Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng cô hồn ở các làng đánh cá ven biển đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
----------------

Đề tài:

TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CƠ HỒN
Ở CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN ĐÀ NẴNG

Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp
Ngƣời hƣớng dẫn

: Nguyễn Thị Phƣợng
: Việt Nam Học
: 11CVNH
: ThS. Lê Thị Thu Hiền

Đà Nẵng, tháng 5/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................5
6. Đóng góp của đề tài.................................................................................................6


NỘI DUNG ................................................................................................................7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN ĐÀ
NẴNG VÀ TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CÔ HỒN Ở VIỆT NAM ....................7
1.1. Tổng quan về các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng..........................................7
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ........................................................................7
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ................................................................................11
1.1.3. Đời sống văn hóa và dân cư ............................................................................15
1.2. Khái quát chung về tín ngƣỡng thờ cúng cơ hồn ở Việt Nam......................17
1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng, Cơ hồn ........................................................................17
1.2.1.1. Tín ngưỡng ...................................................................................................17
1.2.1.2. Cơ hồn ..........................................................................................................18
1.2.2. Q trình hình thành và phát triển ..................................................................18
1.3. Vai trị, ý nghĩa của tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn ở Việt Nam ....................19
CHƢƠNG 2: TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CƠ HỒN TRUYỀN THỐNG Ở
CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN ĐÀ NẴNG ..................................................21
2.1. Quan niệm của cư dân ven biển Đà Nẵng về Cô hồn và thờ cúng Cô hồn .....21
2.2. Biểu hiện của tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn ...................................................22
2.2.1. Cơ sở thờ tự .....................................................................................................23
2.2.1.1. Phạm vi gia đình...........................................................................................23
2.2.1.2. Phạm vi làng vạn ..........................................................................................26
2.2.2. Thời gian thờ cúng ..........................................................................................28


2.2.3. Nghi lễ thờ cúng ..............................................................................................30

1


2.2.3.1. Đối với phạm vi gia đình..............................................................................30
2.2.3.2. Phạm vi làng vạn ..........................................................................................33

2.3. Giá trị của tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn trong đời sống kinh tế, xã hội, văn
hóa, tâm linh ở các làng chài ven biển Đà Nẵng...................................................40
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG CÔ HỒN Ở CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN
ĐÀ NẴNG ................................................................................................................43
3.1. Quan điểm về tín ngƣỡng thờ cúng Cô hồn ở Đà Nẵng................................43
3.1.1. Quan điểm của cư dân địa phương đối với tín ngưỡng thờ cúng cơ hồn ........43
3.1.2. Quan điểm của các cấp lãnh đạo đối với tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn ..........44
3.2. Thực trạng bảo tồn và phát triển tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn ở các làng
chài ven biển Đà Nẵng hiện nay .............................................................................46
3.2.1. Nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa .......................................................................46
3.2.2. Tín ngưỡng đang bị chi phối bởi nền kinh tế thị trường và lối sống đơ thị hóa ..46
3.2.3. Chưa được sự hướng dẫn, quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền địa
phương.......................................................................................................................49
3.2.4. Hiện tượng mê tín dị đoan của cư dân ven biển..............................................50
3.3. Giải pháp bảo tồn, phát huy tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn ở các làng đánh
cá ven biển Đà Nẵng ................................................................................................50
3.3.1. Bảo tồn và nâng cấp cơ sở thờ tự ....................................................................50
3.3.2. Nâng cao ý thức bảo vệ, phát triển tín ngưỡng truyền thống của cư dân địa
phương.......................................................................................................................51
3.3.3. Tăng cường vai trị của chính quyền địa phương để gìn giữ nét đặc sắc của tín
ngưỡng.......................................................................................................................52
KẾT LUẬN ..............................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................57
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam được hình thành dựa trên văn hóa của 54 dân tộc cùng

chung sống trên lãnh thổ. Ngồi văn hóa Việt - Mường mang tính tiêu biểu, cịn có
các nhóm văn hóa đặc sắc khác như Tà - Nùng, Thái, Chàm, Hoa - Ngái, Môn Khmer, H‟Mông - Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những
truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nơng nghiệp gắn bó
với rừng núi tự nhiên.
Trong dịng chảy văn hóa đa màu sắc đó, tín ngưỡng trở thành một điểm
nhấn, đóng góp to lớn trong mạch nguồn văn hóa Việt Nam nói chung. Từ thuở xa
xưa nhân dân trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh, các thế lực vơ hình và
hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích
được. Nói đến tín ngưỡng thì không thể nào bỏ qua được quan niệm thờ cúng trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của cư dân ven biển, trong đó có tín ngưỡng thờ
cúng Cơ hồn.
Tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn là một hình thức tín ngưỡng dân gian có từ lâu
đời trong quần chúng nhân dân gắn với quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có
lành”. Tín ngưỡng này mang nhiều lớp ý nghĩa khác, đó là tư tưởng cầu an, cầu mùa
của đại bộ phận cư dân vùng ven biển, luôn phải đối mặt với những rủi ro, bất trắc
trong nghề nghiệp và trong cuộc sống. Đó là sự tri ân đến các bậc tiền nhân đã có
cơng khai phá, gìn giữ và xây dựng làng xóm ngay từ những buổi đầu, thể hiện bản
tính của người Việt - trọng tình, thương người, biết xót thương cho những số phận
bất hạnh.
Đà Nẵng là một thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, Việt Nam. Đây được
xem trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu
vực miền Trung - Tây Nguyên. Nói đến Đà Nẵng là chúng ta có thể hình dung ngay
rằng đó là một thành phố tuyệt đẹp bên sông Hàn, bên bờ biển Đông với những nét
quyến rũ chưa từng có ở các đơ thị biển khác… Thiên nhiên ưu đãi cho Đà Nẵng
nằm giữa vùng kế cận ba di sản văn hoá thế giới: Cố đô Huế, phố cổ Hội An và
thánh địa Mỹ Sơn, chính vị trí này đã làm nổi rõ vai trị của thành phố Đà nẵng
trong khu vực, đó là nơi đón tiếp, phục vụ, trung chuyển khách. Khơng chỉ vậy,
1



thành phố Đà Nẵng cịn có nhiều danh thắng tuyệt đẹp đến nỗi du khách khó có thể
nào quên được sau khi đã đến thăm thành phố này. Với đường bờ biển dài 92km,
cát trắng mịn, nước trong xanh, biển Đà Nẵng đã được tạp chí Forbes của Mỹ xếp
vào danh sách 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Vì vậy, loại hình du lịch
biển trở thành điểm hấp dẫn, thu hút du khách đến với thành phố Đà Nẵng. Cho
nên, việc khai thác các giá trị văn hóa truyền thống như tín ngưỡng, lễ hội, sinh hoạt
cộng đồng của cư dân làng biển trở thành một yếu tố góp phần to lớn vào việc phát
triển hơn nữa du lịch biển nơi đây. Đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn rất điển
hình của cư dân ven biển Đà Nẵng.
Tín ngưỡng này xuất phát từ đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân.
Ngày xưa, cư dân ven biển Đà Nẵng làm nghề đánh bắt hải sản trên biển với những
công cụ hết sức đơn sơ, phương tiện chủ yếu để hành nghề là thuyền nan, thuyền
buồm, thuyền chèo nên lúc gặp sóng to gió lớn, bão tố không đủ sức chống chọi.
Nếu gọi thần Nam Hải ứng cứu cũng hết sức hy hữu, không phải lúc nào khấn
nguyện thần cũng có mặt để cứu giúp vì vậy họ cần một chỗ dựa tinh thần, một sức
mạnh ln bên cạnh mình để giúp vượt qua sự khắc nghiệt của tự nhiên và đem lại
sự bội thu khi ra khơi. Chính vì vậy những Cơ hồn xung quanh khu vực đó là điểm
tựa để tạo động lực giúp họ vượt qua khó khăn, phù hộ cho ngư dân có cuộc sống
ấm no.
Hiện nay, Đà Nẵng là một thành phố phát triển năng động, trở thành thành
phố lớn nhất ở khu vực miền Trung, cơn lốc của nền kinh tế thị trường đã và đang
làm mai một những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có văn hóa các làng chài
ven biển và cùng với tín ngưỡng cơ hồn. Vì vậy việc tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng
cơ hồn ven biển sẽ góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo tồn, phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống, giáo dục lối sống cho các tầng lớp dân cư
ven biển, đặc biệt là thế hệ trẻ, mở ra hướng mới cho việc phát triển du lịch của
thành phố và cũng là nguồn tài liệu giảng dạy lịch sử địa phương.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “Tín ngƣỡng thờ cúng
Cô hồn ở các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng” làm đề tài khóa luận của mình.
Đây là một đề tài mà từ trước cho tới giờ chưa ai đi nghiên cứu chuyên sâu ở riêng


