Họ và tên: NGUYỄN LƯƠNG HÃN – K43 Kinh tế Chính trị.
Mã SV: 09K4031007
Kiểm tra học phần: CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.
Đề: Phân tích đặc trưng cắm nhánh nước ngồi của các cơng ty xun quốc
gia? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với Việt Nam hiện nay?
Bài làm:
1.ĐẶC TRƯNG CẮM NHÁNH CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
(TNC).
1.1. Hình thức cắm nhánh:
Để thực hiện cắm nhánh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng nhiều
hình thức khác nhau, song chủ yếu là các hình thức sau:
Hình thức đầu tư 100% vốn
Đây là hình thức cắm nhánh cổ truyền, trong đó các TNC được hoàn toàn tự
chủ trong kinh doanh theo luật đầu tư của nước chủ nhà mà khơng sợ thất thốt về
bí quyết công nghệ và quản lý hoặc là chia sẻ bạn hàng. Tuy nhiên các TNC phải
chịu sự kiểm soát của nước chủ nhà.
Mặt khác với xí nghiệp 100% vốn của mình, các TNC khơng tránh khỏi
những khó khăn trong việc khai thông các mối quan hệ với các cơ quan quản lý,
cũng như việc tìm hiểu thị trường nước chủ nhà. Đó là chưa kể đến trường hợp cá
biệt ở một số nước, vấn đề tuyển nhân công cũng gặp rất nhiều khó khăn là do tâm
lý họ khơng muốn làm thuê cho người nước ngoài, như ở Nhật Bản chẳng hạn.
Chính do một số khó khăn nêu trên nên nhiều cơng ty xun quốc gia đã lựa
chọn hình thức liên doanh.
Hình thức liên doanh
Đây là một trong những hình thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay mà các
TNC đã và đang sử dụng.
Để thực hiện liên doanh, các TNC thường sử dụng một số biện pháp như
tham gia cổ phần đối với xí nghiệp mới xây dựng, lập ra xí nghiệp mới có sự tham
gia của đối tác nước chủ nhà, mà công ty mẹ nắm giữ số cổ phần khống chế, hoặc
mua cổ phiếu của công ty đang hoạt động…
Hiện nay, hình thức liên doanh thường chiếm tỷ trọng lớn (60%- 70%, thậm
chí có trường hợp 85% tổng số dự án đầu tư nước ngồi), vì hình thức này có nhiều
nhân tố làm tăng hiệu suất của tư bản. Trước hết thơng qua hình thức liên doanh,
liên kết, các cơng ty xun quốc gia có thể khắc phục được tình hình quốc hữu hố,
chia sẽ được rủi ro với đối tác nước chủ nhà. Đồng thời, có thể sẽ từng bước khắc
phục được những khó khăn trong mối quan hệ với các cơ quan, quan chức ở nước
chủ nhà…. Đây là hình thức liên doanh mà các TNC thực hiện được việc thâm
nhập vào các nền kinh tế một cách thuận lợi. Chính thơng qua việc liên doanh, các
cơng ty xun quốc gia có điều kiện mở rộng thị trường, khai thác nguồn lực quốc
tế.
Ngồi hai hình thức chủ yếu trên, các TNC còn thực hiện các hình thức khác, như
thơng qua các hợp đồng gia cơng để chuyển giao một số công đoạn sản xuất ra
nước ngồi nhằm thực hiện chun mơn hố sản phẩm, tận dụng các lợi thế, như
giá nhân công rẻ, giá nguyên vật liệu rẻ, khả năng khai thác thị trường nội địa và
lân cận, tiết kiệm chi phí vận chuyển, khắc phục khó khăn về thuế quan….
