MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động...". Sự khẳng định đó nói lên vai trò to lớn và cực kỳ quan trọng của
tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng của Người là sự kế thừa
tinh hoa trí tuệ của nhân loại được vận dụng sáng tạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi
vẻ vang. Tư tưởng Hồ Chí Minh cịn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta và là tài
sản quý giá trong kho tàng văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú mà nền
tảng là tư tưởng triết học. Tìm hiểu tư tưởng biện chứng của Người trong cách mạng
giải phóng dân tộc là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi vì để xác
định được mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn thì tư tưởng biện
chứng khoa học có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Có thể nói, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể
ở Việt Nam - một đất nước thuộc địa nửa phong kiến. Tư tưởng đó có ý nghĩa rất
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong mấy
chục năm qua và ngày nay đang tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực như: xác định đường
lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy nội lực kết hợp với chủ động hội nhập
quốc tế; xây dựng đạo đức mới, văn hóa mới; xây dựng Đảng và Nhà nước vững
mạnh. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh khơng những cần thiết
mà cịn là vấn đề cấp bách.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rộng lớn và phong phú. Nó đã được
nhiều tác giả trong nước cũng như ngồi nước dày cơng nghiên cứu và cơng bố nhiều
cơng trình có giá trị lý luận cũng như thực tiễn. Đặc biệt trong dịp kỷ niệm lần thứ
100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều cơng trình nghiên cứu đã nêu lên
những đóng góp to lớn của Người đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và
với nền văn hóa thế giới.
Gần đây, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác nhau
của Người lần lượt ra đời. Có thể nêu một số cơng trình: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một
số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 của PGS, PTS Nguyễn Bá
Linh; Một số chuyên đề về mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997 của tập thể các tác giả do PGS, PTS Mạch Quang Thắng (chủ biên).
Cùng với các cơng trình nêu trên, một số tác giả đã có những cơng trình
nghiên cứu để làm sáng tỏ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng sáng suốt và đúng đắn của
Hồ Chí Minh nhằm đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong số đó đáng chú ý là những cơng trình: Những cống hiến lý luận của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào học thuyết mác-xít về giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 11-1993, Nguyễn Thế Hinh; Tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
Nguyễn Đức Bình.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã gợi mở một số vấn đề về tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh như: về nguồn gốc và thế giới quan; về thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn; về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc v.v... Tuy nhiên, chưa có một
chuyên khảo nào bàn về tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam.
2
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, tiểu luận góp phần làm sáng tỏ bản chất cách mạng và
khoa học cùng với những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó rút ra
một số quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Phân tích nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Xác định những quan điểm cơ bản vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Phạm vi: Nội dung nghiên cứu đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc để hiểu rõ hơn luận điểm này trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, và
luận điểm này đóng góp như thế nào đối với kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mac Lênin.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài này dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp luận về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc”. Đồng thời, đề tài
sử dụng phối hợp các phương pháp như: lơgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so
sánh đối chiếu và hệ thống cấu trúc.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài tiếp thu các thành tựu lý luận đã đạt được bổ sung và góp phần làm
sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.. Qua đó, tác giả
mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay..
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 phần:
Phần mở đầu có 6 tiết.
Phần nội dung có 2 chương.
Phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
3
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC MÁC - ĂNGGHEN - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.1. Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc
C. Mác, Ph. Ăngghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất phương
pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của vấn
đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và đảng
của nó với vấn đề dân tộc.
Trên cơ sở những quan điểm này, Lênin đã phát triển lên thành một hệ thống
lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối,
chính sách của các đảng cộng sản kiểu mới về vấn đề dân tộc.
Theo quan điểm Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc,
bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các
nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách
vũ trang xâm lược cướp bóc, nơ dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên
gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga, với sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào
giải phóng dân tộc phát triển mạnh đã dẫn đến sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, nhiều nước thuộc địa cũ trở thành các quốc gia dân tộc độc lập .
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, Lênin cũng đã đề cập hai xu
hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản:
4
Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập,
Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa
các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống
nhất quốc tế của chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học… nói
chung.
Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển,
còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã
hội xã hội chủ nghĩa. Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai
cấp gay gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải
quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên.
Chỉ có cách mạng vơ sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng
tình hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ
đó, Lênin yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện
của chủ nghĩa dân tộc tư sảnvà chủ nghĩa sôvanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc
tế vô sản.