2


khu vực Đà Nẵng, vì vậy hứa hẹn sẽ giúp ích được một phần nào đó cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam như: Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam của Nguyễn Minh San (Nxb Văn
hóa Dân tộc); Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam (Quyển thượng, Quyển hạ) của Toan
Ánh (Nxb Trẻ) đã trình bày về các phong tục, tập quán, lễ nghi, hội hè, đình đám
của con người Việt Nam qua 4.000 năm lịch sử. Qua đó ta có dịp ơn nhớ lại lai lịch
của tổ tiên trên con đường dựng nước và giữ nước; Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam của Ngơ Đức Thịnh (Nxb Trẻ) là tác phẩm được biên soạn, sưu
tầm rất cơng phu nói về tín ngưỡng, các loại hình tín ngưỡng cũng như văn hóa tín
ngưỡng của người dân Việt Nam nói chung và khu vực miền Trung nói riêng. Trong
đó có cả vùng duyên hải miền Trung và di sản văn hóa thế giới - Hội An. Các tác
giả trong cơng trình trên đều khẳng định loại hình tín ngưỡng cơ hồn này trong sự
tồn tại của tín ngưỡng Việt Nam.
Liên quan trực tiếp đến đề tài, có các cơng trình: Văn hóa dân gian làng ven
biển của Ngơ Đức Thịnh (Chủ biên), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội (2000); Cuốn
Chuyện làng nghề đất Quảng của Phạm Hữu Đăng Dật (Nxb Đà Nẵng); Tín ngưỡng
của cư dân phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng của Phạm Thị
Lấm (2013), khóa luận tốt nghiệp đại học, khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm
Đà Nẵng; Tìm hiểu về các làng chài đánh cá ven biển Đà Nẵng từ khi thành lập đến
nữa đầu thế kỉ XIX của Lương Thị Thùy (2008), khóa luận tốt nghiệp đại học, khoa
Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng và đặc biệt trong cơng trình Tín ngưỡng
của ngư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, NXB của tác giả Nguyễn Xuân
Hương đã đề cập đến các tín ngưỡng, lễ hội của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà
Nẵng như: Tục thờ cúng Cá Ông, lễ hội Cầu Ngư, hát chèo đưa linh, tục thờ Mẫu,

tín ngưỡng thờ Cơ hồn/Cơ bác, tín ngưỡng thờ tổ tiên, thờ Nữ thần.
Các tài liệu trên đây đã đề cập ít nhiều đến vấn đề tín ngưỡng thờ cúng Cơ
hồn của cư dân ven biển Đà Nẵng ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đến nay
vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về tín
ngưỡng thờ cúng Cơ hồn của cư dân ven biển Đà Nẵng. Mặc dù vậy, những tài liệu

3


nghiên cứu nói trên ln là những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu
nghiên cứu và hồn thành đề tài nghiên cứu khoa học “Tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn
ở các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng”.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn ở các làng đánh cá ven biển
Đà Nẵng” nhằm khắc họa bức tranh và đưa ra cái nhìn tổng thể về tín ngưỡng thờ
cúng cơ hồn của cư dân ven biển Đà Nẵng. Đồng thời, thơng qua việc nghiên cứu,
tìm hiểu thực trạng giúp các nhà quản lý đưa ra định hướng bảo tồn và phát huy cho
hệ thống tín ngưỡng truyền thống này Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, đề tài mong muốn sẽ giúp cư dân ve biển hiểu được ý nghĩa
của tín ngưỡng này để biết trân trọng, khơi phục, gìn giữ và phát huy tín ngưỡng
truyền thống văn hóa của q hương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn của cư dân ven biển thành phố
Đà Nẵng, trong đó tập trung vào các vai trị, ý nghĩa của tín ngưỡng này đối với cư
dân nơi đây. Bên cạnh đó đề ra chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín
ngưỡng này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Do điều kiện hạn hẹp về thời gian cũng như
yêu cầu về kiến thức sâu rộng, sự đầu tư công sức và tiếp cận thực tế nên chúng tơi

chỉ tìm hiểu một số vấn đề về tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn của các làng đánh cá ven
biển Đà Nẵng như sau:
+ Giới thiệu tổng quan về Thành phố Đà nẵng để đưa ra cái nhìn tổng quát
về bối cảnh và các nhân tố tác động ảnh hưởng đến q trình hình thành, phát triển
tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn của cư dân ven biển Đà Nẵng.
+ Nghiên cứu những biểu hiện của tín ngưỡng này, rút ra đặc điểm chung
tiêu biểu. Từ đó, thấy được vị trí, vai trị và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Cô hồn đối
với đời sống kinh tế, xã hội và tâm linh của mảnh đất và con người ở đây.
+ Đề ra những giải pháp giữ gìn, bảo tồn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng
Cơ hồn của các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng.

4


- Phạm vi không gian nghiên cứu: Để đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng Cơ
hồn ở các làng đánh cá ven biển Thành phố Đà Nẵng, tác giả đã chọn ba làng, đại
diện cho 3 quận ven biển là: Nam Ô (quận Liên Chiểu), Thanh Khê (quận Thanh
Khê), Mân Quang (quận Sơn Trà).
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn
ở các làng ven biển Đà Nẵng từ khi ra đời đến nay.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu thành văn: Các công trình nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp, bài
viết, sách báo, tạp chí,…
- Tài liệu điền dã: thu thập được thơng qua việc đi thực tế, phỏng vấn. Đây là
nguồn tài liệu quan trọng góp phần khơng nhỏ vào sự thành công của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau, đó là:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm
phân tích, tổng hợp các tư liệu, thông tin liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái qt
hóa, mơ hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt được mục tiêu đề ra.
- Phương pháp thống kê: Các số liệu, tư liệu được sưu tầm ở nhiều nguồn
khác nhau và thời gian dài ngắn cũng khơng giống nhau vì thế các tài liệu đó cần
được thống kê lại và xử lý có hệ thống, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đạt hiệu
quả cao.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Sử dụng phương pháp này để lấy được các
số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ
chính xác để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này đóng vai trị
quan trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Đưa ra những câu hỏi đối thoại liên quan đến các
tín ngưỡng của làng đối với người dân địa phương, chính quyền địa phương, sở văn
hóa,… để thu thập thêm thông tin.

