Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hoãn chấp hành hình phạt tù theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.49 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG

HỖN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỖN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Hoàng Thị Tuệ Phƣơng
Học viên: Nguyễn Thị Mỹ Trang
Lớp: Cao học Luật Bình Thuận – Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản
thân tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Hoàng Thị Tuệ Phương.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Mỹ Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ TRONG “TRƢỜNG
HỢP BỊ BỆNH NẶNG” ....................................................................................... 6
1.1. Quy định pháp luật hình sự hiện hành .................................................... 6
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật ................................................................... 10
1.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật .......... 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 21
CHƢƠNG 2. HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ TRONG TRƢỜNG
HỢP “PHỤ NỮ CĨ THAI HOẶC ĐANG NUÔI CON DƢỚI 36 THÁNG
TUỔI” .................................................................................................................. 22
2.1. Quy định pháp luật hình sự hiện hành .................................................. 22
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật ................................................................... 26
2.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật .......... 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 34
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

: Bộ luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

TAND

: Tịa án nhân dân

THAHS

: Thi hành án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hỗn chấp hành hình phạt tù là chế định quan trọng của Luật Hình sự Việt
Nam. Chế định hỗn chấp hành hình phạt tù thể hiện chính sách hình sự của
Đảng và nhà nước ta vừa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo trong việc áp dụng
pháp luật hình sự vào thực tiễn, mong muốn bảo vệ quyền con người một cách
tối đa, toàn diện nhất đối với người bị kết án cũng như đối với gia đình, người
thân của họ khi họ có các điều kiện về nhân thân cần phải được chuyển thời
điểm chấp hành hình phạt tù sang một thời điểm muộn hơn. Tuy nhiên, thực tiễn
áp dụng các quy định về hỗn chấp hành hình phạt tù của các cơ quan tiến hành
tố tụng đã gặp phải một số vướng mắc, hạn chế nhất định như: Áp dụng pháp
luật không đồng bộ, thống nhất giữa các địa phương khác nhau; áp dụng không
đúng các quy định của chế định này, vi phạm về nội dung, điều kiện, phạm vi áp
dụng dẫn đến giảm hiệu quả trong công tác thi hành án hình sự; một số người bị
kết án lợi dụng quy định để được hỗn chấp hành hình phạt tù nhiều lần... Một
trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên là do quy định pháp luật
hiện hành về hỗn chấp hành hình phạt tù vẫn cịn tồn tại một số bất cập. Bên
cạnh đó, nhiều vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật cần phải được làm sáng
tỏ để có quan điểm thống nhất, đầy đủ như: căn cứ áp dụng chế định hoãn chấp
hành hình phạt tù; tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng chế định hỗn chấp hành
hình phạt tù... Tuy nhiên, nội dung hỗn chấp hành hình phạt tù vẫn chưa được
quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và tồn diện.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu hạn chế trong quy định pháp luật về hỗn
chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm đưa ra các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này là
nhu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“Hoãn chấp hành hình phạt tù theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ luật học theo định hướng ứng dụng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Là chế định thể hiện chính sách nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, chế
định hỗn thời hạn chấp hành hình phạt tù có quan hệ chặt chẽ mật thiết với chế



2

định chấp hành hình phạt tù và một số chế định khác của luật tố tụng hình sự và
luật thi hành án hình sự. Vì vậy, chế định này ở các mức độ khác nhau đã được
một số nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu với một số cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Hà

Thanh Loan (2014), “Hỗn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ

chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật đại
học quốc gia Hà Nội. Trong cơng trình này, tác giả đã nghiên cứu một số vấn
đề như sau:
+ Tác giả đã phân tích khái niệm, các đặc điểm cơ bản của chế định hỗn
chấp hành hình phạt tù, mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức thi hành hỗn
chấp hành hình phạt tù với các cơ quan khác trong tố tụng hình sự. Tiếp đến, tác
giả phân tích nội dung điều kiện, trình tự thủ tục hỗn chấp hành hình phạt tù,
làm sáng tỏ bản chất pháp lý và nội dung cơ bản của chế định hoãn chấp hành
hình phạt tù;
+ Trên cơ sở số liệu của địa bàn tỉnh Phú Thọ, tác giả đánh giá thực trạng
áp dụng biện pháp hỗn chấp hành hình phạt tù tại địa phương, nêu ra những hạn
chế còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó nghiên cứu, đánh giá
việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong chế định này. Đồng thời, tác giả phân
tích những bất cập trong quy định pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục,
điều kiện về cơ quan, tổ chức tiến hành thi hành hoãn chấp hành hình phạt tù
nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù.

- Lê

Cảm (2005), Chương thứ tám – “Các biện pháp tha miễn trong luật

hình sự”, Sách chuyên khảo sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (phần chung)”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tại
Chương này, tác giả đã phân tích các vấn đề lý luận về các biện pháp miễn giảm
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999,
trong đó có biện pháp hỗn chấp hành hình phạt tù. Cụ thể, tác giả đã đưa ra khái
niệm, đặc điểm và điều kiện áp dụng biện pháp hoãn chấp hành tù theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam trong BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999.