1.2. Chiến lược cắm nhánh ngoại quốc của các công ty xuyên quốc gia:
Để thực hiện cắm nhánh ngoại quốc, các TNC sử dụng chủ yếu việc đầu tư
trực tiếp nước ngồi dưới hình thức xí nghiệp 100% vốn hoặc liên doanh, đồng
thời sử dụng chiến lược hết sức linh hoạt nhằm thâm nhập thị trường, tìm kiếm lợi
nhuận. Trong đó đáng lưu ý tới một số chiến lược sau:
Chiến lược đối với khu vực địa lý
Đối với các công ty xuyên quốc gia, khu vực địa lý mà chúng tập trung đầu
tư cắm nhánh có sự thay đổi tuỳ thuộc vào chiến lược của nhà nước mẹ và chiến
lược của từng cơng ty. Song nhìn chung chúng tập trung vào các nước tư bản phát
triển. Theo số liệu thống kê quốc tế, vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi của các cơng
ty xun quốc gia được tập trung chủ yếu vào khu vực này.
Sở dĩ có xu hướng như vậy là vì trong điều kiện tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đã xuất hiện nhiều ngành mới, trong khi đó các nước
đang phát triển (trừ NICS) do trình độ lạc hậu nên không đủ điều kiện tiếp nhận đầu
tư. Hầu hết các ngành được chuyển dịch sang các nước đang phát triển là những
ngàng đã hao mịn vơ hình, giá trị thấp… cũng góp phần làm cho tỷ trọng vốn giảm
đi. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay lĩnh vực cạnh tranh là những ngành hiện đại,
trong khi đó các nước đang phát triển không phải là đối thủ cạnh tranh, hơn nữa
sức tiêu thụ những sản phẩm cao cấp còn rất hạn chế do thu nhập thấp. Điều đó đã
làm thay đổi hướng đầu tư của các TNC.
Chiến lược đối với các ngành kinh doanh
Từ sau chiến tranh thế giới II đến nay việc đầu tư cắm nhánh của các TNC
có sự thay đổi. Đó là tỷ trọng vốn đầu tư vào các ngành cơng nghiệp khai khống
có xu hướng giảm. Tuy nhiên mức độ giảm giữa các nước phát triển và đang phát
triển, giữa các TNC của các nước khác nhau không đồng đều. Đối với ngành công
nghiệp chế biến, vốn đầu tư có xu hướng tăng khơng đều nhau. Còn đối với ngành
dịch vụ, tỷ trọng vốn đầu tư mà các công ty xuyên quốc gia thực hiện thường tăng
nhanh, trung bình tăng 10% ở các nước tư bản phát triển và 20% ở các nước đang
phát triển. Chính xu hướng đầu tư cắm nhánh của các TNC đối với các ngành trên
đã góp phần thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế thế giới trong
những thập kỷ gần đây.
Chiến lược thơn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia
Cùng với xu hướng trên, các TNC đã thực hiện chiến lược sáp nhập và thơn
tính lẫn nhau. Ngay từ những năm 1970 của thế kỷ XIX, việc sáp nhập các công ty
đã diễn ra rất sớm. Song trong những thập kỷ gần đây, việc thực hiện thơn tính và
sáp nhập biểu hiện khá đậm nét ở hầu hết các công ty xuyên quốc gia, nhất là ở các
nước tư bản phát triển. Chẳng hạn: theo Securitie Data Corp , tổng số vụ sáp nhập
vào năm 1998 đã đạt tới 1.610 tỷ USD, tăng 78% so với năm 1997. Còn vào những
năm 1990 số vụ sáp nhập, thơn tính đạt 908 vụ, bình quân mỗi vụ 86,7 triệu USD.
Hiện nay các vụ sáp nhập có đặc điểm là quy mơ rất lớn. Chẳng hạn: số vụ trị giá
trên 1 tỷ USD tăng từ 35 vụ năm 1995 lên 45 vụ năm 1996 và 58 vụ năm 1996 với
tổng giá trị tổng cộng lần lượt là 59 tỷ USD, 86 tỷ USD, 161 tỷ USD và diễn ra
trên tất cả các ngành.