5


- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu, chúng
tôi sử dụng phương pháp này để so sánh, đối chiếu giữa cách thức tổ chức, thờ
cũng, số lượng các tín ngưỡng thời gian trước với hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt khoa học:
+ Đây là cơng trình chun khảo về tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn của các làng
đánh cá ven biển Đà Nẵng nên đóng góp rất lớn của đề tài là khảo cứu một cách
tồn diện về về tín ngưỡng thờ cúng Cô hồn của các làng đánh cá ven biển Đà
Nẵng. Đề tài đã hệ thống hóa và đi sâu tìm hiểu tín ngưỡng này, bao gồm: truyền
thuyết, lễ hội, nghi lễ thờ cúng, cơ sở thờ tự…
+ Đề tài là kết quả của một quá trình tìm kiếm, thu thập và tổng hợp được hệ
thống tài liệu có liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn. Qua đó, đề tài đã tiến

hành xây dựng một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa,
tinh thần của về tín ngưỡng thờ Cơ hồn của cư dân ven biển.
- Về mặt thực tiễn:
+ Với kết quả nghiên cứu, đề tài sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn về giá trị
cũng như ý nghĩa của về tín ngưỡng thờ Cơ hồn của các làng đánh cá ven biển Đà
Nẵng từ đó biết gìn giữ và phát huy những giá trị ấy. Đồng thời, tạo cơ sở cho các
cơ quan quản lý có định hướng, biện pháp bảo tồn và phát huy các giá trị, khai thác
các giá trị đặc trưng văn hóa từ về tín ngưỡng thờ Cơ hồn của các cư dân ven biển.
+ Đề tài góp phần thêm tư liệu tham khảo cho q trình học tập lịch sử văn
hóa địa phương, cho những ai quan tâm đến tín ngưỡng này.
7. Cấu trúc đề tài
Chương 1: Tổng quan về các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng và tín ngưỡng
thờ cúng Cơ hồn ở Việt Nam.
Chương 2: Tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn truyền thống ở các làng đánh cá
ven biển Đà Nẵng.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển tín ngưỡng thờ cúng
Cơ hồn ở các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng.

6


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN
ĐÀ NẴNG VÀ TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CƠ HỒN Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng được thành lập trong khoảng thời gian từ
sau năm 1471 và kéo dài đến thế kỉ XVII. Năm 1417, sau sự kiện bình Chiêm,
nhiều tướng phị vua Lê Thánh Tơng đã ở lại trấn trị vùng đất phía hữu ngạn sơng
Hàn. Từ đây, quá trình di dân của người Việt ở phương Bắc vào vùng đất này để

định cư, tạo dựng cuộc sống mới diễn ra ngày một nhiều, dân cư tập trung ngày một
đông đúc. Ban đầu, đa số người dân sống bằng nghề nông là chủ yếu, càng về sau
do điều kiện nơi đây không thuận lợi cho hoạt động sản xuất nơng nghiệp, trong khi
đó Đà Nẵng lại có nguồn lợi về thủy hải sản ở sông, biển nên cư dân đã biết tận
dụng lợi thế này để phát triển nghề đánh bắt thủy hải sản. Từ đó, các làng chài đánh
cá ra đời dọc bờ biển của Đà Nẵng bắt nguồn từ chân đèo Hải Vân cho đến Nam
bán đảo Sơn Trà. Minh chứng rõ nhất là trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý
Đôn được viết vào năm 1776 có nhắc đến nhiều làng xã ở vùng ven sơng Hàn, trong
đó có một số làng như: Nam An, Nại Hiên Đơng, An Hải, Nam Ơ…
Làng đầu tiên phải kể đến đó là làng An Hải, có vị trí nằm ở hữu ngạn sơng
Hàn, địa hình vừa giáp sông vừa giáp biển. Theo các gia phả của lục tộc tiền hiền
Lê, Nguyễn, Ngơ, Huỳnh, Đỗ, Trần thì làng An Hải được thành lập từ thời vua Lê
Thánh Tơng. Truyền Thuyết của làng lưu truyền rằng người có công đầu trong việc
khai hoang lập làng là bà Thân. Về nguồn gốc bà Thân, Có 2 luồng ý kiến:
Thứ nhất, có người cho rằng bà là một lưu dân từ phía Bắc vào đây lập làng
thời Lê Thánh Tơng theo con đường Nam tiến. Theo sắc phong Tiền hiền của làng
đặt tại nhà thờ Tiền hiền và Hậu hiền làng An Hải ghi: “Sắc Tiền hiền ông Công
Thân Hà Thị Thân gia tặng dục bảo trung hưng linh phi tơn thần”
Thứ hai, có nhiều người lại cho rằng bà Thân là một người gốc Chăm thuộc
dòng họ Bà - một trong những dòng họ từng nắm vương quyền ở vương quốc Chăm
Pa. Bà Thân tiến hành khai hoang đến đâu thì trồng cây tràm đến đó, vì vậy nơi nào
có cây tràm đều là đất của bà Thân.
7


Làng An Hải có đến 6 tộc họ là Lê, Trần, Nguyễn, Đỗ, Ngô, Huỳnh lần lượt
đến đây vào thời gian Nguyễn Hồng trấn thủ Thuận Hóa. Dựa vào gia phả làng An
Hải thì các dịng họ ở đây thuộc dạng lâu đời ở Đà Nẵng. Họ Lê ở An Hải do tổ tiên
tiền hiền là ông Lê Quynh, Lê Hữu Lượng, Lê Đức Hà quê Sầm Sơn - Thanh Hóa
đã trải qua được 18 - 19 thế hệ. Họ Nguyễn Văn do tổ tiên là Nguyễn Văn Lượng

người Bắc Trung Bộ vào đây sinh hạ con cháu truyền nối 17 - 18 đời. Qua các sử
liệu chúng ta có thể kết luận rằng, làng An Hải được hình thành dưới triều Lê Thánh
Tông và được xác lập quy củ vào giai đoạn chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng
Thuận Quảng.
Tiếp giáp làng An Hải về phía Đơng - ngay sát bờ biển là làng Mỹ Khê. Làng
Mỹ Khê bắt đầu có tên gọi trên bản đồ Thuận Quảng từ năm 1571, do ông Đàm Văn
Độn lập nên khi hộ tống chúa Nguyễn vào Nam năm Hồng Phúc thứ nhất (1571)
bình Chiêm Nam tiến vào trận nhậm đất Thuận Quảng đến đây lập xã hiệu (1560 1571). Theo gia phả tộc Đàm do ông Đàm Văn Thái lập thời Gia Long lục niên
(1807) hiện lưu giữ tại nhà thờ tộc Đàm có nói về việc ơng Đàm Văn Độn là người
đầu tiên đến đây lập làng. Ơng nhìn thấy giải đất này “Kiến thử giang sơn cẩm tú,
quy dân lập ấp, khai trương địa bộ tôn xưng xã hiệu Mỹ Khê” Như vậy tộc Đàm là
tộc đến khai phá đầu tiên ở đây, tuy nhiên trong các văn thư của các tộc họ cịn để
lại khơng có tộc nào xưng là Tiền hiền mà chỉ ghi: “Tiền khai canh, Hậu khai cư,
Tiền hiền khai khẩn, đẳng chư Tiền hiền”. Đây là điều hiếm thấy ở một làng xã Việt
Nam. Năm 1806, Gia Long đệ ngũ niên, ông Đàm Văn Thái, cháu đời thứ 8 của tộc
Đàm ở Mỹ Khê được phong làm xã trưởng đầu tiên của làng Mỹ Khê. Làng Mỹ
Khê có 12 tơn tộc nên các bơ lão thường hay gọi là “Thập nhị tôn phái”. Trước đây,
các tộc có ruộng đất đứng đầu được phân chia ở làng Mỹ Khê là tộc Đàm, tộc
Nguyễn, tộc Huỳnh.
Tiếp theo, phải kể đến làng Nam Ô - làng đánh cá nằm ngay sát chân đèo Hải
Vân. Đất làng Nam Ô ngày nay, cũng như các vùng đất khác nằm về phía Nam Hải
Vân nguyên xưa thuộc đất Câu Chiêm, Châu Rý, nước Chiêm Thành. Tháng riêng
năm 1307, cả hai châu Ô, Rý được triều đình nhà Trân sát nhập vào nước Đại Việt.
Nam Ơ có nghĩa là phía Nam của Châu Ơ, nó nằm ngay cửa sơng Cu Đê vì vậy
ngay từ thời vùng đất nước này còn thuộc vương quốc Chăm Pa hay sau này thuộc