3
- Vũ Trọng Hách (2006), “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực

thi hành án hình sự ở Việt Nam”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Trong cơng trình này,
tác giả đã phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong
lĩnh vực thi hành án hình sự, trong đó có phân tích nội dung liên quan đến việc
thi hành quyết định hỗn chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở phân tích những
bất cập phát sinh từ thực tiễn thi hành án hình sự, tác giả tập trung phân tích
nguyên nhân xuất phát từ yếu kém trong hoạt động quản lý nhà nước, từ đó tác
giả đã đưa ra các kiến nghị hồn thiện cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thi hành án hình sự, trong đó có hoạt động quản lý cơng tác hỗn chấp hành
hình phạt tù.
- Trịnh Tiến Việt (2013), “Tội phạm và trách nhiệm hình sự”, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả đã phân tích các vấn đề lý luận
về chế định tội phạm và việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, trong đó có phân tích về việc áp dụng chế định hỗn chấp hành hình phạt tù

khi đáp ứng điều kiện luật định.
Ngồi ra, cịn một số bài đăng của các tác giả khác trên các tạp, báo
chuyên ngành như: GS.TSKH Lê Cảm, "Khái niệm, các đặc điểm, phân loại và
bản chất pháp lý của các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam", tạp
chí Khoa học pháp lý, số 3/2001; Đỗ Văn Chỉnh và Phạm Thị Thanh Mai
(2011), "Việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người được
hỗn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù theo Luật thi hành án hình sự", Tịa
án nhân dân, (7)...
Những cơng trình nghiên cứu của các tác giả về hoãn chấp hành hình
phạt tù đã giải quyết được một phần nội dung tương ứng hoặc xem xét chế định
này như khối kiến thức cơ bản của một chương, mục trong các nội dung lớn
khác; tuy nhiên không nghiên cứu trên cơ sở đánh giá vướng mắc, bất cập từ
thực tiễn áp dụng. Như đã phân tích ở trên, thực tiễn áp dụng quy định pháp
luật hình sự về hỗn chấp hành hình phạt tù vẫn còn một số vướng mắc, hạn
chế nhất định như những vi phạm về nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng
trong thực tiễn dẫn đến giảm hiệu quả trong cơng tác thi hành án hình sự; một
số người bị kết án lợi dụng quy định để được hỗn chấp hành hình phạt tù
nhiều lần... Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Hỗn chấp hành hình phạt tù theo


4

luật hình sự Việt Nam” nhằm để khắc phục các hạn chế phát sinh từ thực tiễn
áp dụng pháp luật và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định
này là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng
pháp luật hình sự hiện nay.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu quy định của
pháp luật và nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình
phạt tù, tác giả đánh giá thực trạng cũng như những vướng mắc, bất cập của

pháp luật hiện hành gồm: Căn cứ xác định tình trạng “bệnh nặng” đối với người
được hỗn chấp hành hình phạt tù chưa rõ ràng; việc đánh giá “sức khỏe được
hồi phục” và cơ quan nào có trách nhiệm kết luận đánh giá cũng chưa được quy
định cụ thể; người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng
tuổi lợi dụng chính sách hỗn chấp hành hình phạt tù để liên tục trốn tránh việc
chấp hành hình phạt tù dù họ phạm tội mới trong thời gian được tạm hỗn. Từ
đó, tác giả đưa ra giải pháp hồn thiện các quy định về hỗn chấp hành hình phạt
tù trong luật hình sự Việt Nam đồng thời đề xuất những giải pháp đồng bộ để
nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật và thực
tiễn áp dụng quy định pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù trong giai đoạn
từ năm 2012 đến nay trên phạm vi cả nước.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp
luật, về tội phạm, hình phạt và về phịng ngừa tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình làm luận văn, tác giả đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự, cụ thể
như sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng xuyên suốt trong
Luận văn để thực hiện tất cả các nhiệm vụ nghiên cứu.


5

+ Phương pháp nghiên cứu các vụ án điển hình để sử dụng phân tích thực
tiễn áp dụng quy định pháp luật về hỗn chấp hành hình phạt tù cũng như việc
thi hành chế định này. Đồng thời, đây là phương pháp được sử dụng để làm rõ
những vướng mắc, hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội
dung của luận văn được chia thành hai chương:
Chƣơng 1. Hỗn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp “bị bệnh nặng”
Chƣơng 2. Hỗn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp “phụ nữ có thai
hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi”


6

CHƢƠNG 1.
HỖN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
TRONG “TRƢỜNG HỢP BỊ BỆNH NẶNG”
1.1. Quy định pháp luật hình sự hiện hành
Hỗn chấp hành hình phạt tù là việc Tồ án cho phép người bị kết án phạt
tù chuyển việc thi hành án sang thời điểm muộn hơn. Hỗn chấp hành hình phạt
tù thực chất là việc cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã
hội, chưa buộc họ phải vào trại giam chấp hành hình phạt trong một thời gian
nhất định. Các điều kiện, thời hạn hỗn chấp hành hình phạt do pháp luật về hình
sự quy định. Trình tự, thủ tục thi hành biện pháp hỗn chấp hành hình phạt tù do
Pháp luật về thi hành án hình sự quy định.
Tại Điều 67 BLHS năm 2015, việc hỗn chấp hành hình phạt tù được quy
định như sau:
“1. Người bị xử phạt tù có thể được hỗn chấp hành hình phạt trong các
trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hỗn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, thì được hỗn
cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình
phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hỗn đến 01 năm, trừ trường

hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác
là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu cơng vụ, thì được
hỗn đến 01 năm.
2. Trong thời gian được hỗn chấp hành hình phạt tù, nếu người được
hỗn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tịa án buộc
người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án
mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.”
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 67 BLHS năm 2015 thì: “Người bị
xử phạt tù có thể được hỗn chấp hành hình phạt trong trường hợp bị bệnh