Ngoài ra mỗi cơng ty xun quốc gia cịn có những chiến lược riêng của
mình. Một số TNC có xu hướng đầu tư cắm nhánh nhanh vùng trung tâm của mỗi
quốc gia chủ nhà. Song lại có cơng ty thực hiện chiến lược cắm nhánh ở những
vùng biên giới giữa các nước vì từ đó có thể mở rộng hoạt động đối với các quốc
gia lận cận. Về chiến lược thị trường, sản phẩm cũng vậy, có cơng ty thực hiện
chiếm lĩnh thị trường ngách với sản phẩm độc đáo trong khi hầu hết các cơng ty có
xu hướng đa dạng hố sản phẩm, thực hiện chun mơn hố.
2. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM.
Trong thời đại mà xu thế phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm như hiện nay
thh́ì vai trị của các cơng ty xun quốc gia ngày càng được khẳng định. Là một lực
lượng kinh tế hùng mạnh, chiếm lĩnh và kiểm soát những mắt khâu trọng yếu trong
sản xuất, lưu thông cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển khoa học
công nghệ, các công ty xuyên quốc gia ngày càng chi phối mạnh mẽ vào đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới mà Việt Nam chúng ta không phải là ngoại lệ.
Đây chính là lực lượng chính thúc đẩy q trình tồn cầu hố trên thế giới hiện
nay.
Nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển đó thể hiện
khơng đồng đều. Cụ thể là ở các nước phát triển thì nền kinh tế phát triển mạnh
trong khi đó các nước đang và kém phát triển thì nền kinh tế cịn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là về nguồn vốn và khoa học cơng nghệ. Vì vậy muốn đưa các nước
kém và đang phát triển đi lên thì điều cần thiết cần có sự liên kết kinh tế giữa các
nước kém và đang phát triển với các nước phát triển. Những nguyên nhân trên đã
nói nên sự cần thiết phải tồn tại các công ty xuyên quốc gia như một tất yếu. Đây là
một mơ hình nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ở Việt
Nam việc tiếp nhận, quá trình liên kết, cũng như các chính sách đối với vấn đề này
có ý nghĩa quan trọng, sống cịn với bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày nay.
Các TNC ở Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều nước nhưng phổ biến là từ các nước
đang phát triển .
Thực tiễn hoạt động của các TNC trên thế giới đã cho thấy 90% số cơng ty có
nguồn gốc từ một nước. Do đó căn cứ vào dánh sách tên các quốc gia, lãnh thổ có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt Nam chúng ta có thể nhận diện một cách
đầy đủ nguồn gốc của các TNC. Ở Việt Nam sự hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia rộ lên kể từ khi Việt Nam ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (tháng
12/1987), kể từ đó đến nay đã có hàng trăm đồn doanh nghiệp trên khắp thế giới
đã tiếp cận vào thị trường Việt Nam.
Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam đã đem đến sự khởi sắc
cho nền kinh tế Việt Nam, nhưng bên cạnh đó chúng cũng đem lại một số tác động
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơng ty xun quốc gia thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu về
các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt đi sâu phân tích về bản chất và vai trị của
chúng. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các công ty xun quốc gia tại Việt Nam.
TNC có vai trị quan trọng đối với việc phát triển thương mại quốc tế. Ở Việt
Nam hiện nay bên cạnh những tập đoàn phân phối lớn đã có mặt như Metro Cash
& Carry, Bourbon Espace (Big C), Parkson, Dairy Farm,... các tập đoàn kinh doanh
bán lẻ hàng đầu thế giới như Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh),
Marko (Hà Lan)... đang mở rộng thị trường và thâm nhập ngày càng sâu, rộng vào
thị trường bán lẻ hàng hóa trên thế giới, sẽ sớm có mặt ở thị trường mới nổi và có
sức hấp dẫn này. Theo tổ chức tư vấn A.T.Keaney của Hoa Kỳ, thị trường bán lẻ
Việt Nam hiện xếp thứ tư thế giới về khả năng thu hút những tập đoàn bán lẻ với
những lý do như dân số đông và mức chi tiêu của người tiêu dùng cũng như doanh
số bán lẻ ngày một tăng nhanh.