8


Đại Việt thì Nam Ơ đã được biết đến như nơi để con người dừng lại và cư trú đông

đúc ở đó bởi muốn đi qua Hải Vân thì nhất thiết phải qua Nam Ơ. Theo các bơ lão
trong làng kể lại thì vào nửa cuối thế kỷ XVI, những cư dân Việt đầu đến định cư
trên vùng đất này vốn là những tướng sĩ nằm trong đội quân Nguyễn Hồng vào
trấn thủ Thuận Hóa năm 1558. Khi đi, họ chỉ một mình khơng mang theo vợ con,
gia đình. Rất nhiều khả năng lúc bấy giờ diễn ra những cuộc hơn nhân mà chàng rể
là lính Việt và cơ dâu là con gái Chăm. Cho nên trong gia phả tộc Đinh, Phạm, Mai,
Trần,… những vị Tiền hiền của tộc chỉ có tên ơng mà khơng có tên bà. Theo những
vết tích cịn sót lại ở Nam Ơ thì ta có thể khẳng định rằng, ở khu vực Nam Ô trước
đây là nơi người Chăm từng sinh sống.
Khi cư dân Việt đến định cư ở vùng đât này vào nửa cuối thế kỷ XVI thì
Nam Ơ thuộc Ba Ổ Xn Sơn xã. Trong phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi
rằng Xn Sơn thuộc tổng Lê Sơn, Huyện Hịa Vang, phủ Điện Bàn. Xuân Sơn xã
chỉ vùng đất Ba Ổ Xuân Sơn xã. Tương truyền đến mãi thế kỷ XIX, Ba Ổ Xuân Sơn
xã mới tách thành hai làng Nam Ơ và Làng Xn Thiều. Theo đó, lý trưởng của
làng Nam Ơ là ơng Trần Thạc và lý trưởng làng Xuân Thiều là ông Huỳnh Công
Đáng. Đến thời kỳ này Ba Ổ Xuân Sơn được gọi là Hóa Ổ Xuân Sơn xã. Theo cụ
Đinh Ngọc Hoàng, sinh năm 1917 cho biết sở dĩ có sự thay đổi tên gọi như vậy là
do thời xưa có một người con gái tộc Trần là Trần Thị Ba lấy vua Thiệu Trị nên đã
đổi tên Ba Ổ thành Hóa Ổ. Sau này, do sự phát triển dân số, làng Nam Ô chia tiếp
làm hai là Nam Ô 1 và Nam Ô 2.
Mân Quang là một trong những ngôi làng cổ thuộc phường Thọ Quang, quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Về niên đại hình thành và nguồn gốc tên gọi của làng
Mân Quang đến nay vẫn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Theo lịch sử Đảng bộ phường Thọ Quang thì vào năm 1471, niên hiệu Hồng Đức
nhị niên đời hồng đế Lê Thánh Tơng, thể theo chiếu khuyến khích Nam tiến của
vua Lê lên đường mở mang bờ cõi, dựng xây và phát triển kinh tế vững bền, lục tộc
Tiền hiền gồm các cụ Lê Phước Thọ, Trần Văn Mỹ, Võ Văn Linh, Thái Công Xạ,
Nguyễn Văn Thành, Đinh Vạn Nhang đến khai canh, lập nghiệp, tạo dựng nên tiểu
xứ Vĩnh Yên. Ban đầu, họ khai phá vùng đất phía Nam ven núi Sơn Trà, ước chừng
100 mẫu. Lúc đó tên đất của làng gọi là “Vĩnh Yên Nam Loan xứ”. Đến năm 1485,


9


làng mở rộng thêm vùng đất phía Nam nên có tên là “Mân Quang - Vĩnh Yên xã,
Nam Loan xứ”. Sau đó 6 ngài Tiền hiền nói trên đã rủ nhau lên khai phá vùng đất
thuộc làng Mân Quang của xã Hịa Q hiện nay. Họ đến đó để khai khẩn đất đai,
sinh cơ lập nghiệp vì đất Vĩnh Yên chủ yếu là cát, khô cằn và chật hẹp. Đến năm
Gia Long thứ 10, tức là năm 1812, nhà vua kêu gọi bá tánh về lại làng cũ kê khai
ruộng đất để lập địa bạ. Một số con cháu của 6 ngài trên bèn rủ nhau về sinh sống
tại làng Vĩnh Yên cũ (tức Mân Quang hiện nay). Như vậy từ một tiểu xứ, làng Mân
Quang đã ra đời và người có cơng khai lập làng là sáu vị tộc Lê, Trần, Võ, Thái,
Nguyễn, Đinh. Sáu vị này được xem như là những người tiên phong đầu tiên khai
hoang, lập làng. Công lao to lớn của các cụ đã được vua Khải Định (1916 - 1925)
ban sắc phong. Như vậy, theo giả thuyết này thì làng Mân Quang ra đời vào thế kỉ
XV và chính xác lập xã hiệu vào năm 1485. Nhưng trong Phủ biên tạp lục của Lê
Quý Đôn (viết năm 1776) lại cho rằng “Xã Mân Quang thuộc tổng Hà Khúc, huyện
Hòa Vang, phủ Điện Bàn thời chúa Nguyễn” [7, tr.106] (tức là từ năm 1776 trở về
trước nhưng sau năm 1553). Qua đó, mặc dù chưa khẳng định được năm ra đời
chính thức của làng, song có thể kết luận rằng sự ra đời của làng Mân Quang trải
qua một thời gian dài từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII.
Làng kế tiếp là làng Nam An nay thuộc phường Thọ Quang và phường Mân
Thái, quận Sơn Trà. Làng Nam An được thành lập trên các tiểu xứ Bà Mật, Bà
Lùng, Cồn Mỗi, Vĩnh Vông, Vũng Chấp, Nam Sơn. Vào thời Lê Cảnh Hưng, làng
Nam An được chia thành hai làng nhỏ là Nam Thọ (nay cùng làng Mân Quang tạo
thành phường Thọ Quang) và làng Tân An. Làng Tân An đến thời vua Thành Thái
cải thành Tân Thái, sau này cùng làng Cổ Mân (thuộc địa phận làng cổ Nam An)
hợp thành phường Mân Thái.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông, bộ phận người Việt từ các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An di cư vào khai hoang mở đất lập nên làng Nam An cổ (tiền thân làng Nam

Thọ sau này). Đến khoảng giữa thế kỷ XVII (1648) hai ông Trương Công Bậc ở
làng Trung Sơn (nay thuộc Hịa Liên - Hịa Vang) và ơng Nguyễn Hữu Chữ ở làng
Cẩm Sa (nay thuộc xã Cẩm Nam, huyện Điện Bàn) đến cư trú. Hai ông kêu gọi dân
cư đến đây tổ chức mở đất lập làng, khai phá rừng núi,… lập nên làng Nam An. Vì
vậy hai ơng được sắc phong là “Tiền hiền khai khẩn Nam An Xã”.