7

nặng”. Và họ được hỗn chấp hành hình phạt tù cho đến khi sức khỏe của họ
được hồi phục. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 67 BLHS năm 2015
thì trong thời gian được hỗn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hỗn chấp
hành hình phạt tù lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tịa án buộc người đó
phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo
quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015.
Việc áp dụng quy định này được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. Căn cứ theo quy định tại Mục 7 Nghị quyết này thì người bị bệnh nặng
được hỗn chấp hành hình tù nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây:
- Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú

cụ thể, rõ ràng;
- Sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng;
- Khơng có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn;
- Là người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành


hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính
mạng của họ; do đó, cần thiết cho họ được hỗn chấp hành hình phạt tù để họ có
điều kiện chữa bệnh; Ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng
độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV
chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu.
- Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt

tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính
mạng của họ.
Khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện này thì họ có thể được hỗn chấp
hành hình phạt tù đến khi được bình phục.
Tiểu mục 7.7 mục 7 Nghị quyết cũng hướng dẫn: “Người bị xử phạt tù bị
bệnh nặng được hỗn chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần cho đến
khi sức khỏe hồi phục”. Khi xác minh điều kiện thi hành án đối với người được
hỗn chấp hành hình phạt tù, việc hiểu "sức khỏe hồi phục" như thế nào là chưa
thống nhất. Có những trường hợp, tại thời điểm xin hỗn chấp hành hình phạt tù,


8

người kết án đang điều trị bệnh và có kết luận của bệnh viện tỉnh về việc người
đang bị bệnh nặng nếu đi chấp hành án ngay sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tuy
nhiên, sau một thời gian ngắn được áp dụng biện pháp hỗn chấp hành hình phạt
tù, người bị kết án phạt tù được ra viện, khơng cịn điều trị tại bất cứ cơ sở y tế
nào và điều quan trọng là họ vẫn sinh hoạt, đi lại bình thường, từ đó gây dư luận
khơng tốt về sự nghiêm minh của pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Trình tự, thủ tục hỗn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng
theo quy định tại Điều 23 Luật THAHS năm 2010 và Điểm 1, Mục 3 Nghị quyết
số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao, được thực hiện như sau:
- Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án xem xét, quyết định cho

người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù khi có đề nghị bằng văn bản
của Viện Kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp hoặc người bị kết án. Trường hợp
khơng có đề nghị bằng văn bản của Viện Kiểm sát, cơ quan Cơng an cùng cấp
hoặc người bị kết án, thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án chỉ tự
mình xem xét, quyết định cho người bị kết án được hỗn chấp hành hình phạt tù
trong trường hợp người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh,
chị, em... của người bị kết án) hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc
hoặc chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú đề nghị bằng văn
bản cho người bị kết án được hỗn chấp hành hình phạt tù.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, thì

cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị hỗn chấp hành
hình phạt tù. Hồ sơ bao gồm:
a)

Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;

b) Văn bản đề nghị của Viện Kiểm sát (trường hợp Viện kiểm sát đề nghị

hỗn chấp hành hình phạt tù);
c) Văn bản đề nghị của cơ quan Công an (trường hợp cơ quan Cơng an

đề nghị hỗn chấp hành hình phạt tù);
d) Đơn xin hỗn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án (trường hợp

người bị kết án xin hỗn chấp hành hình phạt tù);



9

đ) Đơn của người thân thích của người bị kết án hoặc văn bản đề nghị của
cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc, của chính quyền địa phương nơi
người bị kết án thường trú (trường hợp khơng có đề nghị của Viện Kiểm sát, cơ
quan Cơng an và người bị kết án);
e) Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật của người
bị kết án. Đối với người bị nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS thì chỉ cần kết
quả xét nghiệm bị nhiễm HIV theo quy định của Bộ Y tế và trong hồ sơ bệnh án
phải xác định rõ là đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu.
Hồ sơ đề nghị hỗn chấp hành hình phạt tù phải được gửi cho Chánh án
Tòa án đã ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận
được đơn hoặc văn bản đề nghị hỗn chấp hành hình phạt phạt tù, Chánh án Tịa
án đã ra quyết định thi hành án phải xem xét, quyết định. Trường hợp khơng
chấp nhận đề nghị hỗn chấp hành hình phạt tù thì Chánh án Tịa án đã ra quyết
định thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đề
nghị biết, trong đó nêu rõ lý do về việc khơng chấp nhận cho người bị kết án
hỗn chấp hành hình phạt tù.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định hỗn chấp
hành hình phạt phạt tù, Tịa án đã ra quyết định hoãn phải gửi quyết định đó
cho cá nhân, cơ quan sau: a) Người chấp hành án; b) Viện kiểm sát cùng cấp;
c) Cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự
cấp Quân khu; d) Cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện nơi người
được hoãn thi hành án đang cư trú; đ) Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định
thi hành án có trụ sở. Khi nhận được quyết định hỗn chấp hành án của Tòa án,
cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự
cấp Quân khu phải ngừng việc làm thủ tục đưa người chấp hành án phạt tù đi
chấp hành án.
Người được hỗn chấp hành hình phạt tù được giao cho chính quyền xã,

phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Họ
không được đi khỏi nơi cư trú nếu không được sự đồng ý của chính quyền hoặc
cơ quan quản lý. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật THAHS thì
cứ 03 tháng một lần, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý phải báo cáo


