo bằng dây cáp kiên cố.
cầu quân sự
213
Hiện nay, hiếm khi người ta bắc cầu quân sự trong điều kiện
địch khèng chÕ b»ng ho¶ lùc, tuy vËy, bao giê cịng cần dự kiến
khả năng chống trả địch. Do đó, cầu thường bắc ở khúc cong của
sông hướng về phía quân mình để cho các đơn vị pháo bố trí ở bên
phải và bên trái có thể bắn sang bờ bên kia ở gần chỗ cuối cầu, do
đó yểm hộ được việc bắc cầu. Ngoài ra, bờ sông lõm vào của khúc
cong thường cao hơn bờ bên kia, do đó trong phần lớn trường hợp,
ưu thế về hoả lực đan chéo còn được bổ sung bằng ưu thế về vị trí
khống chế. Bộ binh có thể sang bên kia sông bằng thuyền hoặc
cầu thuyền phao bằng mái chèo và chiếm lĩnh trận địa ngay trước
cầu. Có khi người ta làm phà để chuyển một số nhỏ kỵ binh và
một số khẩu pháo nhẹ. Những hòn đảo chia sông ra thành mấy
nhánh, cũng như địa điểm ở bên dưới chỗ một con sông nhỏ nào
đó đổ vào sông lớn, cũng có nhiều ưu điểm. Trong trường hợp thứ
hai, và có khi trong trường hợp thứ nhất, các nhịp cầu có thể lắp
riêng ở nơi kín đáo trên bờ sông, rồi thả theo dòng. Bên tấn công
thường có thể lựa chọn nhiều địa điểm thích hợp trên một đoạn
dài của con sông, có thể dễ dàng làm địch bị lừa bằng tấn công
nghi binh, rồi tiến hành cuộc vượt sông thực sự ở một địa điểm xa
xôi nào đó, còn đối với bên phòng ngự, việc phân tán lực lượng
trên một quÃng sông dài là một việc rất nguy hiểm, cho nên hiện
nay người ta ưa tập trung lực lượng cách xa sông một khoảng nào
đó và tung toàn bộ lực lượng vào nơi vượt sông thực sự, một khi
đà xác định được địa điểm đó và ngay trước khi địch đà đưa toàn
thể binh lính của mình vượt sông. Những nguyên nhân đó giải
thích tại sao từ thời cách mạng Pháp, trong bất cứ cuộc chiến
tranh nào, việc bắc cầu qua bất cứ con sông lớn nào ở châu Âu
cũng đều không vấp phải sự chống cự nghiêm trọng.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 14
tháng Mười 1857
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
t. III, 1858
In theo bản in trong Bách
khoa toàn thư
Nguyên văn là tiếng Anh
In bằng tiếng Nga lần
đầu trong "Tạp chí lịch sử
quân sự" số 11, 1940
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
214
béc-na-đốt-tơ
c.mác
Béc-na-đốt-tơ167
Béc-na-đốt-tơ, Giăng Ba-ti-xtơ, Giuy-lơ là nguyên soái của Đế
chế Pháp, công tước Pôn-tê-cô-rvô và quốc vương Thuỵ Điển và
Na Uy với vương hiệu Các-lơ XIV I-ô-han, sinh ngày 26 tháng
Giêng 1764 ở Pô, thuộc tỉnh Hạ Pi-rê-nê, chết ngày 8 tháng Ba
1844 ở cung vua Xtốc-khôn. Là con trai một luật sư, ông đà được
đào tạo với trình độ cần thiÕt cho nghỊ nghiƯp Êy, nhng niỊm say
mª binh nghiƯp đà thúc đẩy ông, năm 1780, bí mật gia nhập binh
chủng lính thuỷ đánh bộ hoàng gia, ở đây ông đà được phong
quân hàm trung sĩ khi nổ ra cách mạng Pháp. Từ đó bắt đầu cuộc
thăng tiến rất nhanh của ông. Năm 1792 ông đà ở cấp đại tá
trong quân đoàn Quy-xtin-nơ, năm 1793 chỉ huy bán lữ đoàn,
cùng năm nhờ sự che chở của Clê-béc ông được thăng thiếu tướng
và làm sư trưởng trong quân đoàn Xôm-brô-mát do Clê-béc và
Giuốc-đăng chỉ huy, ông đà góp phần vào thắng lợi giành được
ngày 26 tháng Sáu 1794 ở Phlơ-ruýt, thắng lợi ở Giuy-lích và sự
đầu hàng của Ma-a-xtơ-rích168. Ông cũng có công lao lớn trong
chiến dịch những năm 1795-1796 chống lại các tướng của áo là
Cléc-phơ, Crai và đại công tước Các-lơ. Đầu năm 1797 ông được
lệnh của Hội đồng chấp chính đem 20 000 quân tăng viện cho
quân đoàn I-ta-li-a; ở I-ta-li-a, lần đầu tiên ông gặp mặt Bô-napác-tơ, và cuộc gặp gỡ này đà quyết định quan hệ sau này của
họ. Mặc dù đà có được sự oai vệ trời phú, nhưng Bô-na-pác-tơ
215
vẫn đối xử với quân đoàn Ranh và các viên tướng của nó với thái
độ ghen tỵ nhỏ nhen và nghị kỵ. Bô-na-pác-tơ hiểu ngay rằng
Béc-na-đốt-tơ khao khát con đường công danh độc lập. Về phía
mình, Béc-na-đốt-tơ lại là người xứ Ga-xcô-nhơ quá mức để có
thể xác định được chính xác khoảng cách giữa một thiên tài như
Bô-na-pác-tơ với một người có tài năng bình thường như bản
thân ông. Từ đó sinh ra sự ác cảm giữa họ với nhau. Trong cuộc
xâm nhập I-xtơ-ri-a169 Béc-na-đốt-tơ đà nổi bật trong việc vượt
sông Ta-li-a-men-tô, ở đó ông chỉ huy đội tiền vệ, cũng như trong
trận đánh chiếm cứ điểm Gra-đi-xca ngày 19 tháng Ba 1797.
Sau cái gọi là cuộc cách mạng ngày 18 tháng Quả170 Bô-napác-tơ ra lệnh cho các tướng của mình thu nhập thư của các sư
đoàn của họ ủng hộ coup d'état1* ấy, nhưng Béc-na-đốt-tơ, ngay
từ đầu đà tuyên bố phản kháng điều đó, rồi bày tỏ công khai rằng
mình cực kỳ không muốn thi hành chỉ thị ấy và, cuối cùng, đà gửi
cho Hội ®ång chÊp chÝnh mét bøc th cã néi dung tr¸i hẳn với
điều mà người ta yêu cầu ở ông, mà lại không chuyển qua Bô-napác-tơ. Bô-na-pác-tơ trên đường đi Pa-ri để trao cho Hội đồng
chấp chính bản Hiệp ước Cam-pô-phô-mi-ô, đà đến thăm Béc-nađốt-tơ tại đại bản doanh của ông ta ở U-đi-nơ và đà tâng bốc Bécna-đốt-tơ, nhưng hôm sau, bằng một mệnh lệnh gửi từ Mi-la-nô,
Bô-na-pác-tơ đà tước của ông ta một nửa sư đoàn trong quân
đoàn Ranh của ông ta, còn nửa kia thì ra lệnh điều về Pháp. Sau
những cuộc khuyên giải, điều đình lâu dài về những bất đồng và
những tranh chấp mới, sau cùng người ta đà thuyết phục được
Béc-na-đốt-tơ nhận chức đại sứ ở Viên. ở đây, hành động theo chỉ
thị của Ta-lây-răng, ông giữ lập trường hòa giải, bị báo chí Pa-ri,
theo sự xúi bẩy của Bô-na-pác-tơ và phe cánh, tuyên bố là chứa
đầy xu hướng bảo hoàng, và để chứng minh cho lời buộc tội đó họ
đà tung ra ở khắp nơi tin đồn rằng Béc-na-đốt-tơ đà bỏ lá cờ ba sắc
_____________________________________________________________
1* - cuộc đảo chính
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
216
c.mác
treo ở trước cửa nhà mình và đà bỏ huy hiệu nước cộng hoà trên
mũ của những người dưới quyền ông. Bị Hội đồng chấp chính
khiển trách về việc đó, ngày 13 tháng Tư 1798, vào ngày kỷ niệm
một năm cuộc biểu tình chống Gia-cô-banh ở Viên, Béc-na-đốt-tơ
cho treo lá cờ ba sắc có dòng chữ đề: "Tự do, bình đẳng, bác ái",
sau đó khách sạn nơi ông ở bị đám đông ở Viên đập phá, cờ bị đốt,
tính mạng của ông bị đe doạ. Vì Chính phủ áo cự tuyệt yêu cầu
do ông đưa ra, nên Béc-na-đốt-tơ, cùng với các nhân viên sứ quán
của mình rời đến Ra-stát; nhưng bản thân Hội đồng chấp chính,
theo lời khuyên của Bô-na-pác-tơ là kẻ đà nhúng tay vào việc này
để gây ra vụ tai tiếng ấy, lại lấp liếm vụ này và để mặc cho vị đại
diện của mình mà không có sự hậu thuẫn cho ông.
