VĂN HÓA – BIẾN SỐ QUAN TRỌNG
TRONG NGHIÊN CỨU QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền∗
Bài viết tổng hợp các quan điểm về khái niệm văn hóa, quan hệ công chúng và mối quan hệ
của hai lĩnh vực này từ góc nhìn tổ chức và truyền thơng. Khẳng định sự cần thiết phải coi văn
hóa như một biến số quan trọng trong nghiên cứu về quan hệ công chúng, tác giả giới thiệu các
chiều kích của văn hóa mà các nghiên cứu trước đây đã đề ra, kèm theo dẫn chứng phân tích từ
các ví dụ điển hình.
1. Mối quan hệ giữa văn hóa và quan hệ cơng chúng từ góc nhìn tổ chức và truyền thơng
Hầu hết các nghiên cứu về văn hóa đều bắt đầu từ việc khẳng định rằng có rất nhiều quan
niệm, cách hiểu khác nhau về văn hóa. Đối với lĩnh vực quan hệ cơng chúng cũng vậy. Các học
giả về văn hóa và quan hệ công chúng đã tốn khá nhiều công sức để thống kê, phân loại và đi tìm
cách hiểu chung về các khái niệm liên quan. Sự đa dạng và thiếu thống nhất trong các định nghĩa
về cả hai lĩnh vực trên cũng đã nói lên phần nào về mối quan hệ hịa quyện, gắn kết giữa văn hóa
và quan hệ
công chúng.
Từ định nghĩa đầu tiên của Edward Tylor năm 1871, khi ơng cho rằng văn hóa là “một chỉnh
thể phức hợp bao gồm các kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, phong tục, và các năng lực,
thói quen khác mà một con người tạo ra trong xã hội”1, đến năm 1952, Kroeber và Kluckhohn đã
đưa ra danh sách 164 định nghĩa khác nhau của các học giả cho khái niệm này. Khái niệm văn
hóa, theo các tác giả, “là tập hợp các thuộc tính giá trị và là sản phẩm của xã hội lồi người, và do
vậy, nó được truyền từ đời này qua đời khác bằng các hình thức phi sinh học”2. Từ đó đến nay,
các nhà nghiên cứu ở khắp nơi trên thế giới vẫn không ngừng đưa ra các định nghĩa mới về văn
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN
Tylor, Primitive culture, London: John Murray, p.1.
2
Kroeber, A.L. và Kluckhohn, C. (1952). Culture: A critical review of concepts and definitions. Cambridge, MA: Harvard
University Press, p.145.
∗
1
hóa, cũng như tiếp tục thống kê và phân loại chúng. Chẳng hạn, Garbarino (1977) đã phân loại các
định nghĩa về văn hóa thành 2 nhóm theo chủ nghĩa thực tế, và chủ nghĩa lý tưởng. Kế thừa quan
điểm này, Sathe (1983) suy ra rằng có 2 phương pháp tư duy khi bàn về văn hóa, xuất phát từ góc
độ tiếp cận chủ quan hay khách quan của con người. Một cách khách quan, các quan điểm về văn
hóa cho rằng văn hóa là những biểu hiện của hành vi, lời nói, nghi lễ, và các yếu tố khác… mà
người ta có thể quan sát được. Ngược lại, một cách chủ quan, các quan điểm về văn hóa chia sẻ
điểm chung rằng văn hóa là những ý tưởng về các giá trị và hình thái xã hội của chủ thể văn hóa,
có thể suy diễn được3. Cả hai góc nhìn này đều quan trọng đối với các nhà quản lý tổ chức trong
việc giảm thiểu các xung đột văn hóa, các yếu tố tiêu cực của nó, cũng như phát triển các giá trị
văn hóa có lợi cho sự phát triển chung của tổ chức.
Vai trò và tác động của yếu tố văn hóa đối với truyền thơng được các học giả nghiên cứu từ
giữa thế kỷ XX, nhưng vào những năm 1970, văn hóa trong tổ chức (organizational culture) mới
được đề cập nhiều trong lý luận của ngành tổ chức học (organizational studies). Với góc nhìn văn
hóa, hoạt động của các doanh nghiệp khơng chỉ gồm những toan tính về lợi ích vật chất trước mắt,
mà nhân tố văn hóa - “sức mạnh mềm” của tổ chức đã góp phần giúp nhiều thương hiệu trở nên
đắt giá hơn trong mắt người tiêu dùng4. Áp dụng yếu tố văn hóa trong hoạt động doanh nghiệp,
các nhà quản trị từng bước triển khai việc xây dựng tổ chức theo ý tưởng coi tổ chức cũng có
những đặc tính và phong cách văn hóa như một con người, một cơng dân trong xã hội.