10

việc quản lý người được hoãn chấp hành án với cơ quan thi hành án hình sự
Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để thơng báo cho
Tịa án đã ra quyết định hỗn chấp hành án.
Đồng thời, trong thời gian được hoãn chấp hành án mà người bị kết án có
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ
trốn thì cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý người được hoãn chấp
hành án báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện, cơ quan thi
hành án hình sự cấp quân khu để đề nghị Chánh án Toà án đã ra quyết định
hỗn hủy bỏ quyết định đó. Ngay sau khi có quyết định hủy quyết định hỗn
chấp hành án, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải
người chấp hành án để thi hành án. Trong trường hợp người được hoãn chấp
hành án bỏ trốn thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra quyết định
truy nã và phối hợp tổ chức truy bắt. Bên cạnh đó, trong thời gian được hỗn
chấp hành hình phạt tù, nếu người được hỗn chấp hành hình phạt lại thực hiện
hành vi phạm tội mới, thì Tịa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước
và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hỗn chấp hành hình phạt tù đối
với người bị bệnh nặng trong thời gian qua đã phát huy được hiệu quả tích cực,
thể hiện rõ tính chất nhân đạo, chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với
người phải thi hành hình phạt tù đang trong hoàn cảnh đặc biệt, chưa thể chấp
hành án phạt tù. Các quy định này đã tạo điều kiện cho họ có thời gian và cơ

hội chữa lành bệnh, hồi phục sức khỏe, góp phần giáo dục, cảm hóa người
phạm tội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định về hỗn chấp hành hình phạt
tù đối với người bị bệnh nặng cũng nảy sinh một số vướng mắc, bất cập, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, theo hướng dẫn tại Điểm a, Mục 7.1 Nghị quyết số 01/2007/NQHĐTP thì “bệnh nặng” được hiểu là “... bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành
hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính
mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được hỗn chấp hành hình phạt tù để
họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao


11

nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV
chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu...”.
Để có cơ sở pháp lý chứng minh là “bệnh nặng”, người bị xử phạt tù phải có “kết
luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên”, trong đó xác định về việc “người bị xử phạt
tù bị bệnh nặng”. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn hiện hành lại không quy định
rõ về kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên là bệnh án hay kết quả siêu âm, xét
nghiệm hoặc cần có một văn bản riêng do bệnh viện cấp tỉnh hoặc người có thẩm
quyền trong bệnh viện cấp tỉnh cấp. Điều này sẽ làm cho việc áp dụng quy định
này trở lên khó khăn và không thống nhất trên thực tế.
Thứ hai, tại mục 7.3 của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP thì “người bị
xử phạt tù bị bệnh nặng được hỗn chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều
lần cho đến khi sức khỏe hồi phục”. Thế nào là “sức khỏe [được] hồi phục”, cơ
quan nào có trách nhiệm kết luận đánh giá cũng chưa được quy định cụ thể
trong các văn bản hướng dẫn. Có nhiều trường hợp người được hỗn chấp hành
hình phạt tù vì lý do sức khỏe, sau đó sức khỏe hồi phục và người đó trốn khỏi
địa phương hoặc mặc dù sức khỏe thực tế đã được hồi phục nhưng người đó cố
tình chây ỳ khơng đi chấp hành án, tiếp tục điều trị nội trú tại bệnh viện, làm
ảnh hưởng đến việc thực thi bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.

Các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về
hỗn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng trong thời gian qua được
thể hiện qua bởi một số trường hợp thực tế như sau:
Vụ việc thứ nhất: Bị án Đoàn Văn Thế bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố
ý gây thương tích”. Tuy nhiên, ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố
Quy Nhơn đã ban hành Quyết định số 14/2017/QĐ-CA về việc hoãn chấp
hành hình phạt tù trong thời hạn 06 tháng đối với Đoàn Văn Thế với lý do
đang điều trị bệnh lao phổi AFB3+ tại Bệnh viện Lao và Phổi tỉnh Bình Định,
liệu trình điều trị 06 tháng, tình trạng bệnh lý cần phải cách ly do lây nhiễm,
cần hạn chế lao động và đề nghị nghỉ ngơi trong thời gian điều trị của liệu
trình. Nhưng, qua kết quả xác minh của Viện KSND tỉnh Bình Định tại Bệnh
viện nêu trên thể hiện, bị án Đoàn Văn Thế đến khám, điều trị ngoại trú tại
Bệnh viện từ ngày 09/5/2017, chẩn đoán lao phổi AFB dương tính (có kết quả


12

xét nghiệm), đến ngày 11/7/2017, được Bệnh viện cho xét nghiệm lại với kết
quả âm tính (khơng cịn bệnh)1.
Như vậy, việc Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn ra Quyết định hỗn
chấp hành hình phạt tù đối với bị án Đoàn Văn Thế với lý do bị bệnh nặng là
khơng có căn cứ, trái với quy định tại Điều 61 Bộ luật Hình sự và Điểm a,
Khoản 7.1, Mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định tại khoản 2 Điều 23
Luật THAHS thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị của
người bị kết án hoặc văn bản đề nghị của Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành án cư trú, cơ quan
thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người phải chấp hành án làm việc về việc
hỗn chấp hành án phạt tù thì Chánh án Tòa án phải xem xét và quyết định.
Trong trường hợp này, người bị kết án đã thể hiện sự không thành khẩn, cố tình