Việc Béc-na-đốt-tơ có quan hệ họ hàng với gia đình Bô-napác-tơ, do ông kết hôn vào tháng Tám 1798 với tiểu thư Đê-di-rơ
Cla-ri, con gái của một nhà buôn ở Mác-xây và là em gái của vợ
Giô-dép Bô-na-pác-tơ, xem ra chỉ làm tăng thêm sự thù ghét của
ông đối với Bô-na-pác-tơ. Năm 1799 giữ chức tư lệnh đội quân
trinh sát ở Thượng Ranh, ông tỏ ra không có năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao phó và như vậy là chứng minh ngay từ trước,
sự đúng đắn của ý kiến của Na-pô-lê-ông nói về ông trên đảo
Xanh-Ê-len rằng ông thích hợp với vai trò kẻ phục tùng, hơn là
giữ vai trò tổng tư lệnh. Đứng đầu bộ chiến tranh sau emeute1*
trong Hội đồng chấp chính ngày 30 tháng Chăn nuôi171, ông biểu
hiện tài năng qua các kế hoạch tác chiến của mình ít hơn là bằng
những âm mưu với phái Gia-cô-banh, để dựa vào thế lực mới được
phục hồi của phái này mà ông mưu toan tập họp cho mình những
kẻ ủng hộ ông trong quân đội. Vậy là, sáng sớm ngày 13 tháng
Chín 1799 ông ®äc thÊy trong tê "Moniteur" tin tøc vÒ sù tõ chức
của mình, nhưng ông không nghi ngờ rằng ông đà đệ đơn từ chức.
Các thành viên của Hội đồng chấp chính là Xi-ây-ét và Rô-gie
_____________________________________________________________
1* - cuộc xung đột, cuộc nổi loạn, cuộc đảo chính
béc-na-đốt-tơ
217
Đuy-cô có quan hệ gắn bó với Bô-na-pác-tơ, đà chơi cái trò đó với
ông.
Với tư cách tư lệnh Tập đoàn quân phương Tây, Béc-na-đốt-tơ
đà trấn áp những chiếc nôi cuối cùng của cuộc bạo động Van-đây.
Sau khi đế chế được thiết lập, đế chế trao cho ông danh hiệu
nguyên soái, ông được trao quyền chỉ huy quân đoàn Han-nô-vơ.
Trong chức vụ này, cũng như trong chức vụ tư lệnh quân đoàn
Bắc Đức, ông cố gắng tạo lập cho mình, trong con mắt nhân dân
miền Bắc, cái tiếng tăm là một con người độc lập, ôn hoà, nắm
được nghệ thuật quản lý. Chỉ huy một quân đoàn đóng ở Han-nôvơ - quân đoàn số 1 của đại quân - ông tham gia cuộc chiến tranh
chống áo và Nga trong chiến dịch năm 1805, ông được Na-pô-lêông cử đến I-glau theo dõi sự di chuyển của đại công tước Phécđi-năng ở Bô-hêm; sau đó được gọi về Bruyn, trong trận Ô-xtéclít quân đoàn của ông được bố trí ở trung tâm giữa Xun-tơ và
Lan-nơ và đà góp phần đánh bại ý đồ của cánh phải của liên quân
âm mưu đánh bọc sườn quân đội Pháp. Ngày 5 tháng Sáu 1806,
ông được phong tước hiệu công tước Pông-tê-cô-rvô. Trong cuộc
chiến tranh năm 1806-1807 chống Phổ, ông chỉ huy corps
d'armée1* số 1. Ông được lệnh của Na-pô-lê-ông tiến từ Na-umbuốc đến Đoóc-nơ-buốc-gơ, trong khi đó Đa-vu cũng đóng ở gần
Na-um-buốc, thì phải tiến về A-pông-đa; trong mệnh lệnh mà
Đa-vu nhận được có nói thêm rằng nếu Béc-na-đốt-tơ đà hội quân
với ông thì họ có thể cùng tiến về A-pông-đa. Trinh sát được
hướng đi của quân Phổ và tin chắc rằng trên đường đi Đoóc-nơbuốc-gơ sẽ không thể xẩy ra cuộc chạm trán nào với địch, Đa-vu
đề nghị với Béc-na-đốt-tơ cùng tiến về A-pông-đa, thậm chí tỏ ý
sẵn sàng phục tùng sự chỉ huy của Béc-na-đốt-tơ. Nhưng Béc-nađốt-tơ khăng khăng giải thích mệnh lệnh của Na-pô-lê-ông theo
_____________________________________________________________
1* - quân đoàn
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
218
c.mác
nguyên văn, cứ tiến về hướng Đoóc-nơ-buốc-gơ, suốt ngày không
gặp địch, trong khi đó một mình Đa-vu phải chịu đòn chủ yếu của
địch trong trận Au-éc-stết172 mà do vắng Béc-na-đốt-tơ đà không
kết thúc bằng thắng lợi có tính chất quyết định. May nhờ có sự
xung đột giữa hai đám tàn quân đến từ Au-éc-stết và từ I-ê-na,
cũng như nhờ mưu kế chiến lược của Na-pô-lê-ông, mới ngăn
ngừa được hậu quả do sai lầm nghiêm trọng của Béc-na-đốt-tơ.
Na-pô-lê-ông đà ký lệnh đưa Béc-na-đốt-tơ ra toà án quân sự,
nhưng sau khi suy nghĩ lại đà bỏ lệnh này. Sau trận I-ê-na ngày
17 tháng Mười Béc-na-đốt-tơ cùng với Xun-tơ và Muy-ra đà đánh
tan quân Phổ ở Ha-lơ, truy kích tướng Phổ là Bluy-khơ đến tận
Luy-bếch và góp phần vào sự đầu hàng của Bluy-khơ ở Ra-tê-cau
ngày 7 tháng Mười một 1806. Ông cũng đánh bại quân Nga ngày
25 tháng Giêng 1807 ở đồng bằng Mô-run-ghen, gần Thoóc-nơ.
Sau Hoà ước Tin-dít, theo những điều khoản của hiệp ước liên
minh ký kết giữa Na-pô-lê-ông và Đan Mạch, quân Pháp phải
đóng giữ các đảo của Đan Mạch để từ đó tác chiến chống Thuỵ
Điển173. Do đó, ngày 23 tháng Ba 1808, vào đúng ngày mà Nga
xâm nhập Phần Lan, Béc-na-đốt-tơ được lệnh tiến vào Dê-lan để
cùng với quân Đan Mạch xâm nhập Thuỵ Điển, lật đổ quốc
vương1* và phân chia nước này cho Đan Mạch và Nga - một sứ
mạng lạ lùng giành cho con người mà trong một tương lai không xa
sẽ được ấn định trị vì Xtốc-khôn. Ông chỉ huy 32 000 quân người
Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha vượt Ben-tơ và đến được Dê-lan;
nhưng 10 000 quân người Tây Ban Nha, do tướng Đơ la Rô-ma-na
chỉ huy, được sự giúp đỡ của hạm đội Anh, đà rời bỏ đạo quân của
Béc-na-đốt-tơ. Trong thời gian ở Dê-lan, Béc-na-đốt-tơ chẳng làm
gì cả và chẳng đạt được gì cả. Được gọi về Đức để tham gia cuộc
_____________________________________________________________
1* Gu-xtáp IV A-đôn-phơ
béc-na-đốt-tơ
219
chiến tranh mới giữa Pháp và áo, ông nhận quyền chỉ huy quân
đoàn 9 chủ yếu gồm người Dắc-den.