Cùng với quá trình bành trướng và thâm nhập của TNC vào Việt Nam, việc xây
dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh của Việt Nam đang được Chính phủ
đặc biệt quan tâm và chỉ đạo thực hiện. Đồng thời, q trình tích tụ và tập trung sẽ
diễn ra mạnh mẽ giữa các thương nhân trong nước tạo thành những chuỗi liên kết
với các nhà sản xuất, ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh. Một số thương nhân
có tiềm lực sẽ mở rộng hệ thống dịch vụ phân phối ra nước ngồi thơng qua liên
doanh, liên kết với các tập đoàn phân phối nước ngồi hoặc thơng qua các trung
tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Tất cả
điều này sẽ dẫn tới hệ thống dịch vụ phân phối của Việt Nam ngày càng lớn mạnh
và thông suốt, sự liên kết giữa hệ thống phân phối trong nước với nước ngồi ngày
càng phát triển.
TNC có vai trị quan trọng trong việc chuyển giao cơng nghệ. Hoạt động
chuyển giao công nghệ tại Việt Nam hiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là
chuyển giao cơng nghệ từ nước ngồi vào Việt Nam, chuyển giao cơng nghệ trong
nước và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngồi. Cũng có thể phân chia
việc chuyển giao cơng nghệ theo hai luồng chính là: từ cơng ty mẹ chuyển giao cho
các công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngồi, hoặc trong các cơng ty
liên doanh. Luồng thứ hai là các hoạt động chuyển giao công nghệ thương mại
thuần túy. Thực tế diễn ra tại Việt Nam phần nhiều là các hoạt động chuyển giao
công nghệ theo hình thức thứ nhất. Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả:
90% hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết với các doanh nghiệp (DN) có
vốn đầu tư nước ngồi.
Nhiều cuộc khảo sát cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất
và của các doanh nghiệp còn lạc hậu. Theo kết quả điều tra về thực trạng DN Việt
Nam của Tổng cục thống kê công bố ngày 11/5/2005, hầu hết ở quy mô vừa và
nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật cơng
nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH-CN) tuy
đã tăng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân
sách Nhà nước, chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ các doanh
nghiệp. Cơ chế, chính sách đầu tư cho KH-CN chưa được tháo gỡ để tạo nguồn lực
và động lực cho các tổ chức, các nhà khoa học phát huy tối đa năng lực sáng tạo và
đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế.
Công tác hội nhập quốc tế về KH-CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh
để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến cơng nghệ nhập từ nước ngồi phục
vụ đổi mới, nâng cao trình độ cơng nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản
xuất, kinh doanh, quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH-CN, chất lượng các đề tài
nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống
vẫn còn nhiều hạn chế.
Tuy nhiên việc chuyển giao cơng nghệ ở Việt Nam cũng cịn tồn tại những
hạn chế. Các doanh nghiệp nhà nước lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới cơng nghệ
vì thường có vị thế độc quyền, không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm
vào sự bảo hộ của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành công nghiệp, được coi là chủ
lực cũng tương tự. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản
xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm, như dệt may có
đến 45% cần phải đầu tư nâng cấp và 30 - 40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp
là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát
triển về công nghệ. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng chỉ có 25% DN
có cơng nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, cịn lại là dưới trung bình
và lạc hậu, trong đó DN có cơng nghệ lạc hậu chiếm 20%. Bên cạnh đó, cơ chế bảo
hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ cịn yếu, chưa có chiến lược chuyển giao
cơng nghệ hữu hiệu.