che giấu thơng tin về việc đã khơng cịn bệnh nhưng Chánh án Tịa án nhân dân
thành phố Quy Nhơn lại dựa vào kết quả xét nghiệm từ ngày 09/5/2017 để ra
quyết định hỗn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án vào ngày
18/8/2017. Việc căn cứ vào kết quả xét nghiệm được thực hiện từ khá lâu (hơn
03 tháng) trong khi bệnh tình của người bị kết án có thể thuyên giảm hoặc hồi
phục đã dẫn đến việc ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt khơng phù hợp với
thực tế. Quy định pháp luật hiện hành về thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù chỉ
u cầu phải có “kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt
tù bị bệnh nặng...”2 nhưng không quy định cụ thể về việc bản kết luận được thực
hiện trong thời gian nào cũng như từ thời điểm kết luận đến thời điểm ra quyết
định hỗn chấp hành hình phạt tù có khoảng cách bao lâu nên dẫn đến thực tế là
người bị kết án sử dụng bản kết luận cũ để trì hỗn việc chấp hành án phạt tù. Để
khắc phục tình trạng nêu trên, địi hỏi phải bổ sung quy định về thời hạn của bản
kết luận bệnh nặng làm căn cứ để hỗn chấp hành hình phạt tù, đảm bảo từ thời
điểm có kết luận bệnh nặng đến thời điểm quyết định hỗn chấp hành hình phạt
tù khơng có khoảng cách quá xa về mặt thời gian.
Thái Văn Mừng, Kháng nghị bãi bỏ quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù trái pháp luật, http://vksbinhdinh.
gov.vn/newsdetail.asp?newsID=71483&cat1id=3&Cat2id=9, truy cập ngày 09/07/2019.
2
Điểm a, Mục 7.1 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
1


13

Vụ việc thứ hai: Bị án Lê Quốc Hội bị Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ
tuyên phạt bị báo 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày
11/10/2011, bản án có hiệu lực pháp luật, Lê Quốc Hội có đơn xin hỗn chấp
hành hình phạt tù với lý do bị bệnh nặng. Bản thân Lê Quốc Hội bị nhiễm

HIV/AIDS giai đoạn cuối. Sau khi xác minh Lê Quốc Hội bị nhiễm trùng cơ hội,
tiên lượng xấu, Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ quyết định cho Hội được hỗn
chấp hành hình phạt tù với thời hạn là 01 năm. Ngày 11/10/2012, sau khi hết thời
hạn hỗn chấp hành hình phạt tù, Lê Quốc Hội lại tiếp tục có đơn xin hỗn chấp
hành hình phạt tù. Lần này qua xác minh thì Lê Quốc Hội có đang điều trị các
bệnh về hơ hấp tại bệnh viện tuyến huyện (Bệnh viện đa khoa Sơn Tây), trong
bệnh án tại bệnh viện không xác định người bị kết án điều trị HIV/AIDS có
nhiễm trùng cơ hội và khơng xác định có tiên lượng xấu. Tịa án nhân dân thị xã
Phú Thọ khơng chấp nhận đề nghị hỗn chấp hành hình phạt tù của người bị kết
án, buộc Lê Quốc Hội phải chấp hành quyết định thi hành án phạt tù.
Tuy nhiên việc áp giải thi hành án đối với Lê Quốc Hội gặp khó khăn do:
trong các văn bản hướng dẫn không quy định cụ thể về trường hợp người bị kết
án đang điều trị trong bệnh viện mà khơng phải các bệnh được hỗn chấp hành
hình phạt tù thì việc áp giải được thực hiện như thế nào? Cơ quan thi hành án
hình sự phải có nghĩa vụ áp giải người bị kết án tối đa trong thời hạn là bao
lâu?... Theo quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật THAHS thì trong trường hợp
người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận
được quyết định thi hành án, họ phải có mặt tại trụ sở cơ quan thi hành án hình
sự Cơng an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu được chỉ
định trong quyết định thi hành án; quá thời hạn này mà người đó khơng có mặt
thì Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp hoặc Vệ binh hỗ trợ tư pháp
thực hiện áp giải thi hành án. Nếu họ bỏ trốn thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định truy nã và tổ chức truy bắt. Trong trường hợp này, người bị kết án không bỏ
trốn nhưng lại điều trị nội trú tại bệnh viện nên gây khó khăn trong việc thực
hiện biện pháp áp giải do chưa có quy định về thủ tục cụ thể.
Thực tế tại vụ việc trên, người bị kết án sau khi điều trị tại bệnh viện đa
khoa Sơn Tây, để trốn tránh việc thi hành án, người bị kết án lại vào điều trị nội
trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ với bệnh ngoài da. Cơ quan thi hành án



14

hình sự Cơng an thị xã Phú Thọ đã khơng thực hiện được việc áp giải bởi lo ngại
việc sẽ có sự phát sinh về sức khỏe của người bị kết án sẽ dẫn đến những khó
khăn trong q trình áp giải3.
Vụ việc thứ ba: Bị cáo Phan Tấn Đạt, sinh năm 1993, trú tại: Thơn Long
Hịa, xã An Hịa, huyện An Lão, tỉnh Bình Định bị phạt 3 tháng tù về tội “cố ý
gây thương tích” theo bản án Hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST ngày
04/12/2015 của Tịa án nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Vào ngày
06/01/2016, Tòa án nhân dân huyện An Lão ra Quyết định thi hành án phạt tù
nhưng bị án có đơn xin hỗn chấp hành án. Ngày 13/01/2016, Tịa án nhân dân
huyện An Lão có Quyết định số 01/2016/QĐ-CA cho bị án Phan Tấn Đạt được
hoãn chấp hành án 9 tháng, với lý do người bị kết án bị đứt dây chằng chéo trước
gối, đang phẫu thuật, điều trị và không đi lại được.
Tuy nhiên, việc Phan Tấn Đạt bị đứt dây chằng rách sụn chéo gối trước
đã được Bệnh viện Phong - Da Liễu TW Quy Hòa mổ nội soi tái tạo dây chằng
chéo trước và sụn khớp và xuất viện vào ngày 19/12/2015 (trước khi có quyết
định hỗn vào ngày 13/01/2016). Theo quy định pháp luật thì trường hợp của
Phan Tấn Đạt không thuộc trường hợp bệnh nặng. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân
huyện An Lão căn cứ vào giấy ra viện, chứng nhận có phẫu thuật và bản hướng
dẫn luyện tập, hồi phục thể lực sau phẫu thuật để quyết định thời hạn cho bị án
hoãn 9 tháng với lý do bị án đang phẫu thuật, đang điều trị vì mới phẫu thuật,
bệnh nhân cịn khó khăn trong đi lại nên cho hỗn chấp hành hình phạt tù4.
Việc Tịa án nhân dân huyện An Lão căn cứ vào những giấy tờ này để ra
quyết định cho bị án Phan Tấn Đạt được hoãn chấp hành án 9 tháng là chưa
thật chặt chẽ theo hướng dẫn tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết 01/2007/HĐTP của
Tịa án nhân dân Tối cao: “Tồ án cũng có thể cho người bị xử phạt tù thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của BLHS (1999) mà
không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7,
được hỗn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ”. Theo