Trận Va-gram ngày 5 và 6 tháng Bảy 1809 đà đem lại lý do
mới cho sự bất hoà giữa ông với Na-pô-lê-ông. Ngày đầu trận
đánh, Ơ-gien Bô-hác-ne rút khỏi hẻm núi ở liền kề Va-gram và
thọc vào trung tâm đội dự bị địch, nhưng không được sự chi viện
cần thiết của Béc-na-đốt-tơ là người đà đưa quân của mình tham
gia chiến đấu quá muộn và quá uể oải. Bị công kích từ chính diện
và bên sườn Ơ-gien bị đẩy lui một cách mÃnh liệt đến tận chỗ
quân cận vệ của Na-pô-lê-ông; như vậy là đợt công kích đầu tiên
của quân Pháp bị đánh tan do sự chậm chạp của Béc-na-đốt-tơ
lúc bấy giờ chiếm lĩnh làng át-léc-cla ở trung tâm khu vực bố trí
của quân đội Pháp, hơi nhích về phía trước tuyến chính diện quân
Pháp. Hôm sau, vào 6 giờ sáng, khi quân áo tiến lên để tấn công
bằng lực lượng tập trung thì Béc-na-đốt-tơ đà triển khai quân
của mình ở phía trước át-léc-cla, không cố thủ làng này, giữ nó ở
phía chính diện của mình. Cảm thấy sự tiếp cận của quân áo quá
nguy hiểm đối với trận địa mình đà lựa chọn, Béc-na-đốt-tơ rút
về ngọn đồi phía sau át-léc-cla chưa bị chiếm lĩnh, nên lập tức bị
quân áo của Ben-gác-đơ chiếm lấy. Do đó, trung tâm của quân
Pháp ở vào tình huống nguy hiểm và viên tư lệnh cánh quân này
là Mê-xê-na cử một sư đoàn ra phía trước để chiếm lại át-léc-cla,
nhưng sư đoàn này lại bị lính phóng lựu của Đ'At-xprê từ đó đánh
bật ra. Đúng vào lúc đó, Na-pô-lê-ông đích thân tới, ông nắm
quyền tổng chỉ huy, đặt ra kế hoạch mới cho trận đánh và làm tê
liệt sự cơ động của quân áo. Như vậy là, giống như ở Au-éc-stết,
Béc-na-đốt-tơ lại làm cho thắng lợi của trận đánh bị đe doạ. Về
phần mình, ông tỏ ý không hài lòng về chỗ Na-pô-lê-ông vi phạm
mọi quy tắc quân sự, đà ra lệnh cho tướng Đuy-pa, mà sư đoàn
Pháp của ông này thuộc biên chế quân đoàn Béc-na-đốt-tơ, tác
chiến mà không đếm xỉa đến mệnh lệnh của ông. Sau khi Na-pôlê-ông biết rằng lệnh của Béc-na-đốt-tơ ban ra cho quân lính Dắc-
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
220
c.mác
den của mình với nội dung bất đồng với thông báo của hoàng đế,
thì đơn xin từ chức của Béc-na-đốt-tơ đà được chấp nhận.
Chẳng bao lâu sau khi Béc-na-đốt-tơ trở về Pa-ri, nơi đây ông
tiến hành hoạt động âm mưu với Phu-sê, cuộc viễn chinh Vankhe-ren (ngày 30 tháng Bảy 1809) đà buộc nội các Pháp - trong
khi hoàng đế vắng mặt - trao cho Béc-na-đốt-tơ phòng thủ Ăngve174. Những sai lầm nghiêm trọng của người Anh làm cho mọi
hoạt động của ông đều trở nên thừa; nhưng lợi dụng cơ hội ấy, ông
gửi lời kêu gọi đến quân lính của mình, xen vào chân ý của bản
thân ông là lên án Na-pô-lê-ông đà không quan tâm thi hành
những biện pháp cần thiết để phòng thủ bờ biển Bỉ. Ông bị cất
chức chỉ huy; khi về Pa-ri ông được lệnh rời thủ đô và về lÃnh địa
công tước của mình ở Pôn-tê-cô-rvô, ông cự tuyệt phục tùng lệnh
ấy và bị gọi sang Viên. Sau mấy cuộc nói chuyện kịch liệt và gay
gắt với Na-pô-lê-ông ở Suên-brun175, ông nhận chức tổng thống
khu vực La MÃ - một sự lưu đầy lịch sự.
Một thời gian dài sau khi ông chết, hoàn cảnh đưa đến việc
bầu ông làm thái tử Thuỵ Điển vẫn chưa hoàn toàn được làm
sáng tỏ. Sau khi nhận Các-lơ Au-gu-xtơ, công tước Au-gu-xtenboóc, làm con nuôi và thừa nhận công tước này làm người kế thừa
ngôi vua Thuỵ Điển, Sác-lơ XIII đà cử bá tước Vre-đơ sang Pa-ri
để cầu hôn công chúa Sác-lốt-ta, con gái Luy-xiêng Bô-na-pác-tơ
cho công tước đó. Ngày 18 tháng Năm 1810, tiếp theo cái chết đột
ngột của công tước Au-gu-xten-boóc, Nga đòi kỳ được Sác-lơ XIII
nhận công tước Ôn-đen-buốc làm con nuôi; Na-pô-lê-ông thì ủng
hộ yêu cầu của vua Đan Mạch Phrê-đê-rích VI. Bản thân quốc
vương đà già lại đề nghị tuyên bố em của cố công tước Au-guxten-boóc làm người kế thừa ngôi vua, và cử nam tước Muyếc-nerơ đem chỉ thị cho tướng Vre-đơ đề nghị tranh thủ trước sự đồng ý
của Na-pô-lê-ông ®èi víi sù lùa chän cđa qc v¬ng. Nhng
®ång mu với La-pi, một kỹ sư quân sự trẻ của Pháp, với Xi-nhiôn, tổng lÃnh sự Thuỵ Điển và với chính bá tước Vre-đơ, Muyếchne-rơ, một thanh niên thuộc đảng rất có thế lực ở Thuỵ
béc-na-đốt-tơ
221
Điển bấy giờ chỉ trông đợi sự phục hưng của nước mình qua sự
liên minh mật thiết với Pháp đà đến Pa-ri chủ động đề nghị Bécna-đốt-tơ làm ứng cử viên kế thừa ngôi vua Thuỵ Điển, vả lại tất
cả bọn họ đều cố gắng che giấu những hành động của họ không
cho đại sứ Thuỵ Điển bên cạnh triều đình Tuy-lơ-ri là bá tước Laghê-rbi-en-cơ biết; hơn nữa, tất cả bọn họ, do một loạt cách nhìn
sai lầm được Béc-na-đốt-tơ ủng hộ một cách khéo léo, đà tin chắc
rằng Béc-na-đốt-tơ thực tế đà là người được Na-pô-lê-ông đề cử.
Do đó ngày 29 tháng Sáu, Vre-đơ và Xi-nhi-ôn, trong điện khẩn
gửi bộ trưởng bộ ngoại giao Thuỵ Điển, đà nói rằng Na-pô-lê-ông
đà rất hài lòng nếu chức vị người kế thừa ngôi vua được trao cho
người họ hàng và người giúp việc của ông. Bất chấp sự phản đối
của Sác-lơ XIII, quốc hội họp ở Ê-rép-ru ngày 21 tháng Tám 1810
đà bầu Béc-na-đốt-tơ làm thái tử Thụy Điển. Vua cũng buộc phải
nhận ông làm con nuôi, với cái tên Các-lơ I-ô-han. Rất không vui
lòng và không phấn khởi, Na-pô-lê-ông ra lệnh cho Béc-na-đốt-tơ
nhận chức vị đà được trao cho ông. Rời Pa-ri ngày 28 tháng Chín
1810, Béc-na-đốt-tơ đến Hen-xin-gboóc-gơ ngày 21 tháng Mười,
nơi đây ông từ bỏ đạo Thiên chúa, ngày 1 tháng Mười một đến
Xtốc-khôn, ngày 5 tháng Mười một dự hội nghị các đẳng cấp và
lên cầm quyền từ đó. Từ khi có Hoà ước Phri-đrích-xham176 bất
hạnh, ở Thuỵ Điển đà ngự trị tư tưởng lại muốn chiếm lấy Phần
Lan, mà theo ý kiến chung, thì không có Phần Lan "Thuỵ Điển sẽ
ngừng tồn tại", như Na-pô-lê-ông đà phát biểu trong thư gửi Alếch-xan-đrơ ngày 28 tháng Hai 1811, ít ra là với tư cách một
cường quốc độc lập với nước Nga. Thuỵ Điển chỉ hy vọng thu hồi
tỉnh ấy bằng liên minh chặt chẽ với Na-pô-lê-ông. Béc-na-đốt-tơ
có được niềm tin ấy chính là nhờ việc ông được lựa chọn. Trong
thời gian nhà vua ốm kéo dài từ ngày 17 tháng Ba 1811 đến ngày
7 tháng Giêng 1812, Các-lơ I-ô-han được cử làm nhiếp chính,
nhưng sự bổ nhiệm đó chỉ là vấn đề nghi thức, vì ông đà lÃnh đạo
mọi công việc ngay từ ngày ông đến Thuỵ Điển.