1.1.2. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề dân tộc nói
chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề
đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước
ngoài, giành độc lập dân tộc, xố bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền
dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc được thể hiện trong những luận điểm
cơ bản sau đây:
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc.
Đối với Hồ Chí Minh, cái má Người cần nhất trên đời là: đồng bào được tự
do, Tổ quốc được độc lập… Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã tìm
5
hiểu Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền (1791) của cách mạng Pháp. Từ đó, Người khái quát: Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do.
Cách mạng tháng Tám thành cơng, Người khẳng định trước tồn thể quốc dân
đồng bào và trước thế giới trong bản “Tun ngơn độc lập”: "Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do độc lập ấy".
Kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin đã tìm
thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường cách mạng vơ sản, tức
là đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Người đã vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể
của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội
của các nước phương Đông.
Ở trong thời của Mác - Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã
được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa
có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách
mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào
thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó, tương
lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ
thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ sản chính quốc. Tuy nhiên, đối với các nước
thuộc địa phương Đông, vấn đề đặt ra trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập
dân tộc. Và cuộc cách mạng ấy có tính chủ động, độc lập nhất định so với cách mạng
vô sản ở châu Âu.
6
Hồ Chí Minh là người có sự hiểu biết sâu sắc về tính chất xã hội thuộc địa,
thấy được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội ấy là mâu thuẫn dân tộc, thấy được tiềm
năng và động lực cách mạng của nhân dân thuộc địa. Người đã đấu tranh, phê phán
quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản Tây Âu và đi đến luận điểm: các dân tộc
thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết, phải đấu tranh
giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến
lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng
vơ sản thế giới.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế ở Đơng Dương cịn lạc hậu, chưa phát
triển, sự phân hố giai cấp ở đây chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không
diễn ra giống như ở phương Tây, từ lịch sử dân tộc Việt Nam, Người khẳng định:
"Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước".
Chủ nghĩa dân tộc mà Người nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn
năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vơ giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm bảo vệ độc lập dân tộc.
Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế.Người đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, coi
đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy,giải quyết
vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ
nghĩa quốc tế. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
1.1.3. Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người trong chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương
pháp đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Những vấn đề trên đây đã được các nhà kinh điển của giai cấp vô sản chỉ ra từ rất
sớm. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ăngghen không chỉ
7
luận giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con
người cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển
tới trình đọ cao nên trước hết các ông nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp, Mác và
Ăngghen đã viết: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc
này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp
là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen,
Lênin đã trực tiếp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc.
Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ
nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm chiếm thuộc địa, một số
nước đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc địa, Lênin đã kế tục và phát triển
sự nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai
cấp công nhân, cho phù hợp với tình hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do
Lênin sáng lập đại diện cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Lênin nhận
định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trị lịch sử
thế giới của giai cấp vơ sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.
1.1.4. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
vào điều kiện các nước thuộc địa.
Nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển mac-xit cho rằng sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tuy có liên quan mật thiết với nhau
nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp cơng nhân thì Hồ Chí Minh đối với phương Đơng,
trong đó có Việt Nam giải phóng dân tộc là nhiêm vụ trên hết, trước hết.
Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân
tộc là cơ sở để giải phóng giai cấp, gải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và
giai cấp thì địi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp,
thì trước hết là lợi ích giai cấp cơng nhân. Đây là một vấn đề lớn về lý luận và thực
tiễn trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải
8
quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của
cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua.
Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người giữ vai trò quan
trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Báo Le Paria
(Người cùng khổ) ngày 1-4-1922 Hồ Chí Minh viết: “Le Paria đã sẵn sàng bước vào
cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng lồi
người”. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, Hồ
Chí Minh vẫn nghĩ đến con người và sự nghiệp giải phóng con người. Thật sâu sắc và
cảm động khi thấy những điều Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong Di chúc: “Đầu
tiên là công việc đối với con người”. Như vậy đối với Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì giải phóng dân tộc
ln được đặt lên hàng đầu. Đó là sự trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin phù hợp với phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng
1.2. MỤC TIÊU CỦA CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC
1.2.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con đường cứu nước theo khuynh
hướng chính trị vơ sản, nhưng con đường giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh
hoạch định. Người kết hợp hài hịa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn
đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.