Là một trong những cơng cụ hữu hiệu góp phần giúp một tổ chức thiết lập, duy trì, phát triển
mối quan hệ với đơng đảo cơng chúng có liên quan, quan hệ công chúng là một biến số với các
thành tố và chiều kích có thể đo lường được, tác động lên văn hóa của một tổ chức. Ngược lại,
hoạt động quan hệ công chúng cũng bị chi phối mạnh bởi yếu tố văn hóa. Văn hóa và quan hệ
cơng chúng tuy hai mà một, hịa quyện, đan xen, kiến tạo lẫn nhau. Điều này đã được thể hiện khá
rõ ngay trong rất nhiều định nghĩa về quan hệ cơng chúng từ trước tới nay.
Cũng như văn hóa, có rất nhiều quan niệm khác nhau về quan hệ công chúng. Kể từ khi
thuật ngữ này được hình thành bởi Hiệp hội đường sắt Hoa Kỳ (1897), đến giữa thế kỷ trước, nhà
3
4
Sathe, V. (1983). Implication of corporate culture: A manager’s guide to action. Organizational Dynamics, Autumn, p.5-23.
Jelinek và cộng sự (1983), Introduction: A code of many colors. Administratic Science Quarterly, 28, 331-338.
sử học Robert Heilbroner đã phải thốt lên: “Có hàng trăm ngàn định nghĩa khác nhau về quan hệ
công chúng. Trong đó, xương sống của chúng là nghề quan hệ cơng chúng. Cịn nỗi khổ chung
của chúng ta là khơng có đến hai định nghĩa tương đối nhất trí với nhau về việc quan hệ cơng
chúng là gì”5. Chính vì sự thiếu nhất quán trong cách hiểu về quan hệ công chúng như vậy, các
học giả trong ngành đã liên tục nỗ lực tập hợp, phân tích các định nghĩa để tìm ra tiếng nói chung.
Năm 1975, dưới sự tài trợ của Quỹ nghiên cứu và giáo dục Quan hệ công chúng Mỹ, 65 chuyên
gia đã tổng hợp từ 472 định nghĩa khác nhau về quan hệ công chúng để tạo nên một định nghĩa
dài 88 từ bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, chỉ sau đó 3 năm, năm 1978, tại cuộc họp của đại hội đồng
quan hệ công chúng thế giới tổ chức ở Mexico City, 34 tổ chức quốc gia về quan hệ công chúng
lại một lần nữa cố gắng đưa ra một định nghĩa hiện đại hơn. Từ đó đến nay, đã có thêm rất nhiều
định nghĩa khác về quan hệ công chúng. Theo nhận xét của Dennis l. Wilcox và cộng sự, định
nghĩa tốt nhất cho các nhà thực hành quan hệ công chúng hiện đại được đưa ra bởi giáo sư
Lawrence W. Long và Vincent Hazelton, những người miêu tả quan hệ công chúng là “chức năng
truyền thông trong hoạt động quản lý mà thông qua đó các tổ chức thích ứng, điều chỉnh, hoặc
duy trì mơi trường của mình nhằm đạt được các mục đích của tổ chức”6. Định nghĩa này nhấn
mạnh khả năng liên kết của quan hệ công chúng nhờ chức năng truyền thơng của nó để tác động
vào mơi trường hoạt động của tổ chức – cũng chính là mơi trường truyền thơng hay mơi trường
văn hóa. Trong các định nghĩa khác, những từ khóa mà các tác giả sử dụng nhiều lần gồm: truyền
thông, tổ chức. Như vậy, hoạt động quan hệ cơng chúng gắn bó với các tổ chức như một mơi
trường chung, trong đó tất yếu phải chứa đựng yếu tố văn hóa.