Bản thân Na-pô-lê-ông là kẻ quá ư chơi trội để có thể tha thứ
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
222
c.mác
lòng tự ái của một kẻ thuộc hạ cũ của mình, ngày 17 tháng Mười
một 1810, ông đà buộc Béc-na-đốt-tơ, - trái với những cam kết
của ông trước kia, - tham gia hệ thống lục địa và tuyên chiến với
Anh. Ông cũng tước mất của Béc-na-đốt-tơ khoản thu nhập mà
Béc-na-đốt-tơ được hưởng với tư cách công tước Pháp, không
nhận thư tín mà Béc-na-đốt-tơ trực tiếp gửi cho ông, viện cớ Bécna-đốt-tơ là "ông vua không ngang hàng với ông" và trả lại tấm
huân chương Xê-ra-phim mà Các-lơ I-ô-han tặng vị quốc vương
La MÃ mới ra đời1*. Những nhát kim đâm nhỏ nhặt ấy chỉ đem lại
cho Béc-na-đốt-tơ lý do để hành động theo những quyết định đÃ
thông qua từ lâu. Vừa đến Xtốc-khôn, ông đà công khai tiếp tướng
Nga Xúch-tê-len - kẻ bị người Thuỵ Điển thù ghét, vì ông này đÃ
mua chuộc viên tư lệnh Xvê-a-boóc-gơ và thậm chí đồng ý tiếp
nhận nhân vật này làm đại sứ bên cạnh triều đình Thuỵ Điển.
Ngày 18 tháng Chạp 1810, ông đà hội đàm với Tréc-nư-sép, trong
cuộc hội đàm này ông đà tuyên bố "nhiệt liệt mong muốn được
những ý kiến nhiệt thành của Nga hoàng" và đồng ý vĩnh viễn từ
bỏ Phần Lan với điều kiện Na Uy sẽ tách khỏi Đan Mạch và được
sáp nhập vào Thuỵ Điển. Cũng thông qua vị Tréc-nư-sép ấy ông
gửi cho vua A-lếch-xan-đrơ một bức thư với nội dung hết sức xu
nịnh. Khi ông xích gần lại nước Nga như vậy thì các viên tướng
Thuỵ Điển đà từng lật đổ Gu-xtáp IV và thúc đẩy việc lựa chọn
Béc-na-đốt-tơ ngừng ủng hộ ông. Sự chống đối của họ được sự
hưởng ứng trong quân đội và nhân dân, điều đó đà trở thành
mối nguy nghiêm trọng khi cuộc xâm nhập của một sư đoàn
Pháp vào Pô-mê-ra-ni thuộc Thuỵ Điển ngày 27 tháng Giêng
1812 - đây là biện pháp mà Na-pô-lê-ông thi hành theo đề nghị
bí mật từ Xtốc-khôn - rút cục đà cho Các-lơ I-ô-han cái cớ thuận
lợi để chính thức tuyên bố sự trung lập của Thuỵ Điển. Nhưng
_____________________________________________________________
1* - công tước Rai-stát, con trai của Na-pô-lê-ông I
béc-na-đốt-tơ
223
ông
ký
kết
bí
mật và sau lưng nghị viện với A-lếch-xan-đrơ một hiệp ước về
liên minh tấn công chống Pháp, ký ngày 27 tháng Ba 1812 ở
X.Pê-téc-bua, trong đó cũng quy định điều kiện là sáp nhập Na
Uy vào Thuỵ Điển.
Việc tuyên chiến của Na-pô-lê-ông với Nga làm cho Béc-nađốt-tơ nhất thời trở thành chúa tể vận mệnh châu Âu. Na-pô-lêông đề nghị trao cho ông Phần Lan, Mếch-clen-bua, Stết-tin và
toàn bộ giải đất giữa Stết-tin và Vôn-ga-xtơ, với điều kiện là ông
đưa 40 000 quân Thuỵ Điển tấn công nước Nga. Béc-na-đốt-tơ
vốn có thể quyết định kết cục của chiến tranh và chiếm X.Pê-técbua trước khi Na-pô-lê-ông đến Mát-xcơ-va. Ông lựa chọn việc
đóng vai Lê-pít trong tam toạ chấp chính do ông cùng với Anh và
Nga lập thành. Khuyến khích vua Thổ Nhĩ Kỳ phê chuẩn Hoà ước
Bu-ca-rét177, bằng cách đó, ông đà tạo khả năng cho đô đốc Nga
Tri-tra-gốp rút quân trên sông Đa-nuýp và tác chiến bên sườn
quân Pháp. Ông cũng là người trung gian trong việc ký kết vào
ngày 18 tháng Bảy 1812 ở Ê-rếp-ru hoà ước giữa một bên là Anh
một bên là Nga và Thuỵ Điển178. A-lếch-xan-đrơ hoảng sợ trước
những thắng lợi đầu tiên của Na-pô-lê-ông, nên đà mời Các-lơ Iô-han hội kiến, đồng thời đề nghị ông giữ chức tổng tư lệnh các
đội quân của Nga. Tỏ ra khá sáng suốt để từ chối đề nghị thứ hai,
ông nhận lời mời hội kiến. Ngày 27 tháng Tám, ông đến A-bô,
nơi đây ông gặp A-lếch-xan-đrơ ở trong tình trạng tinh thần cực
kỳ sa sút và rất muốn xin giảng hoà. Bản thân Các-lơ I-ô-han
đà đi quá xa để có thể rút lui, ông tiếp thêm can đảm cho Nga
hoàng đà dao động, chỉ cho Nga hoàng thấy rằng những thắng
lợi
bề
ngoài
của
Na-pô-lê-ông tất sẽ đưa đến sự diệt vong của y. Kết quả của
cuộc hội kiến là cái gọi là Hiệp ước A-bô179 có kèm theo điều
khoản bÝ mËt khiÕn cho ®ång minh mang tÝnh chÊt hiƯp nghị gia
đình. Trên thực tế, Các-lơ I-ô-han không được gì hết ngoài lời
hứa, trong khi đó nước Nga không mảy may mất mát gì, lại được
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
224
c.mác
bảo đảm sự liên minh với Thuỵ Điển, một điều rất quý giá vào
lúc đó. Trước đó chẳng bao lâu, dựa trên các văn kiện gốc có thể
chứng minh rằng việc trả lại Phần Lan cho Thuỵ Điển bấy giờ chỉ
tuỳ thuộc vào Béc-na-đốt-tơ; nhưng nhà thống trị người xứ Gaxcô-nhơ ấy - đà bị mê hoặc bởi những lời khẳng định xu nịnh của
A-lếch-xan-đrơ nói rằng "một khi chiếc mũ hoàng đế của nước
Pháp từ đầu Na-pô-lê-ông rơi xuống thì nó có thể được đội lên
đầu ông" - chỉ coi Thuỵ Điển đơn giản là pis aler1*.