Vậy thì vấn đề dân tộc thuộc địa là gì? Vấn đề giai cấp là gì? Người đã vạch ra thực
chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa
bỏ ách thống trị áp bức, bóc lột, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Như vậy
độc lập dân tộc chính là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Còn nội dung
cốt lõi của vấn đề giai cấp chính là chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh tài tình giải quyết
biện chứng mối quan hệ này. Giải quyết vấn đề dân tộc trong đó có cả quyền lợi giai
cấp, vì khơng giải phóng được dân tộc thì quyền lợi giai cấp, bộ phận đến vạn năm
cũng khơng địi lại được. Giải quyết quyền lợi giai cấp thì cả dân tộc đều ấm no, hạnh
9
phúc, vì chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có cơng ăn việclàm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.Từ vấn
đề trên Người đã chỉ ra rằng giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Để giải
phóng dân tộc phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trước hết người đã
chỉ cho chúng ta thấy tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa là gì? Bằng
phương pháp lịch sử cụ thể bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, Hồ Chí Minh nhận
thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như các
nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều song đều
có chung số phận mất nước, số phận là người nô lệ mất nước.
“Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là mâu
thuẫn giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội
thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.
Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tơ thuế và chiếm đoạt
ruộng đất, cùng chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở thuộc địa có
địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí lợi ích phát triển ngược chiều
nhau hình thành các mâu thuẫn, nhưng nổi lên cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc” [1]. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên
tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc
địa phương Đông cũng khác nhau. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc
đấu tranh giai cấp, còn ở các nước thuộc địa đầu tiên phải đấu tranh giải phóng dân
tộc.
“Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản sứ,
càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai
phản động”[2]. Còn đối tượng cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là
giai cấp tư sản bản xứ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là giải phóng giai
cấp, trong khi ở các nước thuộc địa phương Đơng là giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức
thiết của nhân dân các nước thuộc địa lúc bấy giờ là độc lập dân tộc vì họ đang là nạn
1
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.38
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.39
2
10
nhân của chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột, đàn áp dã man của bọn đế quốc thực
dân. Vì thế mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
1.2.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân dành độc lập dân tộc, thiết lập
chính quyền của nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước với ý chí
giải phóng dân tộc, làm cho dân tộc độc lập tự do, đồng bào ấm no hạnh phúc. Người
hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì quốc tế thứ ba có chủ trương giải
phóng dân tộc bị áp bức.
“Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của tồn dân tộc. Đó là những mục
tiêu chiến lược của đấu tranh dân tộc phù hợp với xu thế của thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của
quần chúng nhân dân”[3]
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ Đế quốc pháp và đại
địa chủ phong kiến giành độc lập dân tộc. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng
khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp cơng-nơng của dân tộc.
Do nhận thức khác nhau về yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản ở các
nước tư bảnphát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lại bị chi phối
bởi quan điểm tả khuynh của quốc tế cộng sản VI, các đại biểu của quốc tế cộng sản
cho rằng Nguyễn Ái Quốc đi theo chủ nghĩa dân tộc mà “quên mất lợi ích đấu tranh
giai cấp”. Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: công-nông là gốc của cách mạng; cịn học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng côngnông; ba hạng người ấy là bầu bạn của công – nông.
3
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.40
11
1.3. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH
MẠNG VÔ SẢN.
1.3.1. Rút ra bài học từ sự thất bại của con đường cách mạng trước đó.
“Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân pháp ,ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với các khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những
vũ khí tư tưởng khác nhau”.
“Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha ta ,mặt dù diễn ra rất mạnh mẽ
với tinh thần rất bất khuất .Nhưng cuối cùng điều bị thực dân pháp dìm trong biển
máu. Đất nước rơi vào tình trạng hết sức khó khăn.Đó là tình trạng khủng hoảng về
đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm
con đường cứu nước mới”.
“Trong bối cảnh đất nước biến thành thuộc địa nhân dân chịu cảnh lầm than
.Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh như thế. Hồ Chí Minh hiểu được nỗi khốn khổ đó
và người nhận ra rằng con đường cứu nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi
hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh và Lương
Văn Can cũng chẵng khác gì “xin giặc rũ lịng thương”. Con đường cứu nước của
Hồng Hoa Thám có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng chất phong kiến. Chính
vì thế, mặt dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các bậc tiền bối đi trước. Nhưng
Hồ Chí Minh khơng tán thành mà quyết định ra đi tìm con đường cứu nước mới” [4]
1.3.2. Cách mạng tư sản là không triệt để
Người đi nhiều nước trên thế giới ,tìm hiểu khảo sát thực tiễn và lý luận nhất
là ở ba nước tư bản phát triển mạnh: Mỹ, Anh, Pháp.