10


Như vậy, cùng với các làng được thành lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
các làng đánh cá ven biển nơi đây cũng được hình thành và phát triển gần như song
song trong suốt 3 thế kỷ (XV,XVI, XVII). Quá trình xây dựng làng gắn với quá
trình nam tiến, mở mang bờ cõi về phương Nam của dân tộc. Bên cạnh đó, đa số
các làng đều có vị trí thuận lợi cho hoạt động nghư nghiệp làm cho đa phần đời
sống kinh tế - xã hội của cư dân cũng dần ổn định và tạo hướng phát triển vững
mạnh.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Kinh tế đóng vai trị cốt lõi, khơng thể thiếu trong đời sống của cư dân ven
biển Đà Nẵng. Sự phát triển của kinh tế quyết định đến đời sống vật chất và tinh
thần của người dân. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, bên cạnh ngư
nghiệp với đánh bắt thủy sản là chính thì cư dân các làng Nam Ơ, Thanh Khê Đơng,
Mân Thái,… cịn phát triển nơng nghiệp trồng lúa nước, khoai, sắn, làm thủ công
nghiệp và bn bán,… Cuộc sống cư dân có nhiều đổi thay theo từng thời kỳ phát
triển của thành phố. Theo đó, xã hội cũng được ổn định, đời sống nhân dân được
chăm lo, trật tự an ninh được giữ vững. Người dân dần được cải thiện cả về đời
sống vật chất lẫn tinh thần
Trong buổi đầu thành lập, các làng xã ven biển Đà Nẵng hiện nay thuộc địa
phận quận Sơn Trà (An Hải, Mỹ Khê, Mân Thái), Thanh Khê (Xuân Hà, Hà Khê,
Thanh Khê), Liên Chiểu (Nam Ô, Kim Liên), Ngũ Hành Sơn (Đông Hải, Tân Lưu).
Lớp dân cư ở dải đất dọc sông ven biển đã tổ chức cuộc sống theo mẫu hình làng

biển của vùng quê gốc Thanh Hóa - Nghệ An. Cư dân tại các làng đánh các ven
biển khi mới di cư vào vùng đất này sống bằng nghề nông là chủ yếu. Nguyên nhân
là do cư dân của các làng như An Hải, Mỹ Khê, Nam Ô… đa số đều từ miền Bắc di
cư xuống định cư ở vùng đất này, cho nên họ mang theo những kinh nghiệm và kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp vốn có từ lâu đời để làm ăn, sinh sống. Ngoài ra do điều
kiện thuận lợi về tự nhiên là gần sông, giáp biển nên nguồn nước tưới tiêu không bị
hạn chế. Bên cạnh việc phát triển nơng nghiệp thì cư dân ở vùng ven biển Đà Nẵng
cũng chú trọng phát triển khai thác, đánh bắt thủy, hải sản phục vụ nhu cầu cuộc
sống. Điển hình có thể kể đến một số làng như:

11


Đối với làng An Hải, ban đầu khi mới hình thành làng thì cư dân sống chủ
yếu bằng nghề nơng và xây dựng làng xã theo mẫu hình làng nơng nghiệp truyền
thống. Nhưng sau đó nhận thấy được ưu thế gần biển có nguồn hải sản phong phú
nên đa phần dân cư ở đây chuyển dần sang phát triển đáng bắt thủy hải sản là chính.
Ngồi ra hoạt động kinh tế là thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng được khai
thác và phát triển khá sớm.
Làng Mỹ Khê trong buổi đầu thành lập cũng diễn ra hoạt động kinh tế nơng
nghiệp nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ ở hai con khe bắt nguồn từ núi Sơn Trà. Do
vị trí gần biển nên hoạt động kinh tế chính của cư dân nơi đây là ngư nghiệp, khai
thác nguồn lợi hải sản trên biển
Cịn về làng Nam Ơ, do có địa hình thiên nhiên phong phú: có biển, có sơng,
có gành đá, rạn ngâm nên nghề khai thác thủy hải sản đã phát triển lâu đời. Bên
cạnh đó, nghề mành, nghề rớ, nghề câu, nghề lặn… được phần lớn người dân Nam
Ô chăm theo nên hải sản thu được rất dồi dào. Đặc biệt là nghề làm nước mắm nơi
đây còn rất phát triển và đã tạo được thương hiệu từ bao đời nay.
Do đặc điểm kinh tế là các làng chủ yếu là phát triển nghề biển cho nên
phương thức phân công lao động phổ biến trong xã hội là đàn ông đi biển, đàn bà

phân phối sản phẩm, chế biến các sản phẩm mắm phục vụ gia đình và trao đổi bn
bán.
Tình hình kinh tế của các làng hiện nay đã có bước phát triển hơn trước,
điển hình như: Đầu tiên có thể kể đến làng Nam Ơ 2, theo thống kê của chi hội nơng
dân phường Hịa Hiệp nam: hiện nay còn khoảng 150 thúng đánh bắt, 4 chiếc ghe
mành điện, 5 chiếc ghe rớ; tổng lao động dưới nước khoảng 405 người, lao động
trong các nghành nghề có liên quan khoảng 100 lao động; theo thơng kê của UBND
phường, hiện nay có khoảng 159 hộ gia đình làm nghề biển. Đặc biệt, người dân nới
đây cịn có nghề làm nước mắm, nước mắm Nam Ô hiện nay khơng chỉ nổi tiếng
với người dân trong vùng mà cịn được quy hoạch sản xuất theo hướng làng nghề
truyền thống, giúp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần và vật chất
của người dân nơi đây. Khơng những vậy, nghề làm nước mắm cịn đem lại thu
nhập đáng kể cho người dân tại làng Nam Ô này. Tiếp theo là hai làng Mân Quang
và Nam Thọ - hai làng còn giữ được số lượng lao động hoạt động trong ngành nhiều

12


nhất. Theo thống kê tính tới thời điểm cuối năm 2013, số lượng tàu thuyền là 453
chiếc, trong đó thúng máy là 134 chiếc, tổng công suất là 12.905 CV, sản lượng
khai thác ước thực hiện là 5.647 tấn, đạt 106,31% so với kế hoạch quận và đạt
110,40% so với cùng kỳ năm 2012.
Cùng với các vấn đề về kinh tế thì việc chú trọng phát triển đồng bộ các vấn
đề xã hội từ dân số, lao động, việc làm, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, y tế,
văn hố, thơng tin, thể dục thể thao,... là một việc làm quan trọng, thiết thực, đảm
bảo sự phát triển toàn diện, đồng bộ của một quốc gia, dân tộc cũng như các đơn vị
hành chính. Từ yêu cầu thực tế, hiện nay dưới sự giúp đỡ của chính quyền một số
làng đã và đang ra sức xây dựng làng văn hóa như Nam Ơ, Thanh Khê Đơng,…
Sự nghiệp giáo dục luôn được xem là quốc sách hàng đầu. Trường học tập
trung cơng tác quản lí và đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đảm bảo tốt nhất cho

công tác giảng dạy, chú trọng công tác thanh tra đánh giá cơng tác giảng dạy, học
tập,… nhờ đó chất lượng giáo dục được nâng cao. Điển hình như ở phường Thanh
Khê Đơng: “Năm học 2012 - 2013 có 99,7% học sinh tiểu học; 93,8% học sinh
trung học phổ thông xếp loại trung bình trở lên về học lực, trong đó 94,1% học sinh
trung học; 63,4% học sinh cơ sở đạt khá giỏi; 100% học sinh lớp năm hoàn thành
bậc tiểu học,…” [48, tr.5].
Nhiều ngơi nhà tình nghĩa được xây dựng cho những người già neo đơn; thực
hiện chính sách ưu đãi cho những người có cơng với cách mạng, những bà mẹ Việt
Nam anh hùng; chế độ bảo hiểm y tế được triển khai rộng rãi; xóa đói giảm
nghèo,… Nổi bật nhất có thể kể đến phường Thanh Khê Đơng: “Năm 2013 vận
động quỹ đền ơn đáp nghĩa đạt 163% ở trên giao xuống, hỗ trợ xây mới 4 nhà, tu
sửa 45 nhà tình nghĩa với số tiền 926 triệu đồng. Cùng với sự hỗ trợ của thành phố,
quận Thanh Khê đã vận động hơn 2,7 tỉ đồng quỹ vì người nghèo để tập trung
nguồn lực giúp đỡ người nghèo. Trong đó Quận cùng với phường Thanh Khê đã hỗ
trợ 400 nghìn đồng/khẩu/tháng đối với 164 khẩu của họ đặc biệt nghèo, xây mới
21/40 ngôi nhà cho hộ nghèo” [48, tr.6]. Phường Hịa Hiệp Nam đầu năm 2014,
tồn phường có 697 hộ nghèo với 2.623 nhân khẩu, trong đó có 130 hộ đặc biệt
nghèo. Với tỷ lệ hộ nghèo khá cao, UBND phường đã xây dựng đề án giảm nghèo
với mục tiêu cụ thể giảm dần theo từng năm, phấn đấu đến cuối năm 2016 không