TNC cịn có vai trị đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. TNC là
lực lượng cơ bản trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhân tố quan trọng trong
quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định, động lực chính tạo nên
sự thành cơng của TNC. TNC có vai trị tăng cường sức khoẻ và dinh dưỡng ở cả
nước mẹ và nước chủ nhà. Đặc biệt bằng con đường cắm nhánh thông qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài, TNC đã thực hiện sản xuất và phân phối một khối lượng lớn
các loại dược phẩm, thiết bị y tế và chế biến thực phẩm với chất lượng cao ở nước
chủ nhà. Chúng ta có thể thấy rõ vai trị của đầu tư nước ngồi đối với tăng cường
sức khoẻ và dinh dưỡng thơng qua ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
TNC là lực lượng có vai trị lớn trong các lĩnh vực và ngành của nền kinh tế,
đặc biệt trong ngành dịch vụ xã hội là sự giúp đỡ và hỗ trợ trực tiếp người lao
động. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ, mức sống của người lao động được nâng
cao và các chương trình phục vụ sức khoẻ của người lao động đã kích thích ngành
y tế phát triển…
Từ việc nhận thức những vai trò và sự tác động trên, Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VIII (1996) đã khẳng định việc tiếp tục phát triển đường lối Đổi
mới của Đại hội VI,VII là đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối
ngoại theo tinh thần: “Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển” nhằm đẩy mạnh quan hệ kinh tế
đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống. Chủ trương
này đã tạo điều kiện thúc đấy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá 8 đã thống nhất nguyên tắc
hội nhập của Việt Nam là “trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngồi”, trong đó những biện pháp quan
trọng hàng đầu là “tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư
nước ngồi, tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”.
Chương trình hợp tác của Chính phủ năm 1998 cũng chỉ rõ: “tiến trình đổi mới đất
nước phải đi kịp và gắn với tiến trình hội nhập quốc tế nhằm phục vụ tốt mục tiêu
phát triển đất nước, giữ vững độc lập tự chủ”. Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, X
chúng ta lại tiếp tục khẳng định: “… Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực”. Trong những năm vừa qua, bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi hết sức
nhanh chóng. Xu hướng tồn cầu hố nền kinh tế thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ
đã tác động đến chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh đó,
và đặc biệt là xuất phát từ nhu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, Việt Nam
không thể khơng thay đổi chính sách kinh tế của mình, trước hết là để đáp ứng kịp
thời yêu cầu của đất nước, của xã hội, sau đó là để hội nhập với xu thế chung của
toàn cầu và đồng thời cũng là để theo kịp các nước trên thế giới. Với mục tiêu thúc
đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, kinh tế đối ngoại đã được
xác định ưu tiên cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, đồng thời khuyến khích sản
xuất hàng hố xuất khẩu nhằm chiếm lĩnh từng phần thị trường thế giới...Việt Nam
đã quan tâm tới các chính sách thu hút đầu tư nước ngồi để tranh thủ tận dụng
được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển. Điển hình là khi bình
thường hố quan hệ kinh tế và ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ là một trong những
sự kiện quan trọng của đời sống kinh tế và chính trị ở Việt Nam. Ngay sau khi lệnh
cấm vận được bãi bỏ(1995), các TNC lớn của Mỹ với sự chuẩn bị từ trước, thơng
qua các chi nhánh của mình tại các nước trong vùng, đã lập tức tung sản phẩm của
mình vào thị trường Việt Nam. Các sản phẩm của các TNC như Coca-cola, Pepsicola, Kodak,... tràn ngập thị trường Việt Nam, còn các TNC như Mobil, IBM,
General Motors, Microsoft, Esso... ngay lập tức đã kỹ kết các hợp Nam.
Cùng với đó, Việt Nam cũng có những chính sách nhằm thu hút, tiếp nhận
và liên kết với các công ty xuyên quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội đất
nước.Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý, và thị trường xuất khẩu phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước đã được cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam qua từng kỳ Đại Hội. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành
từ cuối năm 1987 đã mở đầu cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi (FDI) theo phương châm đa dạng hố, đa phương hố các quan hệ
kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện thủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu
quả của hợp tác kinh tế quốc tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy, trong lĩnh vực thu hút
FDI nói chung và thu hút FDI của các TNC nói riêng, Việt Nam không thể tránh
khỏi được những thách thức và khó khăn. Nhận thức được vấn đề này, Việt Nam đã
không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư nước ngoài, các TNC tham gia đầu tư ngày càng nhiều hơn vào Việt
Nam.Trước hết, phải khẳng định rằng Việt Nam có một mơi trường Chính trị - xã
hội thực sự rất ổn định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý
của Nhà nước XHCN, nền chính trị - xã hội của nước ta ln được củng cố và bền
vững. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng và phát triển
khá cao, xã hội có nhiều biến chuyển tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện và
nâng cao, an ninh trật tự xã hội được bảo đảm, lòng tin của nhân dân vào đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước ngày càng cao, quan hệ quốc tế ngày càng được
mở rộng.... Có thể nói, chính trị là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự phát triển của
kinh tế đất nước và cũng là điều kiện tối cần thiết đối với các ngành đầu tư, sự ổn
định của chính trị – xã hội đã tạo ra thế và lực mới để mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư nước ngồi nói chung và của
các TNC nói riêng.