Người đã đọc tuyên ngôn độc lập của Mĩ, tìm hiểu thực tiễn của cách mạng tư
sản Mĩ và đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp. Người
nhận thấy cả hai cuộc cách mạng này điều là cuộc cách mạng không triệt để, thực
chất của tư bản là con đĩa hai vòi một vòi bám ở đế quốc một vòi bám ở các nước
thuộc địa.Tuy cuộc cách mạng thành cơng nhưng sau đó đã bộc lộ nhiều han chế mâu
4
Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.41
12
thuẩn giữa giai cấp vô sản và tư sản không được giải quyết và càng ngày càng gay
gắt hơn.Bởi lẽ đó người đã khơng chọn đi theo con đường cách mạng tư sản.Cho tới
khi Cách Mạng Tháng Mười Nga thắng lợi người đến Liên xô và đọc được bản soạn
thảo của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người quyết định đi theo con đường
cách mạng vô sản theo định hướng của chủ nghĩa xã hội.
1.3.3. Con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc
cách mạng vô sản, mà cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó cịn là hồi
trống đánh thức tỉnh các dân tộc thuộc địa khác mở ra thời đại cách mạng chống đế
quốc, giải phóng dân tộc.
Người ln ln tin tưởng đi theo con đường của Lênin và Quốc tế ba. Hồ Chí
Minh thấy rằng lí luận của Lênin là một phương hướng mới để giải phóng dân tộc .
Từ đó người đã khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người đã vạch ra con đường cứu
nước gồm các điểm sau:
Thứ nhất: Cách mạng muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ hai: Cách mạng muốn thắng lợi phải do Đảng lãnh đạo.
Thứ ba: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của tồn dân trên cơ sở liên
minh cơng nơng.
Thứ tư: Cách mạng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc.
Thứ năm: Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường bạo lực
cách mạng và kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng và lực lượng nhân dân.
Thứ sáu: Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”,”… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ”.
13
1.4. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI PHẢI DO
ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO
1.4.1. Cách mạng trước hết phải có Đảng
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễn Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh ln ln
khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác là cách mạng vô sản.
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vịi bám vào chính quốc, một vịi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vịi của nó đi, tức là
phải kết hợp cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và
được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng. Giai cấp mà khơng có Đảng
lãnh đạo thì khơng làm cách mạng được. Do đó, Người khẳng định “trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành
cơng cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy...”.
1.4.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành
cơng “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng” “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng
của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của
Lênin.
14
Đảng Cộng Sản là một bộ phận của giai cấp công nhân, nhưng là bộ phận tiên
tiến nhất, đại diện cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp cơng nhân. Đồng thời, Đảng
Cộng Sản có lý luận Cách mạng khoa học, đề ra đường lối chiến lược sách lược để
dẫn đường cho cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc – Đảng Cộng Sản Việt Nam là
người lãnh đạo duy nhất.
“Năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp cơng nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, có
tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng”,“Ngay từ
khi ra đời, Đảng Cộng Sản đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của tồn bộ giai
cấp cơng nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm đồng thời là một ưu điểm
của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với Cách mạng Việt
Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi cách mạng”. Tóm lại, lý
luận Cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã giải quyết được vấn đề
đường lối cứu nước, chuẩn bị được những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh
đạo duy nhất đưa Cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, giúp dân tộc Việt Nam giành
độc lập. Sau khi giành độc lập dân tộc, Đảng vẫn tiếp tục là người lãnh đạo để thực
hiện nhiệm vụ giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng đã khẳng định rằng, chỉ có duy nhất
Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ bản lĩnh, năng lực uy tín kinh nghiệm được lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã
đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới theo định hướng xã
hội - chủ nghĩa thành công. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản lĩnh
kiên cường, tầm trí tuệ trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trong tiến hành chiến
tranh giải phóng đánh đuổi thực dân, đế quốc sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa mà còn thể hiện bản lĩnh, tâm trí tuệ trong lãnh đạo kinh tế, xây dựng đất nước
trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, trong xu thế tồn cầu hố kinh
tế như hiện nay.