Sau khi quân Pháp rút khỏi Mát-xcơ-va, ông chính thức cắt
đứt quan hệ ngoại giao với Pháp, và khi thông qua hiệp định ngày
3 tháng Ba 1813 Anh bảo đảm ông sẽ nhận được Na Uy180 thì ông
tham gia khối đồng minh. Được sự trợ cấp của Anh, tháng Năm
1813 ông đổ bộ Stơ-ran-dun-tơ với đạo quân Thuỵ Điển gần 25 000
người và tiến về sông En-bơ. Trong thời gian ngừng bắn ngày 4
tháng Sáu 1813181 ông đóng vai trò quan trọng trong cuộc hội kiến
ở Tra-khen-béc, ở đây A-lếch-xan-đrơ giới thiệu ông với vua
Phổ2*, và nơi đây đà thông qua kế hoạch tác chiến chung. Là tổng
tư lệnh Tập đoàn quân phương Bắc gồm các đơn vị Thuỵ Điển,
Nga, Phổ, Anh, liên minh Han-dây và Bắc Đức, ông giữ quan hệ
hoàn toàn hai mặt với quân đội Pháp thông qua một người thường
lui tới đại bản doanh của ông với danh nghĩa bạn; ông duy trì
quan hệ ấy dựa trên giả định rằng người Pháp sẽ vui lòng đánh
đổi sự thống trị của Na-pô-lê-ông lấy sự thống trị của Béc-nađốt-tơ, miễn là ông chứng minh được với họ sự khoan dung và
nhân từ. Do đó ông cản trở các viên tướng dưới quyền chuyển
sang tấn công, và khi Buy-lốp - bất chấp chỉ thị của ông - đà hai
lần chiến thắng quân Pháp ở Grô-xơ-Bê-rên và Đen-nê-vi-xơ, ông
đà cho ngừng cuộc truy kích đạo quân bại trận. Khi Bluy-khơ
_____________________________________________________________
1* - dinh cơ cho trường hợp tệ nhất
2* - Phri-đrích Vin-hem III
béc-na-đốt-tơ
225
nhằm thúc đẩy ông hành động, đà tiến về sông En-bơ và hội quân
với ông thì chỉ có sự đe doạ của đại diện toàn quyền Anh trong
quân
đội
của ông, tức ngài Sác-lơ Xtiu-át, đe doạ sẽ ngừng việc cung cấp, mới
buộc ông tiến quân. Tuy nhiên, người Thuỵ Điển xuất hiện trên
chiến trường ở Lai-pxích chỉ để có hình thức và trong suốt cuộc chiến
tranh chỉ thiệt hại trong tác chiến chưa đến 200 người. Khi quân
đồng minh tiến vào Pháp, Béc-na-đốt-tơ giữ quân đội Thuỵ Điển ở
biên giới. Sau khi Na-pô-lê-ông thoát vị, ông đích thân đến Pa-ri để
nhắc A-lếch-xan-đrơ về những lời hứa với ông ở A-bô. Ta-lây-răng
lập tức chấm dứt những hy vọng ngây thơ của ông khi tuyên bố tại
hội nghị các vị vua của các nước đồng minh rằng "không có sự lựa
chọn nào khác ngoài sự lựa chọn giữa Bô-na-pác-tơ và vương triều
Buốc-bông, tất cả những cái khác chỉ là âm mưu thôi".
Sau trận Lai-pxích, khi Các-lơ I-ô-han đứng đầu đạo quân gồm
người Thuỵ Điển, người Đức và người Nga xâm nhập vào hai công
quốc Slê-dơ-vích và Hôn-stai-nơ thì vua Đan Mạch Phrê-đê-rích
IV, đứng trước binh lực ưu thế của địch, đà buộc phải ký, ngày 14
tháng Giêng 1814, bản hoà ước Kin mà căn cứ theo đó Na Uy bị
trao cho Thuỵ Điển. Nhưng người Na Uy, không muốn họ bị đối xử
trắng trợn như vậy, đà tuyên bố Na Uy độc lập dưới sự lÃnh đạo
của Cri-xti-an - Phrê-đê-rích, thái tử thừa kế của Đan Mạch. Các
đại biểu quốc dân họp ở Ây-đơ-xvôn ngày 17 tháng Năm 1814 đÃ
thông qua bản hiến pháp dân chủ nhất châu Âu hiện đại và tới nay
vẫn còn hiệu lực. Sau khi điều lục quân và hạm đội Thuỵ Điển
chiếm cứ điểm Phrê-đê-rích-stát để khống chế lối vào Cri-xti-a-nia Các-lơ I-ô-han bước vào đàm phán với người Na Uy, đồng ý coi
Na Uy là quốc gia độc lập và thừa nhận hiến pháp Ây-đơ-xvôn;
ngày 7 tháng Mười đạt được sự đồng ý của nghị viện nói trên thì
đến ngày 10 tháng Mười một 1814 ông đi Cri-xti-a-ni-a để nhân
danh cá nhân và nhân danh nhà vua tuyên thệ trung thµnh víi
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
226
c.mác
hiến pháp.
Ngày 5 tháng Hai 1818 Sác-lơ XIII mất, Béc-na-đốt-tơ được
châu Âu thừa nhận là vua Thuỵ Điển và Na Uy với vương hiệu
Các-lơ XIV I-ô-han. Lúc đó, ông mưu toan sửa đổi hiến pháp
Na Uy, khôi phục giai cấp quý tộc đà bị phế bỏ, nắm quyền phủ
quyết tuyệt đối và quyền phế truất mọi quan chức dân sự và sĩ
quan quân đội. Mưu toan ấy gây ra những cuộc xung đột nghiêm
trọng, thậm chí dẫn tới cuộc tập kích ngày 18 tháng Năm 1828
của kỵ binh vào các cư dân Cri-xti-a-ni-a lúc đó đang kỷ niệm
một năm bản hiến pháp của mình. Cuộc bùng nổ tưởng chừng
không tránh khỏi, nhưng cuộc cách mạng Pháp năm 1830 đà buộc
nhà vua thi hành những biện pháp hoà giải. Nước Na Uy, mà ông
ta không tiếc một sự hy sinh nào để giành lấy, trong suốt thời kỳ
thống trị của ông vẫn là nguồn gốc thường xuyên của mọi khó
khăn. Ngay từ những ngày đầu của cách mạng Pháp năm 1830, ở
châu Âu chỉ có một người cho rằng vua Thuỵ Điển là người thích
hợp nhất để theo đuổi ngôi vua Pháp, và người ấy là bản thân
Béc-na-đốt-tơ. Ông đà nhiều lần nhắc lại với các đại diện ngoại
giao Pháp ở Xtốc-khôn: "Làm sao mà Láp-phít-tơ lại có thể không
nghĩ đến tôi?". Bộ mặt đà thay đổi của châu Âu và trước hết là
cuộc khởi nghĩa Ba Lan đà nhất thời làm cho ông ta nẩy ra ý nghĩ
thành lập đồng minh chống Nga. Đề nghị của ông đưa ra với huân
tước Pan-mớc-xtơn theo tinh thần trên đà vấp phải sự phản đối
kiên quyết, do đó ông ta buộc phải chuộc lại cái ý nghĩ thoáng qua
ấy về tính độc lập bằng việc ký kết ngày 23 tháng Sáu 1834 với
hoàng đế Ni-cô-lai công ước về liên minh, biến ông ta thành chư
hầu của Nga. Từ đó, chính sách của ông ở Thuỵ Điển có đặc điểm
là xâm phạm quyền tự do xuất bản, truy tố các tội lèse majesté1*,
và chống lại những biện pháp tiến bộ, thậm chí chống cả những
biện pháp nhằm giải thoát công nghiệp ra khỏi những luật lệ cũ
_____________________________________________________________
1* - xúc phạm đức vua
227
béc-na-đốt-tơ
rích về phường hội và nghiệp đoàn. Lợi dụng sự kình địch
nhau giữa các tầng lớp tham gia nghị viện Thuỵ Điển, trong
một thời gian dài ông đà làm tê liệt được mọi phong trào;
nhưng các nghị quyết tự do của nghị viện năm 1844 - mà căn cứ
vào hiến pháp thì năm 1845 nghị viện phải biến những nghị
quyết ấy thành các đạo luật - đà khiến cho chính sách của ông
lâm vào nguy cơ bị phá sản hoàn toàn; nhưng ông chết đúng vào
lúc đó.