Như đã đề cập ở trên, hầu hết các nhà nghiên cứu truyền thông từ thế kỷ trước đều nhận định
rằng văn hóa và truyền thơng có mối quan hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau rất mật thiết. Trong
khi đó, phần lớn các định nghĩa về quan hệ cơng chúng đều ghi nhận vai trị của truyền thơng
trong việc tạo dựng, duy trì, phát triển mối quan hệ giữa tổ chức và công chúng của nó – những
hoạt động cơ bản nhất của quan hệ cơng chúng. Vì thế, quan hệ cơng chúng, mặc dù có tính độc
lập tương đối của nó, được coi là một lĩnh vực cơ bản của truyền thông. Hệ quả là, quan hệ công
chúng cũng đồng thời gây tác động và bị ảnh hưởng rõ rệt bởi yếu tố văn hóa.
5
6
Dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, Luận văn thạc sỹ ngành Báo chí học, Trường ĐH KHXH và NV, Hà Nội (2001).
Dẫn theo Dennis L. Wilcox và cộng sự, Public Relations Strategies and Tactics, 7th ed., Peason Education, Inc. 2003, p.4
Mặc dù suy luận logic như trên nghe rất đơn giản và dễ chấp nhận, nhưng trên thực tế, các
nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa văn hóa và quan hệ công chúng cũng mới chỉ được tiến hành
từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX7. Trước đó, hầu hết các nghiên cứu về quan hệ công chúng chỉ
chú trọng vào việc triển khai những phương thức hoạt động quan hệ công chúng đang thịnh hành
trong các xã hội phương Tây hoặc các công ty đa quốc gia vào các nền văn hóa hoặc các nước
khác. Những khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia hầu như không được lưu ý đúng mức khi
triển khai các chương trình quan hệ cơng chúng8.
Vai trị của văn hóa trong hoạt động quan hệ công chúng được nhắc đến những lần đầu tiên
qua các nghiên cứu của Sriramesh (1992)9. Ông vốn là một nghiên cứu sinh gốc Ấn của trường
đại học danh tiếng hàng đầu thế giới về ngành quan hệ cơng chúng là Maryland University (Mỹ).
Sau đó, theo trào lưu phát triển chung, ngày càng có nhiều sinh viên, học giả người châu Á đến
Mỹ để học và nghiên cứu về quan hệ công chúng bày tỏ mối quan tâm sâu sắc đến yếu tố văn hóa
trong hoạt động truyền thông và quan hệ công chúng của một tổ chức và quốc gia10. Khởi đầu
bằng những nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố văn hóa trong quan hệ cơng chúng ở các nước châu Á
như Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc…., dần dần, bức tranh về quan hệ công chúng thế
giới với những nét khác biệt do đặc tính văn hóa chi phối đã mở rộng ra các châu lục khác. Với
các nỗ lực liên tục của giới chuyên môn, đến nay, hầu như các nghiên cứu đều mặc nhiên thừa
nhận vai trò và tác động của văn hóa lên hoạt động quan hệ cơng chúng. Các cơng ty đa quốc gia
khi triển khai các chương trình quan hệ công chúng ở các vùng đất khác nhau đều xét đến yếu tố
văn hóa bản địa, và nhấn mạnh vai trị của nó như một trong những nhân tố quan trọng trong việc
quyết định triển khai cũng như đánh giá kết quả của chương trình. Xu hướng tồn cầu hóa
(globalization) đang diễn ra mạnh mẽ vẫn khơng ngừng bị thách thức bởi các giá trị văn hóa. Bản
sắc văn hóa của các quốc gia như những liều vắc-xin giúp tạo ra sức đề kháng cho căn tính và
7
Sriramesh K. chủ biên (2004), Public Relations in Asia: An Anthology, Thomson, p.12.
Culbertson chủ biên (1996), International Public Relations A comparative Analysis, Lawrence Erlbraum Associates, Mahwah,
New Jersey, tr.2
9
Sriramesh, K. và White, J. (1992). Societal culture and public relations, in trong J.E.Grunig (chủ biên), Excellence in public
relations and communication management: Contribution to effective organizations, p. 597-614), Hillsdale, NJ: Lawrence
Erlbraum Associates.
Sriramesh, K. và Grunig, J.E, và Buffington, J. (1992). Corporate culture and public relations, in trong J.E.Grunig (chủ biên),
Excellence in public relations and communication management: Contribution to effective organizations, p. 577-595), Hillsdale,
NJ: Lawrence Erlbraum Associates.