15
1.5. LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC BAO GỒM TOÀN
DÂN TỘC
1.5.1. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Người cho rằng: “ Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đơng Dương:
Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi
loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị từ quần chúng…”
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non
làm phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức,
hoặc làm cho dân ỷ lại mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “cách mạng là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng
bao gồm dân tộc: Đảng phải tập hợp mọi bộ phận giai cấp công nhân, đại bộ phận
nông dân …đi vào phe vô sản; đối với phú nông, trung tiểu tư sản mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng.Bộ phận nào phản cách mạng thì phải lật đổ. Trong
Chỉ thị thành lập Đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944), Người
viết: “ Cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải
động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”. Hồ Chi Minh đã khẳng định, trong thời đại
chúng ta, một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết,hồn tồn có thể đánh
bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian ác và có nhiều vũ khí.Hồ Chí Minh khơng
chủ trương tiến hành chiến tranh thơng thường, dựa vào lực lương quân đội và tiến
hành một số trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng là
then chốt đảm bảo thắng lợi. Người khẳng định: “Dân khí mạnh thì qn lính nào,
súng ống nào cũng khơng chống lại nổi”. “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ
địch khơng thể nào tiêu diệt được”. “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của
quần chúng , của dân tộc.”
16
1.5.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần
túy, Việt Nam đã biến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Mặc dù thực dân
cịn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ phong kiến, song khi đã
thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai
cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngồi các giai
cấp nông dân và công nhân, giai cấp tư sản dân tộc, và một bộ phận địa chủ vừa và
nhỏ mặc dù cũng có hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong
quan hệ với đế quốc Pháp thì họ là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước.
Đó khơng phải là những giai cấp thống trị, mà trái lại, có khả năng tham gia phong
trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích: “… dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa
là sĩ, nơng, cơng , thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong lực lượng tồn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trị động
lực cách mạng của cơng nhân và nơng dân. Người phân tích: “các giai cấp cơng nhân
và nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ bị áp bức bóc lột
nặng nề nhất, lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…cơng nơng là tay
khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới,
cho nên họ gan góc”. Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trị của cơng nhân và nơng
nhân, Hồ Chí Minh khơng coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc
của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ
phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ; “…học trị, nhà
bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông;
ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công nông thôi”[5]
5
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.46
17
1.6. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH CHỦ
ĐỘNG, SÁNG TẠO VÀ CÓ KHẢ NĂNG GIÀNH THẮNG LỢI TRƯỚC CÁCH
MẠNG VƠ SẢN Ở CHÍNH QUỐC
1.6.1. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền thì các nước thuộc địa
trở thành một trong những nguồn sống chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc.
“Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ bản địa. Đó là
nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nàh máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ
hàng, mộ cơng nhân rẻ mạt cho các đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những
binh lính bản xứ cho các đạo quân cách mạng của nó”, “…nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”.
Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc
lập
1919 Nguyễn Ái Quốc gởi đến hội nghị Véc Xây bản yêu sách gồm tám điểm,
nhưng không được chấp nhận,Người nhận thấy cần phải tự lực tự cường. Công cuộc
giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng, vận
dụng cơng thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp cơng nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Cơng cuộc giải phóng
anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. “Kháng
chiến trường kì gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình…
Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không
được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”.
18
1.6.2. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính
quốc
Cương lĩnh Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928) nêu: “chỉ có thể thực hiện
hồn tồn cơng cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vơ sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc . Đó là mối quan
hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ thuộc địa, hoặc quan hệ chính-phụ
“Chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vịi…” phải thực hiện liên minh chiến đấu
giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Nhận thức đúng vai trị, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh
dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh đã nêu: “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước…”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống
hiến rất quân trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỉ qua chứng minh là hồn tồn đúng đắn.
1.7. CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH BẰNG
CON ĐƯỜNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG.
1.7.1. Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
Bạo lực cách mạng là một trong những quan điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Angghen viết: “Bạo lực cịn đóng một
vai trị khác trong lịch sử, vai trị cách mạng; nói theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho
19
mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã
hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và
chết cứng.”