Nếu như trong thời gian trị vì của Các-lơ XIV, Thuỵ Điển đÃ
được khôi phục một phần sau những tai hoạ và thất bại kéo dài
một thế kỷ rưỡi thì đó không phải là nhờ ở Béc-na-đốt-tơ, mà
hoàn toàn chỉ nhờ nghị lực bẩm sinh của bản thân nhân dân và
ảnh hưởng của một nền hoà bình lâu dài.
Do C.Mác viết ngày 17 tháng Chín - 15
In theo bản in trong Bách
tháng Mười 1857
khoa toàn thư
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
Nguyên văn là tiếng Anh
t. III, 1858
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
228
ác-ma-đa
C.Mác và ph.ăng-ghen
ác-ma-đa182
ác-ma-đa Tây Ban Nha là lực lượng hải quân lớn mạnh do
vua Tây Ban Nha Phi-líp II cử đi năm 1588 để chinh phục nước
Anh nhằm
"phục vụ chúa trời và đưa trở về trong lòng giáo hội của chúa nhiều linh hồn
đau khổ bị áp bức bởi bọn dị giáo, kẻ thù của đạo thiên chúa thần thánh của chúng
ta, kẻ đà buộc họ phải phục tùng giáo phái của chúng và gây ra cho họ sự đau khỉ"
("Ký sù thùc vỊ cc viƠn chinh cđa T©y Ban Nha ở Anh", 1588 sau công
nguyên)183.
Bản báo cáo đầy đủ nhất về những lực lượng ấy được trình bày
trong cuốn sách xuất bản theo lệnh của Phi-líp, vào lúc hạm đội
sắp khởi hành, với nhan đề "ác-ma-đa thật may mắn được đấng
tối cao của chúng ta, vua đôn Phi-líp ra lệnh tập hợp ở cảng Lixbon năm 1588. Pê-đrô Pa-xơ Xa-la-xơ là tác giả của cuốn
sách"184. Huân tước Bớc-lây đà nhận được một bản của tác phẩm
đó, nên Chính phủ Anh đà kịp thời biết mọi chi tiết của cuộc viễn
chinh. (Bản này gồm những tư liệu cho đến tháng Ba 1588, hiện
được giữ ở Viện bảo tàng Anh). Như cuốn sách đà chỉ rõ, hạm đội
gồm có 65 thuyền buồm và tàu chiến lớn, 25 tàu vận tải, lượng
choán nước của mỗi cái là từ 300 đến 700 tấn, 19 tàu bổ trợ, lượng
choán nước từ 70 đến 100 tÊn, 13 thun chiÕn ba cét bm lo¹i
nhá, 4 thun buồm nhỏ và 4 thuyền nhỏ, cả thảy là 130 tàu với
tổng trọng tải là 75 868 tấn. Các tàu được trang bị 2 431 khẩu
pháo, trong đó có 1 497 khẩu bằng đồng oen - phần lớn là pháo
229
loại lớn nhất (48 pao), pháo nòng dài (pháo nòng dài 30 và
20 pao) v.v.; đạn dược gồm có 123 790 đạn đặc hình cầu và 5 175
tạ Anh1* thuốc súng, như vậy mỗi khẩu súng bắn được khoảng 50
phát với lượng thuốc nổ bình quân là 4ẵ pao. Toàn thể đoàn thuỷ
thủ trên các tàu gồm có 8 052 thuỷ binh; ngoài ra trên tàu còn có
19 295 binh sĩ và 180 linh mục và thày dòng. Trên tàu có lừa và
xe tải dùng để kéo pháo dà chiến sau khi lên bờ. Theo tư liệu kể
trên, toàn thể nhân viên được cung cấp lương thực cho 6 tháng.
Hạm đội có một không hai lúc bấy giờ đó phải tiến về bờ biển
Phla-măng, nơi đây một đạo quân khác có tới 30 000 bộ binh và
4 000 kỵ binh, do công tước Pác-mơ chỉ huy, được sự yểm hộ của
hạm đội này, sẽ đáp xuống những chiếc thuyền đáy bằng được sử
dụng chuyên cho mục đích đó, còn đoàn thuỷ thủ trên những
chiếc thuyền đó được bổ sung thêm các thuỷ thủ vùng biển Bantích. Sau đó tất cả những lực lượng ấy sẽ tiến sang Anh.
ở Anh, với những cố gắng tích cực, nữ hoàng Ê-li-da-bét đÃ
mở rộng hạm đội của mình lên tới gần 180 chiếc, ban đầu có 30
tàu chiến; số tàu thuyền này lớn nhỏ khác nhau, nhưng về kích
thước thì thường thua các tàu chiến Tây Ban Nha. Nhưng các tàu
Anh có trên tàu 17 500 thuỷ binh, do đó có được số đoàn thuỷ thủ
đông hơn nhiều so với hạm đội Tây Ban Nha. Lực lượng vũ trang
của Anh chia thành 2 đạo quân: một đạo gồm 18 500 người, do bá
tước Le-xtéc chỉ huy, được sử dụng để trực tiếp chống cự với địch,
đạo quân kia gồm 45 000 người được sử dụng làm đội bảo vệ riêng
của nữ hoàng. Ngoài ra, theo bản thảo có nhan đề "Tường thuật tỉ
mỉ về số lực lượng của Anh tập hợp để chiến đấu với ác-ma-đa
Tây Ban Nha" (Phần bản thảo, bản liệt kê 18, chương XXI)185 thì
người ta đang chờ đợi 2 000 bộ binh đến từ Hà Lan.
ác-ma-đa đáng lẽ phải xuất phát từ Li-xbon vào đầu tháng
Năm, nhưng do đô đốc Xan-ta Cru-xơ và phó đô đốc của ông chết,
_____________________________________________________________
1* Một tạ Anh b»ng 112 pao, hc 50,8 kg.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
230
c.mác
cuộc xuất phát phải lùi lại. Công tước Mê-đi-na Xi-đô-ni-a, một
béc-na-đốt-tơ
231
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
232
c.mác và ph.ăng-ghen
con người hoàn toàn không am hiểu về hải quân, giờ đây được cử
làm tư lệnh hạm đội; song phó đô đốc của ông, Mác-ti-ne-xơ đơ
Rê-can-đơ, là một nhà hàng hải có kinh nghiệm. Trong cuộc ra
khơi ngày 29 tháng Năm 1588 từ Li-xbon đến Cô-ru-ni-a để xếp
đạn dược, hạm đội này đà bị bÃo lớn làm cho tan tác, cho nên tuy
tất cả các tàu thuyền - trừ 4 chiếc - đều tập hợp được ở Cô-ru-nia, nhưng chúng đều bị hư hỏng nặng vì gió lớn và phải sửa chữa.
Vì có tin tức truyền đến Anh nói rằng hạm đội Tây Ban Nha đÃ
hoàn toàn không sử dụng được nữa, nên chính phủ ra lệnh cho
tàu chiến của mình cũng không nhổ neo; nhưng huân tước Hauác-đơ đô đốc, phản kháng mệnh lệnh đó, ông xuất hành đến Côru-ni-a tìm hiểu rõ tình hình thực tế và khi trở về đà tiếp tục
chuẩn bị chiến tranh. Chẳng bao lâu sau đó được tin ác-ma-đa đÃ
xuất hiện trên mặt biển, ông cho nhổ neo và bám theo nó dọc biển
La-Măng-sơ, quấy rối các tàu của Tây Ban Nha mỗi khi có cơ hội
thuận lợi. Bấy giờ người Tây Ban Nha tiến về bờ biển Phlan-đrơ,
các tàu thuyền của họ cố giữ cự ly thật gần nhau. Trong các trận
nhỏ xẩy ra lúc đó, người Anh nhờ những tàu chiến cơ động hơn,
cũng như các thuỷ thủ trên tàu đông hơn và thông thạo hàng hải
hơn, nên họ thường xuyên thắng các thuyền buồm lớn của Tây
Ban Nha không linh hoạt và thiếu thuỷ thủ, tuy chở đầy binh sĩ.