10
Sriramesh K. chủ biên (2004), Public Relations Practice and Research in Asia, Thomson, p.12.
8
phong cách của quốc gia trước những cơn sóng lấn át của sự giao lưu quốc tế. Do đó, các hoạt
động quan hệ cơng chúng chỉ có thể thành cơng khi tính đếm đến cả hai trường tác động của văn
hóa, đó là tồn cầu hóa, và cả địa phương hóa (localization).
2. Các chiều kích của văn hóa từ góc nhìn quan hệ cơng chúng
Theo mơ hình nghiên cứu quan hệ cơng chúng quốc tế của Sriramesh11, văn hóa đã trở thành
một trong 3 biến số quan trọng nhất để nghiên cứu về quan hệ công chúng quốc tế (International
Public Relations) - một chuyên ngành hẹp của nghiên cứu quan hệ cơng chúng, chun đi sâu tìm
hiểu sự ra đời, phát triển, phong cách và bản sắc của quan hệ công chúng các nước và các tổ chức
quốc tế. Các biến số còn lại là cơ sở hạ tầng quốc gia (bao gồm các nhân tố: hệ thống chính trị, sự
phát triển kinh tế, phong trào hoạt động chính trị xã hội – activism, nền tảng pháp lý), và truyền
thông (gồm các nhân tố: sự phát triển của truyền thông đại chúng; sự kiểm sốt/ quản lý hoạt động
truyền thơng; mức độ tác động của hoạt động truyền thông trong cộng đồng; mức độ chủ động
tiếp cận và sử dụng các phương tiện truyền thơng).
Bàn về các chiều kích (dimension) của văn hóa như một biến số để nghiên cứu quan hệ công
chúng quốc tế, Sriramesh cho rằng cần kết hợp nhiều góc nhìn chung về văn hóa, như văn hóa xã
hội (societal culture), văn hóa tổ chức/ doanh nghiệp (corporate culture), và cả những nét đặc
trưng của các nền văn hóa khác nhau. Sriramesh cho rằng, văn hóa xã hội và văn hóa tổ chức là
hai khái niệm tách biệt, cho dù văn hóa xã hội có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa tổ chức. Bởi lẽ các
tổ chức trong cùng một xã hội vẫn có thể được phân biệt với nhau bởi đặc tính văn hóa riêng có,
dựa trên các nhân tố tác động như lãnh đạo, tuổi, loại hình, quy mơ… Văn hóa tổ chức có thể
nhận diện được, cảm nhận được và một người có thể đánh giá hoạt động của một tổ chức cũng
như mối quan hệ giữa tổ chức và các nhóm cơng chúng của nó thơng qua việc tìm hiểu văn hóa
của tổ chức. Theo đó, biến số văn hóa mà Sriramesh đề xuất gồm các chiều kích của văn hóa xã
hội mà Hofstede (2001)12 nêu ra, kết hợp với những chiều kích của văn hóa tổ chức và những đặc
trưng văn hóa riêng có của đối tượng khảo sát. Cụ thể, Sriramesh đề ra 8 chiều kích để đánh giá
11
Sriramesh K. chủ biên (2004), Public Relations Practice and Research in Asia, Thomson, p.1-28
Gồm 5 chiều kích: khoảng cách quyền lực trong xã hội, tính cộng đồng, giới, sự ứng phó với tình huống biến đổi, và định
hướng lâu dài. Hofstede, G. (2001), Culture consequences: Comparing values, behaviors, institutions, and organizations across
nations, 2nd ed., Thousand Oaks, CA: Sage.
12
ảnh hưởng của văn hóa đối với hoạt động quan hệ công chúng trong một tổ chức hoặc một quốc
gia như sau:
1.
Sự phân hóa giai tầng xã hội (stratification): Chỉ mức độ phân hóa giai tầng trong xã hội và sự
ảnh hưởng của nó lên hoạt động của tổ chức. Hệ thống giai tầng trong xã hội Ấn Độ là một ví
dụ điển hình của khoảng cách quyền lực xã hội. Trong đó, các giai tầng thấp hơn có xu hướng
phục tùng giai tầng cao hơn, và điều đó chi phối mạnh mẽ môi trường truyền thông trong nội
bộ cũng như đối ngoại của tổ chức.