quy định điểm a tiểu mục 7.1 Nghị quyết 01/2007/HĐTP, bị án cần phải có kết
Tịa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2013), Báo cáo tổng kết cơng tác ngành Tịa án tỉnh Phú Thọ năm 2013.
Nguyễn Thị Phương Thảo, Thông báo rút kinh nghiệm trong cơng tác kiểm sát việc hỗn chấp hành hình
phạt tù, truy cập ngày
29/12/2018.
3
4


15

quả khám bệnh của Bệnh viện cấp tỉnh về sức khỏe của bị án tại thời điểm xin
hoãn; xác minh y khoa đối với tình hình diễn biến bệnh, thời gian hồi phục sau
phẫu thuật và thực tế sức khỏe của bệnh nhân để làm cơ sở cho việc hoãn và
quyết định thời hạn hoãn.
Vụ việc thứ tư: Phạm Văn T, sinh năm 1953, trú tại thôn XC, xã H.T,
huyện KX, tỉnh TB phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”
theo khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự, bị Tịa án nhân dân tỉnh TB xét xử phúc
thẩm xử phạt 15 tháng tù tính từ ngày bắt thi hành án được khấu trừ đi thời gian
bị cáo đã bị tạm giam (28/2/2012 đến 23/4/2012).
Tòa án nhân dân huyện KX đã ra Quyết định thi hành án phạt tù số
42/2013/QĐ-CA, ngày 21/6/2013 (trước đó, Viện kiểm sát đã yêu cầu Tòa án
ra quyết định thi hành án và Tịa án cũng có văn bản nêu lý do chậm ra quyết
định thi hành án). Ngay sau khi Tòa án ra quyết định thi hành án hai ngày, Tòa
án lại ra Quyết định trưng cầu giám định sức khỏe để xem xét có đủ điều kiện
sức khỏe chấp hành án phạt tù hay khơng. Sau đó, Tịa án nhân dân huyện KX
ra Quyết định hoãn thi hành án số 05/2013/QĐ-CA ngày 28/6/2013 của TAND
huyện KX với lý do người bị kết án bị bệnh xơ gan giai đoạn còn bù5 – giãn
tĩnh mạch thực quản độ 2 và viêm niêm mạc dạ dày - loét hành tá tràng, thuộc
trường hợp bệnh nặng.

Viện kiểm sát nhân dân huyện KX xác minh điều kiện thi hành án ngày
01/8/2013 tại gia đình bị án: bị án xác nhận kể từ ngày 26/6/2013 đến ngày
01/8/2013 không điều trị ở bệnh viện hay cơ sở y tế nào nên khơng có bệnh án
để cung cấp cho Viện kiểm sát, hiện tại bị án điều trị bệnh ở nhà và vẫn sinh
hoạt, đi lại bình thường. Viện kiểm sát nhân dân huyện KX thấy khơng đủ điều
kiện hỗn thi hành án và đã ban hành kháng nghị số 03/KN-VKS: Kháng nghị
Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số 05/2013/QĐ-CA ngày 28/6/2013 của
TAND huyện KX, yêu cầu bãi bỏ quyết định và ra thông báo cho bị án tiếp tục
thi hành án.
Xơ gan còn bù là xơ gan ở giai đoạn đầu, khi mà các tế bào gan chưa bị tổn thương nhiều vẫn có khả năng
chữa khỏi bệnh và phục hồi được chức năng gan. Tuy nhiên, nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp
thời sẽ chuyển sang xơ gan giai đoạn cuối với rất nhiều biến chứng nguy hiểm, nguy cơ tử vong cao (BS
Hoàng Thị Năng, Xơ gan giai đoạn đầu sống được bao lâu và dấu hiệu của bệnh, truy cập ngày 09/04/2020)
5