Ngoài ra, pháo binh Tây Ban Nha có những pháo thủ tồi, phần
lớn ngắm bắn quá cao. Đến gần Ca-lơ, đoàn ác-ma-đa cho thả
neo chờ hạm đội của công tước Pác-mơ xuất phát từ các cảng ở
Phla-măng; nhưng chẳng bao lâu nó được tin rằng tàu của hạm
đội Pác-mơ không thích hợp với chiến đấu, không thể xuất kích
được, chừng nào đoàn ác-ma-đa còn chưa vượt eo biển và đuổi
được phân hạm đội Anh - Hà Lan đang phong toả. Do đó, ác-mađa lại nhổ neo, nhưng đến gần Đung-kéc thì gặp lúc trời lặng gió,
bị kẹt giữa một bên là hạm đội Anh và một bên là hạm đội Hà
Lan. Huân tước Hau-ác-đơ đà chuẩn bị thuyền phóng hoả và đêm
ngày 7 tháng Tám, khi gió lại thổi, thì thả 8 thuyền phóng hoả
vào
ác-ma-đa
233
tàu thuyền địch. Các thuyền phóng hoả đà gây ra sự kinh
hoàng trong hạm đội Tây Ban Nha. Một số tàu chiến nhổ neo,
một số khác chặt đứt thừng và bị gió thổi dạt; toàn bộ hạm đội bị
dồn vào cảnh rối loạn, một số tàu va chạm vào nhau và bị loại
khỏi vòng chiến. Đến sáng sớm, trật tự tuyệt nhiên chưa được
khôi phục và các phân hạm đội của ác-ma-đa bị phân tán trên
một khoảng rộng. Bây giờ huân tước Hau-ác-đơ được sự tăng
viện của các tàu chiến mà đoàn thuỷ thủ trên đó là quí tộc có
tước hiệu và không có tước hiệu, cũng như được sự tăng viện của
phân hạm đội phong toả do huân tước Bai-rơn chỉ huy, với sự
giúp sức tài nghệ của ngài Phen-xít Đrây-cơ, đà bước vào trận
chiến đấu với địch vào lúc 4 giờ sáng, trận đánh, hoặc nói đúng
hơn, cuộc săn đuổi (vì người Anh chiếm ưu thế trên tất cả các địa
điểm công kích) kéo dài cho đến khi trời tối. Người Tây Ban Nha
tác chiến dũng cảm, nhưng những tàu nặng nề của họ không
thích hợp đối với sự vận động ở các eo biển hẹp và với kiểu chiến
đấu cơ động. Người Tây Ban Nha đà hoàn toàn thất bại và bị
thiệt hại nặng nề.
Như vậy là không thể hội quân với đoàn tàu vận tải của công
tước Pác-mơ, còn việc đổ bộ lên bờ biển Anh bằng lực lượng của
riêng một mình ác-ma-đa thì không thể bàn tới được. Tình hình
lúc đó là: phần lớn dự trữ lương thực trên tàu đà cạn và do đường
đi đến Phlan-đrơ thuộc Tây Ban Nha giờ đây đà bị cắt đứt, nên
không còn cách nào khác hơn là trở về Tây Ban Nha để bổ sung số
vật tư mới. (Xem "Thông báo xác thực từ Ai-rơ-len về thiệt hại và
thảm hoạ mà hạm đội Tây Ban Nha gánh chịu trên bờ biển Ai-rơlen". Luân Đôn, 1588. Lời khai của Ê-ma-nu-en Phrê-mô-xa phục
vụ trên tàu "Xan Hoan" cã søc cho¸n níc 1 100 tÊn, kú hạm của
đô đốc Rê-can-đơ186). Vì đường qua La-Măng-sơ cũng bị hạm đội
Anh phong toả, nên chỉ còn một con đường về nhà là vòng qua
Xcốt-len. Hạm đội của huân tước Xây-mua được phái đi truy
kích, chỉ quấy rối được ác-ma-đa chút ít, vì hạm đội này thiếu
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
234
c.mác
đạn dược và không dám tấn công. Sau khi người Tây Ban
béc-na-đốt-tơ
235
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
236
237
c.mác và ph.ăng-ghen
Nha đà đi vòng quần đảo óoc-nhây thì nổi lên một cơn bÃo lớn
làm cho toàn bộ hạm đội tan tác. Một số tàu bị bÃo thổi bạt trở lại
cho đến tận bờ biển Na Uy, nơi đây chúng va phải đá ngầm; một
số khác bị đắm ở biển Bắc hoặc bị vỡ tan vì đá ngầm ở bờ biển
Xcốt-len và ở quần đảo Hê-bơ-rít. Chẳng bao lâu sau, một cơn bÃo
mới lại ập vào người Tây Ban Nha ở bờ biển Tây Ai-rơ-len, nơi
đây trên 30 chiếc tàu bị đắm. Số thuỷ thủ còn bơi được vào bờ thì
phần lớn đà bị giết chết; khoảng 200 người bị xử tử theo lệnh của
toàn quyền Ai-rơ-len1*. Toàn bộ hạm đội còn lại không quá 60 tàu
thuyền ở trong tình trạng thảm hại nhất, trên tàu là những con
người kiệt sức vì đói, đoàn tàu này đà đến được Xan-tan-đe-rơ
vào khoảng giữa tháng Chín, bấy giờ Tây Ban Nha mới bỏ hẳn kế
hoạch xâm nhập nước Anh.
Do
C.Mác
và
Ph.Ăng-ghen viết
vào
In theo bản in trong Bách
khoảng từ cuối tháng Bảy đến ngày 23
khoa toàn thư
tháng Mười 1857
Nguyên văn là tiếng Anh
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
t. II, 1858
_____________________________________________________________
1* -Phi-txơ-uy-li-am
C.mác và ph.ăng-ghen
a-i-a-cu-sô187
A-i-a-cu-sô là một tỉnh của nước Cộng hoà Pê-ru; dân số 131 921
người. ở gần thành phố chính của nó - cũng có tên gọi là A-i-a-cu-sô đà diễn ra trận đánh đà hoàn toàn bảo đảm nền độc lập của vùng
Nam Mỹ thuộc Tây Ban Nha. Sau trận Khu-nin (ngày 6 tháng
Tám 1824)188 phó vương Tây Ban Nha, tướng La Xéc-na, định
dùng nhiều cuộc cơ động để cắt tuyến giao thông của quân đội
khởi nghĩa do tướng Xu-crơ chỉ huy. Không đạt được mục đích đó,
viên phó vương rút cục đà nhử kẻ địch của mình vào đồng bằng
A-i-a-cu-sô, nơi đây người Tây Ban Nha chiếm lĩnh trận địa
phòng ngự trên mét cao ®iĨm. Binh lùc cđa hä gåm 13 tiĨu đoàn
bộ binh với pháo binh và kỵ binh, cả thảy có 9 310 người, ngày 8
tháng Chạp 1824 các đội tiền vệ của hai quân đội đà bước vào
chiến đấu và ngày hôm sau Xu-crơ mở cuộc tấn công với 5 780
người. Sư đoàn Cô-lôm-bi-a số 2, do tướng Coóc-đô-va chỉ huy,
đánh vào sườn trái của quân đội Tây Ban Nha và lập tức làm
cho nó rối loạn. Sư đoàn Pê-ru ở sườn trái, do tướng La Ma-rơ
chỉ huy, đà vấp phải sự chống cự ngoan cường hơn và không thể
tiến lên được cho đến khi đội dự bị, do tướng La-ra chỉ huy, tới
nơi. Sau đó khi quân địch rút lui trên toàn tuyến, kỵ binh được
tung ra truy kích, nó đánh tan tác kỵ binh Tây Ban Nha và hoàn
thành việc đánh tan bộ binh. Quân Tây Ban Nha tử trận 6 viên
tướng; họ bị thiệt hại 2 600 gồm thương vong và bị bắt; trong số
này có viên phó vương. Thiệt hại của người Nam Mỹ là: 1 viªn
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
238
c.mác và ph.ăng-ghen
tướng và 308 sĩ quan và binh sĩ bị chết, bị thương 520 người trong
đó có 6 viên tướng. Hôm sau tướng Can-tê-rắc, bây giờ nắm quyền
chỉ huy quân đội Tây Ban Nha, đà ký bản đầu hàng mà các điều
kiện của nó quy định không những ông ta và toàn bộ số binh lính
của ông ta trở thành tù binh, mà toàn bộ số binh lính Tây Ban Nha
ở Pê-ru và tất cả các đồn bốt, pháo binh, kho tàng, cũng như toàn
bộ đất đai Pê-ru còn nằm trong tay người Tây Ban Nha (Cu-xcô, Arê-ki-pa, Pu-nô, Kin-ca v.v.) đều phải giao cho quân khởi nghĩa.