2.
Sự biến đổi (uncertainty): Chỉ mức độ đối ứng với các tình huống có sự thay đổi, sự thiếu rõ
ràng, minh định, … của một nền văn hóa. Điều này ảnh hưởng trực tiếp lên truyền thơng.
Chẳng hạn, có những nền văn hóa ngữ nghĩa nằm ngay trong thơng điệp (nói thẳng), nhưng
cũng có những nền văn hóa ngữ nghĩa cịn phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh mà thơng điệp đó
được phát ra (nói vòng).
3.
Giới (gender): Mức độ và vai trò của giới trong việc khẳng định và phát huy vai trò của tổ
chức trong xã hội, ảnh hưởng của giới lên hoạt động quan hệ
4.
cơng chúng.
Tính cộng đồng (collectivism): Chỉ mức độ quan trọng của lợi ích cộng đồng so với lợi ích cá
nhân. Chẳng hạn, ở các nền văn hóa Á đơng, lợi ích của tập thể ln được đề cao so với lợi
ích cá nhân. Tập thể chăm lo cho từng cá nhân, và cá nhân có trách nhiệm phục tùng tập thể.
5.
Định hướng cuộc sống (orientation to life): Xem xét một nền văn hóa chú trọng định hướng
ngắn hạn hay định hướng dài hạn trong cuộc sống ở các mức độ khác nhau như thế nào.
Chẳng hạn, một số nền văn hóa phương Đơng chú trọng lợi ích lâu dài hơn là lợi ích trước
mắt, nên việc thiết lập, duy trì mối quan hệ cũng bị ảnh hưởng theo.
6.
Sự tin tưởng liên cá nhân (interpersonal trust): Là mức độ một nền văn hóa cho phép các cá
nhân trong một tổ chức tin tưởng lẫn nhau.
7.
Sự khác biệt với giới thẩm quyền (difference to authority): Chỉ mức độ một nền văn hóa cho
phép các thành viên có tiếng nói khác với những nhân vật có thẩm quyền cao hơn. Trong
truyền thơng, yếu tố này được bộc lộ bằng nhiều cách, như phản biện, phê phán, chỉ trích…,
và mức độ chấp nhận chúng khác nhau ở các nền văn hóa khác nhau.
8.
Những nét đặc trưng riêng có của nền văn hóa ảnh hưởng đến môi trường truyền thông:
Chẳng hạn, ở nền văn hóa phương Đơng, yếu tố tình cảm cá nhân chi phối mạnh các quan hệ
cơng việc, do đó, việc tổ chức các hoạt động truyền thông liên cá nhân là điều rất quan trọng
trong truyền thông nội bộ của tổ chức.
Dựa theo mơ hình nói trên, hàng loạt nghiên cứu về quan hệ công chúng ở các quốc gia trên
thế giới đã được tiến hành. Từ góc nhìn văn hóa, việc tổ chức và hoạt động quan hệ cơng chúng ở
các nước đã được phân tích, khái quát, và xác định được những nét chung cũng như những điểm
riêng khác biệt. Điều đó khiến cho các chương trình quan hệ công chúng được xây dựng, triển
khai, và đánh giá một cách ngày càng chuyên nghiệp, bài bản hơn. Ảnh hưởng của quan hệ công
chúng như một lĩnh vực nghề nghiệp trong xã hội cũng được nâng lên từ đó.
Chẳng hạn, nghiên cứu của Chun-ju Flora Hung và cộng sự13 về quan hệ công chúng ở
Trung Quốc cho thấy nền văn hóa Trung Hoa rất coi trọng yếu tố gia đình, dịng họ, hay mối quan
hệ huyết thống. Danh tiếng của gia đình, dịng họ được đặt trên cá nhân. Các cơng ty nước ngồi
khi đầu tư vào Trung Quốc cũng phải lưu tâm đến điều này. Trong đó, Motorola China đã nhận
Trung Quốc là “gia đình thứ hai” (second home) của họ và thông điệp này đã khiến họ trở nên gần
gũi hơn với đất nước đông dân nhất thế giới này. Hoặc, người Trung Quốc coi trọng sự tôn ti, thứ
bậc trong xã hội ở mức độ rất cao. Cho nên, các cơng ty nước ngồi khi làm ăn tại đây phải tìm
mọi cách để có sự quan tâm, hiện diện của các lãnh đạo cao cấp nhất của địa phương trong các
hoạt động của mình nhằm thu hút công chúng…
Hay như ở Ấn Độ, nghiên cứu của Sriramesh14 chỉ ra rằng mối quan hệ cá nhân là một trong
những điều quan trọng mà các nhân viên quan hệ công chúng phải xây dựng và phát triển để thực
hiện được các nhiệm vụ của mình. Nếu một nhà báo bị ốm, hoặc gia đình của họ có chuyện buồn,
nhân viên quan hệ công chúng nhất định phải đến thăm tận nơi. Các bữa ăn trưa, các buổi gặp mặt
chia sẻ cơng việc cũng như sở thích cá nhân… phải thường xuyên được tổ chức để duy trì tình
cảm. Mối quan hệ cá nhân và quan hệ công việc hịa quyện vào nhau, rất khó rạch rịi.