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí
xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hồn tồn. Vì thế, con đường để giành
và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản
chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu
của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và
của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành
lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” [6]. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng
bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng. Cơng cuộc giải phóng dân tộc thuộc
địa phải do chính các dân tộc đó thực hiện.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa
vào hai lực lượng: chính trị của tồn dân và vũ trang nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị
trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu
quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang khơng tách biệt với đấu
tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể cách mạng càng phát triển, quần
chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực
lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
1.7.2. Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân
đạo hịa bình
“Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh hồn tồn xa lạ, đối lập và
khác hẳn với tư tưởng hiếu chiến của những kẻ xâm lược.Xuất phát từ tình yêu
thương con người, quý trọng sinh mạng con người. Người luôn tranh thủ khả năng
giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ
6
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.49
20
trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hịa bình, chủ động
đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc”[7].
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo thông nhất biện chững với
nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Yêu thương con người, u chuộng hịa bình, tự
do, cơng lý, tranh thủ mọi khả năng hịa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi
khơng tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết
dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và
bảo vệ hịa bình, vì độc lập, tự do.
Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí
xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để
kết thúc chiến tranh.
1.7.3. Hình thái bạo lực CM
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “ lực lượng chính
là dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí
Minh không chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, có chiến tuyến rõ
rệt, chỉ dựa vào lực lượng quân đội và dốc toàn lực vào một số trận sống mái với kẻ
thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng tồn dân, có
lực lượng vũ trang làm nịng cốt, đấu tranh tồn diện vs kẻ thù đế quốc với tư tưởng
chiến lược tiến công, phương châm chiến lược lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Hồ Chí Minh nói: “Khơng dùng tồn lực của nhân dân về mọi mặt để ứng phó, khơng
thể nào thắng lợi được”.
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Trong chiến tranh, quân sự là việc chủ chốt nhưng đồng thời phải kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi
chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn”.
7
. Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.50
21
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng
thêm bạn bớt thù, phân hóa và cơ lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc
tế.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch
Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không
kém quan trọng.
Trước những kẻ thù lớn mạnh, HCM chủ trương sử dụng phương chiến lược
đánh lâu dài.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời
ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và
tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
22
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHĨNG DÂN TỘC TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI
HIỆN NAY
2.1. KHƠI DẬY SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ TIN THẦN
DÂN TỘC, NGUỒN ĐỘNG LỰC MẠNH MẼ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống u nước, gắn kết cộng đồng, có ý
chí kiên cường, bất khuất không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn… Trong
hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc là chống thực dân Pháp và chống đế
quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước đã
được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến
thắng lợi vĩ đại, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống
quý báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vơ
tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Phát huy tối đa nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân
tộc, đất đai, tài năng,… nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là nguồn lực con người.
Chống lại sự phụ thuộc nước ngồi, diễn biến hịa bình, nâng tầm ảnh hưởng Việt
Nam trên trường quốc tế. Giáo dục sâu trong lòng dân tộc, giáo dục truyền thống dân
tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
2.2. NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN QUAN ĐIỂM
GIAI CẤP
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng Người luôn đứng vững trên
lập trường giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc.
23
Ln ln khẳng định vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân, vai trị độc
quyền lãnh đạo của Đảng, của giai cấp cơng nhân trong q trình cách mạng Việt
Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại đoàn kết dân tộc rộng rãi với nhiều hình thức tổ chức và phương thức hoạt
động đa dạng dựa trên nền tảng liên minh công - nơng và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Trong đấu tranh giành và giữ vững chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng
bạo lực cách mạng của quần chúng bằng phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến
tranh nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục tiêu đó
khơng phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ
ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp cơng nhân mới là lực lượng đại biểu
chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc
để thực hiện được mục tiêu trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái
với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết
hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề
của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc, tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
2.3. CHĂM LO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết
của Hồ Chí Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng, lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công
24
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm
khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc…
Trong xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc phải chăm lo giải quyết
tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các tộc người anh em trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam.
Để loại trừ những nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ
giữa các dân tộc, có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục
tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra cho miền núi, trong
đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng
hoá, xố đói, giảm nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt quan
tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến,
tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc
thiểu số, chống kỳ thị chi rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân
tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc,
vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh đã thành cơng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết,
khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách mạng của toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi
vĩ đại sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhân dân bình đẳng, ấm
no, hạnh phúc.
25