Như vậy số lượng quân lính được bàn giao làm tù binh cả thảy lên
tới gần 12 000 người. Như thế là sự thống trị của Tây Ban Nha đÃ
chấm dứt hoàn toàn và ngày 25 tháng Tám 1825, đại hội ở Su-kixa-ca đà tuyên bố nền độc lập của nước Cộng hoà Bô-li-vi-a.
ở Tây Ban Nha, Ê-xpác-te-rô và phe cánh quân sự của ông ta
được gán cho biệt hiệu "phái A-i-a-cu-sô". Một bộ phận các gian
thần quân sự tập hợp xung quanh ông ta đà cùng ông ta tham gia
cuộc chiến tranh chống lại những người khởi nghĩa ở Nam Mỹ,
trong cuộc chiến tranh này sự liên hiệp của họ không chỉ dựa trên
tình anh em chiến đấu, mà còn dựa trªn khuynh híng phiªu lu
chung cđa hä; trong cc chiÕn tranh này họ đà cam kết với nhau
là ủng hộ nhau trong hoạt động chính trị khi trở về Tây Ban Nha.
Sự cam kết đó họ đà tận tâm hoàn thành đem lại không ít lợi lộc
cho nhau. Biệt hiệu "phái A-i-a-cu-sô" được gán cho họ là muốn
ám chỉ rằng Ê-xpác-te-rô và phe ủng hộ ông ta về thực chất đÃ
góp phần vào kết cục bất lợi của trận đánh. Nhưng ý kiến đó
không đúng, tuy nó được truyền bá rất mạnh đến mức ngay hiện
nay ở Tây Ban Nha nhìn chung người ta vẫn tin vào nó. Ê-xpácte-rô không những không có mặt trên chiến trường A-i-a-cu-sô,
thậm chí không ở châu Mỹ khi xẩy ra trận đánh, vì vào lúc đó ông
ta còn chưa kết thúc chuyến đi Tây Ban Nha, nơi mà phó vương
La Xéc-na cử đến để đem báo cáo khẩn cho Phéc-đi-năng VII.
Ngày 5 tháng Sáu 1824, ông xuống chiếc thuyền buồm hai cột
buồm
"Ti-brơ" của Anh ở Kin-ca, và đến Ca-đi-xơ vào ngày 28 tháng
239
a-I-a-cu-sô
Chín, đến Ma-đrít vào ngày 12 tháng Mười, và lại đáp thuyền từ
Boóc-đô để trở về châu Mỹ vào đúng ngày 9 tháng Chạp 1824 khi
xẩy ra trận A-i-a-cu-sô. (xem: Đông Hô-xê Xê-gun-đô, Phlô-rêxơ. "Ê-xpác-te-rô", Ma-đrít, 1844, gồm 4 tập; và Prin-xíp-pơ "Êxpác-te-rô", Ma-đrít, 1848189).
Do C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết vào
In theo bản in trong Bách
khoảng thời gian từ 21 tháng Chín đến 23
khoa toàn thư
tháng Mười 1857
Nguyên văn là tiếng Anh
ĐÃ in trong "New American Cyclopaedia",
In bằng tiếng Nga lần đầu
t. II, 1858
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
450
bluy-khơ
c.mác và ph.ăng-ghen
bluy-khơ190
Bluy-khơ, Ghép-hác Lê-bê-rếch phôn, công tước Van-stát, là
nguyên soái Phổ; sinh ngày 16 tháng Chạp 1742 tại Rô-xtốc thuộc
Mếch-clen-bua - Sve-rin, mất ở Cri-blô-vi-xơ thuộc Xi-lê-di ngày
12 tháng Chín 1819. Năm 1754 khi còn nhỏ, ông bị đưa sang đảo
Ri-u-ghen và ở đây ông đà bí mật tham gia trung đoàn phiêu kỵ
Thuỵ Điển, làm hạ sỹ quan, chiến đấu chống lại vua Phổ Phriđrích II. Trong chiến dịch 1758, Bluy-khơ bị bắt làm tù binh; sau
khi ông bị cầm tù cả một năm trời và bị thải hồi ra khỏi quân đội
Thuỵ Điển, người ta đà thuyết phục ông tham gia quân đội Phổ.
Ngày 3 tháng Ba 1771, ông được bổ làm đại uý kỵ binh. Năm
1778 khi đại uý Phôn Ê-ghéc-xphen-đơ, con trai ngoài giá thú của
bá tước Phôn Svét-tơ, được đề bạt thiếu tá, chức vụ còn bị khuyết,
chứ không phải ông được đề bạt cấp ấy, thì Bluy-khơ viết thư cho
Phri-đrích II:
"Tâu bệ hạ, Ê-ghéc-xphen-đơ, một người không có công lao nào ngoài việc ông
ta là con trai của bá tước Phôn Svét-tơ, được ưa chuộng hơn tôi. Tâu bệ hạ, thần
yêu cầu cho được từ chức".
Để trả lời thư đó, Phri-đrích II hạ lệnh tống giam ông, nhưng
khi ông - bất chấp bị tù khá lâu - vẫn cự tuyệt không chịu rút lại
bức thư của mình, nhà vua đồng ý thoả mÃn yêu cầu của ông
bằng lời phê chuẩn với nội dung như sau: "Đại uý Phôn Bluy-khơ
có thể xéo đi". Bấy giờ ông bỏ đến xứ Xi-lê-di thuộc Ba Lan,
451
chẳng bao lâu sau đà lấy vợ, làm nghề nông, có được một trang
trại nhỏ ở Pô-mê-ra-ni và sau khi Phri-đrích II qua đời ông lại
tham gia trung đoàn trước đây của mình với quân hàm thiếu tá,
nhưng với một điều kiện nhất định là: năm bổ nhiệm ông phải ghi
là năm 1779. Mấy tháng sau vợ ông mất. Bluy-khơ đà tham gia
cuộc xâm nhập không đổ máu vào Hà Lan191 và ngày 3 tháng Sáu
1788 ông được thăng trung tá. Ngày 20 tháng Tám 1790, ông được
thăng đại tá và chỉ huy tiểu đoàn số 1 của trung đoàn phiêu kỵ
mà ông tham gia ngay từ năm 1760.
Năm 1794, Bluy-khơ tỏ ra xuất sắc trên cương vị chỉ huy kỵ
binh nhẹ trong thời gian tác chiến ở Pphan-xơ chống lại nước
Cộng hoà Pháp. Ngày 28 tháng Năm 1794, sau trận thắng ở Kiếcvây-lơ, ông được phong thiếu tướng, còn hoạt động chiến đấu ở
Lúc-xăm-buốc, Cai-déc-xlau-téc-nơ, Moóc-shai-mơ Vây-đenthan Ê-đơ-xhai-mơ, Ê-đen-cô-ben đà bảo đảm cho ông sự vinh
quang ngày một tăng. Không ngừng quấy rối quân Pháp bằng
những coups de main1*, dũng mÃnh và những cuộc tập kích thành
công, ông không bao giờ quên báo cáo về tổng hành dinh những
tin tình báo chính xác nhất về sự di chuyển của địch. Nhật ký của
ông viết vào thời gian chiến cục ấy và do sỹ quan tuỳ tùng của
ông, bá tước Gôn-xơ, công bố năm 1796, tuy có những khuyết
điểm về mặt tu từ, vẫn được xem là một tác phẩm cổ điển về các
vấn đề hoạt động của đội tiền vệ 192. Sau khi ký Hoà ước Ba-lơ193,
ông kết hôn lần thứ hai. Sau khi lên ngôi, Phri-đrích Vin-hem III
đà thăng ông lên cấp trung tướng và ở cấp này Bluy-khơ đà chiếm
đóng éc-phuốc, Muyn-hau-den và Muyn-xtơ và cai trị những
vùng đó với tư cách thống đốc. Năm 1805 ông được trao chức quân
đoàn trưởng một quân đoàn không đông quân, tập trung ở Bairoi-tơ để giám sát những hậu quả của trận Ô-xtéc-lít trực tiếp
_____________________________________________________________
1* - những cuộc tấn công kiên quyÕt.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
242
liên
c.mác
béc-na-đốt-tơ
quan
243