16

Ngày 23/8/2013, Tòa án nhân dân huyện KX đã ra Quyết định thi hành án
phạt tù số 60/2013/QĐ-CA, buộc Phạm Văn T phải chấp hành hình phạt6.
Trong trường hợp này có thể thấy tiêu chí xác định bệnh nặng khơng thật
sự rõ ràng. Tòa án cho rằng bệnh xơ gan giai đoạn còn bù – giãn tĩnh mạch
thực quản độ 2 và viêm niêm mạc dạ dày- loét hành tá tràng thuộc trường hợp
bệnh nặng, cần phải hoãn chấp hành hình phạt để điều trị. Trong khi thực tế thì
Phạm Văn T lại không cần điều trị ở bệnh viện hay cơ sở y tế nào mà chỉ cần
điều trị bệnh ở nhà và vẫn sinh hoạt, đi lại bình thường. Do đó, Viện kiểm sát
nhân dân huyện KX cho rằng việc hỗn chấp hành hình phạt tù trong trường
hợp này là khơng cần thiết vì việc chấp hành hình phạt tù trong trại giam không
ảnh hưởng đến sức khỏe của Phạm Văn T. Có thể nhận thấy trong trường hợp
này Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân huyện KX đã tự đánh giá về tình trạng

bệnh của bị án để từ đó quyết định về việc bị án được hỗn hay buộc phải chấp
hành hình phạt. Theo tác giả, việc đánh giá tình trạng bệnh của bị án cũng như
xác định việc chấp hành hình phạt tù có ảnh hưởng đến tính mạng của bị án hay
khơng bắt buộc phải do cơ quan y tế có chun mơn là Bệnh viện từ cấp tỉnh
trở lên quyết định. Việc Tòa án hoặc Viện kiểm sát tự kết luận như trên có thể
khơng phản ánh đúng tình trạng bệnh của bị án, từ đó ra các quyết định khơng
chính xác.
Vụ việc thứ năm: Ngô Thanh Tuấn, sinh năm 2000, trú tại thơn Hà Thủy
02, xã Chí Cơng, huyện Tuy Phong, bị phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương
tích”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/2017/HSST ngày 16/8/2017 của Tòa án
nhân dân huyện Tuy Phong. Ngày 20/9/2017, Ngơ Thanh Tuấn có đơn xin hỗn
chấp hành án phạt tù, lý do bị bệnh.
Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong đã trưng cầu giám định sức khỏe của bị
án Ngơ Thanh Tuấn. Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận sức khỏe Ngô
Thanh Tuấn: “Chấn thương não do di chứng của Hội chứng thợ lặn. Hiện tại yếu
liệt ½ người bên phải mức độ nhẹ. Tổn thương gan, thận đã được điều trị nội
khoa hiện không để lại di chứng. Tình trạng sức khỏe của Ngơ Thanh Tuấn bị
suy giảm do bệnh tật là 40% (bốn mươi phần trăm).”
Minh Hải – Như Hoa, Cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoãn thi hành án phạt tù, https://
tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/310, truy cập ngày 03/05/2019.
6


17

Mặc dù, kết luận pháp y xác định bệnh lý của Ngô Thanh Tuấn không
thuộc trường hợp bệnh nặng, tức không thuộc trường hợp bị bệnh đến mức
không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ
nguy hiểm đến tính mạng của họ nhưng Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong căn
cứ theo quy định tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết 01/2007/HĐTP của Tòa án nhân

dân Tối cao và cho bị án Ngơ Thanh Tuấn được hỗn chấp hành án phạt tù 12
tháng. Tiểu mục 7.2 Nghị quyết 01/2007/HĐTP của Tòa án nhân dân Tối cao
hướng dẫn: “Tồ án cũng có thể cho người bị xử phạt tù thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của BLHS (1999) mà không thuộc một
trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7, được hoãn chấp
hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ” nhưng không lý giải cụ thể
quy định “xem xét rất chặt chẽ” là như thế nào và phải căn cứ vào những tiêu chí
nào để ra quyết định. Vì vậy, tuy việc quy định như trên cho phép Tòa án được
tùy nghi quyết định nhưng lại dẫn đến thực trạng là Tịa án lại khơng xem xét
chặt chẽ trường hợp của người bị kết án có cần thiết phải hỗn chấp hành hình
phạt tù hay khơng mà lại ra quyết định hỗn cho họ.
1.3. Giải pháp hồn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Trên cơ sở xác định nguyên nhân dẫn đến bất cập từ thực tiễn áp dụng
pháp luật về hỗn chấp hành hình phạt tù tại điểm a khoản 1 Điều 67 BLHS năm
2015, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, căn cứ xác định tình trạng “bệnh nặng” đối với người được
hỗn chấp hành hình phạt tù của bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên phải bằng văn
bản kết luận riêng. Theo đó, người yêu cầu được cấp văn bản này là người bị
bệnh nặng và có yêu cầu để được thực hiện thủ tục hỗn chấp hành hình phạt
tù. Nội dung văn bản phải xác định cụ thể loại bệnh, tình trạng bệnh, thời gian
điều trị, thời gian tái khám, kết luận về việc tình trạng bệnh có khả năng ảnh
hưởng đến tính mạng của bệnh nhân cũng như việc buộc họ phải chấp hành
hình phạt tù có gây nguy hiểm đến tính mạng của họ hay khơng. Đồng thời,
những người có thẩm quyền xác nhận tình trạng bệnh của bị án bao gồm: bác sĩ
trực tiếp khám bệnh, người đứng đầu của Khoa điều trị (Trưởng khoa) và người
đứng đầu của bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên (Giám đốc/Phó giám đốc). Như vậy