13


còn hộ nghèo trên địa bàn phường, riêng năm 2014 phấn đấu giảm 285 hộ, đạt tỉ lệ
103,26% so với chỉ tiêu trên thành phố giao phó.
Bên cạnh đó cịn, thường xuyên chú trọng nếp sống văn minh đô thị, nhất là
trong việc bảo vệ môi trường, trong việc cưới, việc tang, lễ hội; phát động phong
trào xây dựng gia đình văn hóa; phong trào thể dục thể thao cũng được lãnh đạo
thực hiện với nhiều hoạt động sôi nổi, nhiều loại hình như thể dục dưỡng sinh, tắm
biển, thể dục buổi sáng, bóng đá, bóng chuyền, cầu lơng,… có tác động tích cực đến

việc rèn luyện sức khỏe trong nhân dân. Cụ thể như ở Phường Thanh Khê Đơng
tính đến năm 2013 đã cho xây dựng 5 cơng trình cơng cộng; Thơng qua phong trào
“Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Năm qua, phường Thọ Quang đã
thực hiện có hiệu quả các nội dung giúp nhau giảm nghèo, tương thân, tương ái, xây
dựng đời sống văn hố, văn minh đơ thị trong việc cưới, việc tang, việc cúng,... Qua
phong trào này, tồn phường có 5.986 hộ đạt gia đình văn hố, chiếm 88,9% và 134
tổ dân phố đạt “Tổ dân phố văn hoá”, chiếm hơn 65.04%, trong đó có 31 tổ dân phố
đạt danh hiệu tổ dân phố văn hoá 2 năm liền, 04 tổ dân phố đạt danh hiệu trong 5
năm liền,...
Đồng thời, các cấp chính quyền ln quan tâm, theo dõi, đi sâu vào quần
chúng nhân dân để tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng cũng như giải đáp thắc mắc cho
người dân.
Thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân hàng ngày, và chế độ tiếp dân định kỳ
của Ủy ban nhân dân quận qua đó xem xét, giải quyết các vấn đề cấp thiết của
người dân. Trong năm 2014 phường Thanh Khê Đông đã tiếp 507 lượt công dân,
chủ tịch Ủy ban nhân dân tiếp 193 lượt; giải quyết 187/204 đơn các loại thuộc thẩm
quyền.
Với các tiềm năng, thế mạnh sẵn có, cùng với sự phát triển về kinh tế, ổn
định về xã hội thì hiện nay đời sống của cư dân ven biển Đà Nẵng ngày càng ổn
định và phát triển hơn trước. Khơng cịn tình trạng dân kêu đói, kêu khổ, con em
từng hộ gia đình đều được học hành đến nơi đến chốn,… Đây là những bước đệm
vững chắc để họ bảo tồn và phát triển đời sống tinh thần của làng quê mình.

14


1.1.3. Đời sống văn hóa và dân cư
Đà Nẵng là thành phố trẻ được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, nơi
từng được coi là một trung tâm kinh tế, chính trị lớn của nước Đại Việt, có nền kinh
tế phát triển, cho nên những người sống trên mảnh đất này họ đã sống và chiến đấu,

cùng nhau đoàn kết chống lại thiên tai, chống kẻ thù, hình thành nên một quần cư
lớn và nền văn hóa xứ Quảng là tinh hoa của quần cư này. Theo đó, Đà Nẵng cũng
mang những đặc trưng văn hóa của vùng đất nơi đây. Mặt khác, đây là nơi đầu tiên
bị liên quân Pháp và Tây Ban Nha đổ bộ mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam vào năm
1858, cũng là địa phương đầu tiên bị quân viễn chinh Mỹ đổ bộ mở đầu cuộc xâm
lược Việt Nam vào năm 1965. Đồng thời, với vị trí thuận lợi lại có hải cảng quốc tế,
Đà Nẵng có điều kiện tiếp xúc, tiếp nhận các giá trị văn hóa từ bên ngồi hịa vào
dịng văn hóa bản địa tạo nên một vùng văn hóa đặc sắc, mang đặc trưng của thành
phố Đà Nẵng. Nam Ô, Mỹ Khê, Thanh Khê,… là những làng đánh cá thuộc thành
phố trẻ bởi vậy chúng cũng mang những nét văn hóa tiêu biểu của nơi đây. Diện
mạo tín ngưỡng của cư dân ven biển là biểu hiện của tín ngưỡng đa thần.
Ngư dân ven biển Đà Nẵng có một vốn văn hóa dân gian vơ cùng phong phú.
Vốn văn hóa đó được họ mang từ quê cha, đất tổ là vùng Thanh Hóa, Nghệ An,…
vào vùng đất mới này. Tại đây, trong quá trình lao động sản xuất, họ đã cải biên và
sáng tạo ra những nét mới, điển hình là trong các câu hị, điệu lý, trong các làn điệu
dân ca, đặc biệt là các câu ca dao, tục ngữ đã phản ánh khá rõ nét đời sống lao động
cũng như những tâm tư tình cảm của họ. Sống cùng biển, ăn cùng biển, thậm chí
chết vùi trong biển nên những ứng xử của họ trước thiên nhiên cũng trở thành một
kinh nghiệm sống. Họ nhìn trời, nhìn sao, nhìn trăng, nhìn chim trên biển, nhìn
hướng gió,… cũng đốn biết trước được chuyến đi ra biển đó có đánh bắt được
khơng.
Nét đặc sắc khơng thể bỏ qua khi nhắc tới văn hóa cư dân ven biển Đà Nẵng
đó chính là về đời sống tín ngưỡng. Chính bởi có quan hệ mật thiết với hai đối
tượng là đất và biển nên các thiết chế tín ngưỡng cũng như phương thức biểu hiện
tín ngưỡng ở các làng là tương đối thống nhất. Hầu hết các làng biển đều có: đình,
lăng, miếu, nhà thờ, dinh thờ,… Căn cứ vào các cơ sở thờ cúng hiện tồn và các bài
văn tế phổ biến ở các làng biển có thể khai thác các tín ngưỡng truyền thống của

15



cộng đồng cư dân ven biển bao gồm các vị thần như Thần Hoàng bổn xứ, Bạch Mã
Thái Giám, thần Nam Hải Ngọc Lân… bên cạnh đó cịn có thờ Tiền hiền và Hậu
hiện, thờ Cô hồn/Cô bác, thờ vật linh… Tất cả đều được cư dân ven biển gìn giữ và
bảo tồn cho đến ngày nay.
Một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng cộng đồng cư dân ven biển Đà Nẵng
nữa là chịu ảnh hưởng mạnh của Phật giáo. Tư tưởng phật giáo đã ăn sâu vào nếp
sống cư dân, giữ vai trị quan trọng trong sinh hoạt tơn giáo tín ngưỡng, bởi vậy có
nhiều ngơi chùa ven biển được xây dựng nên ở Nam Ô, Thanh Khê,… Tuy nhiên
những ngôi chùa này thường chỉ được coi là chùa làng, khơng thuộc giáo hội Phật
giáo, khơng có sư trụ trì mà chỉ có đạo hữu - là những người đàn ơng tu tại gia quản
lí, tham gia thực hiện các lễ thức mỗi ghi cần thiết.
Ở phạm vi gia đình, tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng cũng khá đa
dạng. các đối tượng phổ biến được thờ cúng trong gia đình như: Tam vị Táo Quân,
tổ nghề, Ngũ tự gia đường, cơ hồn, tổ tiên… trong đó trọng tâm vẫn là thờ Tổ tiên.
Bên cạnh các tín ngưỡng thì các nghi thức sinh hoạt truyền thống như tết
Nguyên Đán, tết Đoan Ngọ, tết Thanh Minh,... Nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian
như hát bả trạo, văn nghệ, trị chơi dân gian,… là hoạt động văn hóa tinh thần của
cư dân nơi đây. Ngoài ra, lễ hội đình làng, ngư ơng cũng được người dân nơi đây tổ
chức thường xuyên mỗi năm. Nhờ vậy, nét đẹp văn hóa được giữ gìn, cộng đồng cư
dân được cố kết, cuộc sống thêm phần yên vui, mang đậm nghĩa tình. Ngồi văn
hóa tinh thần, đời sống văn hóa vật chất của cư dân ven biển cũng đa dạng với nhiều
đặc sản đậm chất địa phương như mỳ Quảng, nước mắm, tré … và một số sản phẩm
hải sản tươi ngon như mực, cá, tơm,… Chính những giá trị văn hóa về vật chất, tinh
thần tạo nên văn hóa đặc trưng địa phương, định hình bản sắc văn hóa nơi đây, góp
phần xây dựng nền văn hố tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với mỗi vùng đất thì dân cư là một phần không thể thiếu, họ là chủ nhân
của những nền văn hóa, những sáng tạo nghệ thuật,… Những cư dân đầu tiên sinh
sống trên địa bàn các làng như Nam Ô, Thanh Khê, Mân Thái,… ngày nay là chủ
nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh, kế tiếp là những cư dân của vương quốc Chămpa.