13
Glocalization: Public Relations in China, in trong: Sriramesh K. chủ biên (2004), Public Relations in Asia: An Anthology,
Thomson, p.29-62.
14
Sđd, p.63-96.
Ở Hàn Quốc, yếu tố tình cảm cá nhân cũng ảnh hưởng mạnh đến hoạt động quan hệ cơng
chúng. Lịng hiếu khách của người Hàn khi áp dụng vào hoạt động quan hệ báo chí đã hình thành
một thơng lệ: sau mỗi buổi làm việc với báo giới, nhân viên quan hệ cơng chúng đều gửi các nhà
báo một món tiền nhỏ gọi là “teok cap” (giá tiền mua một loại bánh gạo truyền thống của người
Hàn, giống bánh dầy hoặc bánh dẻo của Việt Nam, rất rẻ). Trong nhiều trường hợp, điều này đã bị
lạm dụng, và khoản tiền gửi phóng viên khơng dừng ở mức để mua bánh nữa. Tương tự như vậy,
ở Việt Nam, phần lớn các cuộc họp báo đều có yếu tố “phong bì” đựng tiền tặng phóng viên, được
giải thích là khoản tiền nhỏ hỗ trợ phóng viên “uống nước” khi trời nóng, hoặc “đi đường” khi
khoảng cách từ tòa soạn đến nơi họp báo khá xa. Thiếu yếu tố đó, các hoạt động quan hệ cơng
chúng rất khó triển khai. Nếu đứng ở góc nhìn của văn hóa phương Tây vốn coi trọng sự rạch rịi,
rõ ràng, minh định, thì mọi khoản tiền biếu tương tự như trên đều bị coi là hối lộ, phi đạo đức
nghề nghiệp. Nhưng ở góc nhìn của văn hóa phương Đơng, các hình thức biếu xén như vậy là có
thể chấp nhận được và cần thiết để duy trì mối quan hệ nghề nghiệp, cũng như hiệu quả công việc.
Tất nhiên, việc trao và nhận quà biếu phải diễn ra trong mơi trường văn hóa tơn trọng lẫn nhau,
nếu khơng, tác dụng phụ của nó có thể phá vỡ mối quan hệ mà các bên nỗ lực xây dựng từ lâu.
Có thể nói, các chương trình hay chiến dịch quan hệ công chúng hiện đại, dù ở quốc gia nào,
cũng đã và đang coi văn hóa như một biến số để triển khai thực hiện một cách có hiệu quả. Văn
hóa tác động khơng nhỏ đến hoạt động quan hệ công chúng, và ngược lại, quan hệ cơng chúng
cũng làm cho các chiều kích của văn hóa thêm đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc hơn. Bất cứ tổ
chức nào, dù quy mô lớn hay nhỏ, khi cẩn trọng xem xét yếu tố văn hóa và ứng dụng nó trong
truyền thơng đối nội hoặc đối ngoại, thì việc quản trị tổ chức cũng diễn ra suôn sẻ, dễ dàng, hiệu
quả hơn. Nghiên cứu các mơ hình văn hóa tổ chức và văn hóa xã hội để ứng dụng nó trong hoạt
động quan hệ cơng chúng là việc rất cần thiết để xây dựng một ngành quan hệ cơng chúng Việt
Nam chun nghiệp, vừa có khả năng hội nhập quốc tế vừa giữ được bản sắc riêng.