18


mới thể hiện tính có căn cứ, xác thực cũng như trách nhiệm của những người
đứng đầu cơ quan y tế đối với kết luận nhân danh cơ sở của mình trước pháp
luật chứ khơng phải của riêng bác sĩ trực tiếp điều trị. Trong trường hợp nếu
văn bản kết luận tình trạng bệnh của bệnh viện cấp tỉnh trở lên khơng chính xác
thì những người nêu trên sẽ chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm hình sự
tùy mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra trên thực tế. Chẳng hạn: Trong trường
hợp những người nêu trên có hành vi nhận hối lộ từ 2 triệu đồng trở lên để xác
nhận kết quả khơng chính xác thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự họ về Tội
nhận hối lộ...
Bên cạnh đó, nhằm tránh tình trạng người bị kết án tuy đã hồi phục nhưng
cố tình đưa ra văn bản kết luận tình trạng bệnh đã có từ trước đó nhằm trì hỗn
việc chấp hành án phạt tù, cần bổ sung quy định về thời hạn của văn bản kết luận
tình trạng bệnh của người bị kết án. Theo quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật
THAHS, người bị kết án phạt tù đang tại ngoại phải có mặt tại trụ sở cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu được chỉ định trong quyết định thi hành án trong thời hạn 07 ngày kể từ
ngày nhận được quyết định thi hành án để thực hiện việc chấp hành án. Do đó,
văn bản kết luận tình trạng bệnh của người bị kết án chỉ được coi là căn cứ để
Tịa án ra quyết định hỗn chấp hành hình phạt tù khi được cấp tối đa khơng quá
07 ngày tại thời điểm gửi hồ sơ đề nghị Tịa án xem xét, quyết định việc hỗn
chấp hành hình phạt tù. Nếu q thời hạn đó thì người bị kết án phải thực hiện
việc giám định y khoa tại bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên để
xác định tình trạng bệnh.
Thứ hai, để tránh thời hạn hỗn kéo dài khơng có giới hạn, cần quy định
người được hỗn chấp hành hình phạt tù do bị bệnh nặng phải đi khám tại bệnh
viện cấp tỉnh trở lên theo đúng lịch tái khám mà bác sĩ điều trị đã đề xuất hoặc
theo định kỳ ít nhất 3 tháng một lần để cơ quan, đơn vị quân đội được giao
nhiệm vụ quản lý người được hoãn chấp hành án báo cáo với cơ quan thi hành
án hình sự Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp qn khu nhằm
thơng báo cho Tịa án đã ra quyết định hoãn chấp hành án. Việc khám bệnh

trong trường hợp này là bắt buộc nhằm kiểm tra, xác định lại tình trạng sức
khoẻ của người được hỗn chấp hành hình phạt tù, làm căn cứ để tiếp tục hoặc


19

chấm dứt việc hỗn chấp hành hình phạt tù đối với họ. Trách nhiệm kiểm tra,
giám sát thuộc về người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý người được hỗn
chấp hành hình phạt tù. Nếu người được hỗn chấp hành hình phạt tù được giao
cho UBND cấp xã nơi cư trú quản lý thì người chịu trách nhiệm sẽ là cán bộ,
công chức của UBND cấp xã được phân cơng trách nhiệm quản lý, giám sát
người được hỗn chấp hành hình phạt tù. người được hỗn chấp hành hình phạt
tù được giao cho đơn vị quân đội quản lý thì người chịu trách nhiệm sẽ là
người được đơn vị quân đội phân công trực tiếp quản lý, giám sát người được
hỗn chấp hành hình phạt tù. Trong trường hợp họ khơng thực hiện việc kiểm
tra, giám sát thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà họ sẽ bị xử lý kỷ luật
ở các mức độ khác nhau: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức hoặc
buộc thôi việc.
Thứ ba, hướng dẫn cụ thể quy định tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết
01/2007/HĐTP của Tòa án nhân dân Tối cao: “Tồ án cũng có thể cho người bị
xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của
BLHS (1999) mà không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu
mục 7.1 mục 7, được hỗn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt
chẽ”. Theo đó, đối với trường hợp người chấp hành án bị bệnh, dù khơng phải là
bệnh nặng đến mức nguy hiểm đến tính mạng, nếu có văn bản kết luận riêng của
bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên xác nhận tình trạng của người bệnh cần phải được
điều trị, chăm sóc lâu dài tại bệnh viện mới có thể chữa khỏi bệnh thì Tịa án có
thể áp dụng biện pháp hỗn chấp hành hình phạt tù. Trong trường hợp văn bản kết
luận riêng của bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên xác định loại bệnh và tình trạng bệnh
của người chấp hành án khơng cần phải điều trị, chăm sóc lâu dài tại bệnh viện thì

phải buộc họ chấp hành hình phạt tù. Trong trường hợp họ khơng tự giác chấp
hành hình phạt thì Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải
người chấp hành án để thi hành án. Trường hợp người được hoãn chấp hành án bỏ
trốn thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra quyết định truy nã và phối
hợp tổ chức truy bắt theo quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật THAHS.
Thứ tư, thực hiện công tác kiểm tra các điều kiện để ra quyết định hoãn
chấp hành hình phạt tù của Tịa án một cách chặt chẽ, tránh tình trạng người bị
kết án lợi dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước để trốn tránh việc thi hành án


20

phạt tù, ảnh hưởng đến việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật Thi hành án hình sự thì trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, Tịa án đã
ra quyết định hỗn phải gửi quyết định đó cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện
kiểm sát cùng cấp phải kiểm tra hồ sơ cũng như các căn cứ mà Tịa án dựa vào
đó để ra quyết định hỗn chấp hành hình phạt tù. Đồng thời, trong q trình thi
hành quyết định hỗn chấp hành hình phạt tù, khi cơ quan thi hành án hình sự
Cơng an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp qn khu thơng báo cho
Tịa án theo định kỳ 03 tháng một lần về việc quản lý người được hoãn chấp
hành hình phạt tù thì Viện kiểm sát cũng xem xét, kiểm tra việc quản lý này
nhằm đảm bảo việc thi hành quyết định luôn được thực hiện chặt chẽ và đúng
pháp luật.


×