Trước thế kỷ XV, cư dân vùng Đà Nẵng chủ yếu là người Chăm. Năm 192, nước
Lâm Ấp của người Chăm được thành lập, đến thế kỷ XVI gọi là Chămpa, Đà Nẵng

16


- Quảng Nam là trung tâm của vùng đất này. Chămpa được xây dựng, phát triển về
mọi mặt, dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông ở đồng bằng, ven biển. Họ là những
người sáng tạo ra nền văn hóa rực rỡ để đến khi cư dân người Việt di cư vào đây
sinh sống, họ đã bắt gặp, tiếp xúc và ảnh hưởng để pha trộn, góp phần xây dựng nền
văn hóa Đại Việt. Lớp cư dân người Việt, từ các vùng quê khách nhau ở vùng đất
Bắc di cư đến vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng là vào khoảng thế kỉ XV, thời vua
Hồ Quý Ly khi phần đất Chiêm Động và Cổ Loa của Chăm pa được sát nhập vào
Đại Việt. Lúc bấy giờ số dân di cư tới đây chiếm một số lượng khá lớn, đến cuối thế
kỷ XV khi vua Lê Thánh Tơng thì số lượng dân di cư tới đây ngày một đông đảo và
định cư chủ yếu ở ven biển. Trong quá trình tiếp nhận các cuộc di dân từ thời Lê
Thánh Tông đến các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, các làng xã được thành lập ngày
một đông đúc, đặc biệt là vùng ven sông Hàn và vùng ven biển Đà Nẵng. Cư dân ở
đây ngoài các vạn chài thường thấy ở ven biển, cửa sông sống bằng nghề đánh bắt
hải sản và cư dân sống bằng nghề nơng, cịn có một số bộ phận cư dân sống bằng
nghề thủ công và buôn bán.
1.2. Khái qt chung về tín ngƣỡng thờ cúng cơ hồn ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng, Cơ hồn
1.2.1.1. Tín ngưỡng
Khi bàn đến tín ngưỡng người ta đồng thời bàn đến tơn giáo. Có người cho
rằng tín ngưỡng với tơn giáo là một. Có người coi tín ngưỡng là cái nền của tôn
giáo, một yếu tố cấu thành của tơn giáo. Có người coi như chỉ có tơn giáo khơng có
tín ngưỡng. Có người coi tín ngưỡng là cấp thấp của tơn giáo. Do đó, xung quanh
khái niệm tín ngưỡng có nhiều ý kiến khác nhau.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “Lịng tin và sự tơn thờ một tơn

giáo” [38, tr.1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tơn giáo. Theo giải thích
của Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “Lịng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo
hoặc một chủ nghĩa” [2, tr.76]. Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín
ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu
nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái
“trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin,
nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm

17


tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên
đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội
tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [29, tr.34].
Như vậy, có thể hiểu một cách nơm na, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng
mộ đối với một đối tượng siêu nhiên nào đó có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống
sinh hoạt của con người. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hố do con người quan
hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín ngưỡng là niềm tin về
những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người chỉ cảm
nhận được mà khó có thể nhận thức được.
1.2.1.2. Cô hồn
Cô Hồn/Cô Bác là cách gọi phổ biến của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà
Nẵng dành cho các vong hồn/vong linh bất hạnh, những người lúc sống có thân
phận khơng may, thác đi thì vong linh phiêu dạt, khơng ai hương khói thờ cúng.
Theo quan niệm truyền thống của người Việt thì “Cơ hồn là hồn của người
chết khơng có họ hàng thân thiết thờ cúng” [22, tr. 196]. Đạo Phật thì lại quan niệm
“Cơ hồn gồm mười lồi của tứ sanh và lục đạo, gọi là thập loại cơ hồn. Đó là một
cộng đồng vong hồn gồm đủ loài từ vua quan đến thứ dân, từ giàu sang đến nghèo
hèn, từ con người đến cơn trùng thú vật” [28, tr.138]. Cịn trong cuốn Tín ngưỡng
cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, Hồ Xn Hương có đề cập đến Cơ hồn

theo quan niệm của cư dân ven biển Đà Nẵng: “Hơi khác với quan niệm của đạo
Phật, quan điểm của cư dân ven biển Đà Nẵng vừa mang nội dung truyền thống,
vừa có ý nghĩa mới. Theo đó, thập loại Cơ hồn chỉ có “lồi người”, gồm các dạng
chủ yếu như: Vong hồn có cái chết khơng bình thường - chết bất đắc kỳ tử, vong
hồn người chết mất xác trên biển, vong hồn các chiến sĩ vong trận và vong hồn “
Tiền chủ” của vùng đất “tiền Việt”…” [16, tr.130].
Bản chất của việc thờ cúng Cô hồn là biểu hiện của tình u thương tơn q
con người, đồng thời muốn phản ánh nguyện vọng của dân muốn Cô hồn phù hộ để
cuộc sống được an lành no đủ.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển
Tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn là một trong những tín ngưỡng truyền thống có
từ bao đời nay của nhân dân ta và đã trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng khơng

18


thể thiếu đăc biệt đối với dân cư ven biển. Nhưng cho đến nay vẫn khơng có một tài
liệu chính thống nào cho biết rõ ngọn nguồn của việc thờ cúng cơ hồn xuất hiện cụ
thể ở thời gian nào
Nói về tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn, nhà nghiên cứu Nguyễn Lang trong
cơng trình Việt Nam Phật giáo sử luận viết: “Lễ siêu độ Ngạ quỷ, Cơ hồn có nguồn
gốc từ Ấn Độ được truyền sang và thịnh hành ở Trung Hoa vào đời Đường do ngài
bất Không Kim cang (amogha), cịn gọi là bất Khơng Tam Tạng, người bắc ấn Độ,
một truyền nhân nổi tiếng của mật giáo (Kim Cang Thừa - Vajrayana) hoằng
hóa.”[20, tr.466].
Tuy nhiên, với Phật giáo thì cho rằng việc siêu độ Cơ hồn có thể phát xuất từ
đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du,
lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo. Qua đời Tống, ngài Bất
Khinh Tam Tạng chuyên tu Mật Giáo ở Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, cho biết các Cơ
hồn đang vất vưởng, địi hỏi những nhu cầu cần thiết, nên Ngài vận dụng pháp lực

để cung ứng và siêu độ cho họ. Pháp sư đã gom tập Kinh “Du Già Diệm Khẩu” với
các Bộ trong Mật Tông, biên soạn thành Nghi “Mơng Sơn Thí Thực”. Nhân đó
Tịng Lâm, chùa, miếu ở các phương đã dùng làm Thời Khóa chiều tối, dùng trong
ngày và bốn Chúng Đệ Tử đều có thể hành Nghi Thức này.
Tại Việt Nam, theo Đại Việt sử ký tồn thư thì: “Pháp Trai đàn thí thực Âm
linh/ Cô hồn được du nhập từ Trung Quốc vào năm 1302 (thời Trần) do một đạo sĩ
tên Hứa Tông Đạo. Năm 1320, ngài Pháp Loa đã tổ chức Đại trai đàn chẩn tế ở
chùa Phổ Ninh” [20, tr.167]. Có thể nói, pháp Trai đàn chẩn tế thí thực Âm linh/Cô
hồn được bắt đầu từ đời Trần và duy trì đến hiện nay.
Như vậy, cho đến nay xung quanh vấn đề nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Cơ
hồn vẫn còn rất nhiều luồng ý kiến và tranh cãi khác nhau, chưa có một kết luận cụ
thể nào có thể chọn làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu lịch sử tín ngưỡng này.
1.3. Vai trị, ý nghĩa của tín ngƣỡng thờ cúng Cơ hồn ở Việt Nam
Tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn là một nét đẹp trong văn hố cộng đồng của
người dân Việt Nam. Vai trò lớn nhất của cúng Cô hồn là lưu giữ thuần phong mỹ
tục, giáo dục đạo lý con người cho toàn thể nhân dân ta, trên hết là cho các thế hệ
cháu con - thế hệ tương lai của đất nước, có vai trò quyết định trong việc phát triển

19


và gìn giữ nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu
niên biết cách sống, biết đối nhân xử thế, hướng về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
ngàn đời của dân tộc ta, từ đó mỗi người sẽ tự sống theo chuẩn mực đạo đức của xã
hội, ngày càng khẳng định và hoàn thiện mình.
Tín ngưỡng thờ cúng Cơ hồn trong đời sống tâm linh của người Việt không
những là một nhu cầu, mà dường như là một chỗ dựa tinh thần vững chắc giúp con
người ta hướng tới sống lương thiện hơn, tốt đẹp hơn, thể hiện là sự khát khao của
người dân về chân lý, về cái hoàn mỹ và hạnh phúc vĩnh hằng. Bên cạnh đó, tín
ngưỡng thờ cúng Cơ hồn cịn thể hiện tính nâng đỡ tinh thần qua sự tương thân

tương ái, yêu thương lẫn nhau của con người trong các mối quan hệ, thể hiện lòng
biết ơn đối với những thế hệ đi trước, những người đã hi sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, bảo vệ cuộc sống ấm no hạnh phúc cho họ như đối với những chiến
sĩ trận vong, hay với những người thân trong gia đình chết mà chưa tìm được,…
Việc thờ cúng Cơ hồn tại làng xóm cịn là dịp để bà con trong xóm, trong
ngõ có dịp được ngồi lại với nhau, cùng bàn luận về tín ngưỡng, về làng xóm và tất
cả các công việc thường nhật để mọi người hiểu nhau hơn và tăng tính đồn kết
trong nhân dân. Bên cạnh đó, sau khi hồn thành những nghi lễ thờ cúng Cơ hồn,
mọi người có thể ngồi lại với nhau, chia sẻ với nhau các lễ vật, sản vật từ lịng thành
của tồn thể con em trong làng, xóm. Đồng thời cầu xin sự an lành, may mắn, mùa
màng bội thu, gia đình hạnh phúc, mọi người yêu thương nhau hơn để tính cố kết
cộng đồng trở nên bền vững và hiệu quả nhất.
Ngồi ra, việc thờ cúng cơ hồn còn tạo ra sự kết nối quá khứ - hiện tại tương lai. Những con người trong quá khứ đã tạo dựng một phần của thực tại nhờ
những đóng góp của mình để từ đó mới có hiện tại và sẽ xuất hiện tương lai tươi
mới cho các thế hệ con cháu sau này. Thờ cúng Cơ hồn có sức lan truyền mạnh mẽ,
tạo ra những cảm xúc, rung động thiêng liêng và do đó, có tác dụng tập hợp, đồn
kết, gắn bó con người một cách có hiệu quả. Đối với mỗi gia đình, bên cạnh bàn thờ
tổ tiên, thì một mâm cúng cơ hồn cũng là biểu tượng hết sức thiêng liêng, có sức
mạnh lơi cuốn các thành viên quây quần, đoàn tụ để tưởng nhớ về cội nguồn, duy trì
những giá trị truyền thống nhằm chuyển giao cho các thế hệ mai sau.

20


CHƢƠNG 2: TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CƠ HỒN TRUYỀN
THỐNG Ở CÁC LÀNG ĐÁNH CÁ VEN BIỂN ĐÀ NẴNG
2.1. Quan niệm của cƣ dân ven biển Đà Nẵng về Cô hồn và thờ cúng Cô hồn
Sau khi phát phiếu khảo sát tín ngưỡng Cơ hồn tại các hộ gia đình ở làng
Thanh Khê, Mân Quang, Nam Ô đã thu được kết quả vơ cùng khả quan. Trong 50
phiếu phát ra thì 100% số phiếu đều theo tín ngưỡng thờ Cơ hồn từ bao đời nay.

Chứng tỏ rằng, từ xa xưa, thờ cúng Cơ hồn là một trong những tín ngưỡng truyền
thống của cư dân ven biển Đà Nẵng. Đó là cách ứng xử với người chết có số phận
bất hạnh, qua đó biểu thị sự tơn q của tính mạng con người và đồng thời thể hiện
tình yêu thương con người.
Trong khi đi điền dã, tôi đã hỏi thăm nhiều người tại các làng đánh cá ven
biển Đà Nẵng về tín ngưỡng Cô hồn. Theo ông Hồ Ngân - Tư lễ ở làng Thanh Khê
cho biết: “Ở làng này, Cô hồn thường được mọi người dùng để chỉ những người
chết trên biển, không rõ họ hàng thân thiết”; hay ông Lê Vinh - phụ trách trơng coi
các di tích ở làng Nam Ơ cũng cho biết: “Tơi hay người dân Nam Ô xưa nay đều
quan niệm Cô hồn là những người chết khơng có chỗ lưu thân, phiêu bạt mọi nơi và
họ có thể phù hộ cho người làng Nam Ơ khi đi biển nếu họ có lịng thành”.
Như vậy, theo quan niệm của dân biển Đà Nẵng, Cô hồn là người chết khơng
có họ hàng thân thích thờ cúng, chết khơng bình thường, gọi chung là bất đắc kỳ tử,
thường vào giờ thiêng, nên có năng lực, quyền uy, chi phối dáng kể cuộc sống của
cộng đồng và nghề biển. Cơ hồn/Cơ bác là lực lượng có năng lực và quyền uy chi
phối đáng kể đến cuộc sống cộng đồng và nghề biển. Vì vậy, phải thờ phụng chu
đáo dể cầu mong sự phù hộ, chở che. Quan niệm Cô hồn của cư dân ven biển Đà
Nẵng vừa mang nội dung truyền thống, vừa có thêm ý nghĩa mới. Biểu hiện ở chỗ,
thập loại Cơ hồn chỉ có lồi người gồm các dạng chủ yếu như: Vong hồn có cái hết
bất bình thường hay cịn gọi là cái hết khơng rõ nguồn gốc, vong hồn có cái chết
mất xác trên biển, vong hồn chiến sĩ vong trận, vong hồn tiền chủ của vùng đất tiền
Việt. Dân biển suy tôn các dạng vong hồn này là “Âm linh” hay gọi thân mật hơn là
Cơ hồn/Cơ bác. Chính vì vậy mà cư dân ven biển có câu: “Ngồi biển có lịnh Ơng
ủng hộ/Trong bờ nhờ Cơ bác phị trì”. Theo tác giả Nguyễn Xuân Hương trong

21


×