Cùng với sự ổn định về chính trị – xã hội, Việt Nam có đường lối đối ngoại
rộng mở, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở
rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngồi. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, thực hiện tự do hoá thương mại, của Đảng và Nhà nước ta đã tạo tiền đề cần
thiết để thu hút đầu tư của các TNC.
Kể từ khi ban hành và triển khai thực hiện Luật Đầu tư nước ngồi, Việt
Nam đã có nhiều thay đổi trong chính sách đối với đầu tư nước ngồi theo hướng
ngày càng cởi mở hơn, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư. Tháng 31999, Chính phủ đã quyết định một loạt các chính sách biện pháp nhằm cải thiện
môi trường đầu tư, được đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh và đánh
giá cao. Cùng với hệ thống luật pháp đồng bộ, thơng thống, những chính sách
khuyến khích đầu tư nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi, ưu đãi đối với nhà đầu
tư để tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, Việt Nam đã ban hành và triển
khai thực hiện Luật đầu tư nước ngồi được Quốc hội thơng qua ngày 12 tháng 11
năm 1996. Tháng 7-2000, bộ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi,
bổ sung nhằm tạo thêm nhiều thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam. Ngồi ra bộ Luật cịn đưa ra một loạt những quy định khác như khuyến khích
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi làm ăn theo hướng gia tăng xuất khẩu;
tạo nhiều công ăn việc làm, tỷ lệ nội địa hoá cao; mở rộng diện hàng hoá được
miễn thuế nhập khẩu; tăng cường biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc triển khai dự án do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế như miễn giảm
tiền thuê đất, điều chỉnh mức thuế lợi tức ưu đãi, cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ sản
phẩm nội địa....
Các chính sách của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài trong thời gian
qua đã tạo điều kiện thuận lợi hơn để có thể tiếp tục nâng cao sức hấp dẫn với các
nhà đầu tư nước ngồi cũng như với các TNC. Ước tính gần 100 TNC nằm trong
danh sách 500 TNC hàng đầu thế giới có tiềm lực mạnh về cơng nghệ và tài chính,
đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng như dầu khí, viễn thơng, ơ tơ, xe
máy, cơng nghiệp điện tử, cơng nghệ thơng tin, hố chất, vào lĩnh vực nước giải
khát, ngân hàng, bảo hiểm....
Ngồi các chính sách nhằm thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngồi, Việt Nam
cịn tích cực tiến hành nâng cấp, đầu tư cho cơ sở hạ tầng để có thể đáp ứng được
nhu cầu và tiếp thu được các công nghệ, kỹ thuật cao từ các TNC. Kết cấu kinh tế
kỹ thuật được coi là một hệ thống cơ bản, cốt lõi để thu hút đầu tư nước ngồi nói
chung và thu hút các TNC nói riêng. Trong điều kiện phát triển của sản xuất và thị
trường hiện nay, sự phát triển của kết cấu hạ tầng kỹ thuật là điều kiện tiên quyết
để phát triển kỹ thuật công nghệ cao, đáp ứng nhanh yêu cầu đòi hỏi của thị
trường. Nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở vật chất kỹ thuật, để tăng sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các TNC, Việt Nam đã tiến
hành xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế bao gồm: Khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao. Đồng thời nước ta cũng có những chính sách ưu đãi
đối với các TNC đầu tư vào khu cơng nghiệp và khu chế xuất nhằm khuyến khích
họ đầu tư và hoạt động trong các khu chế xuất. Ví dụ như chính phủ cho phép các
doanh nghiệp đầu tư vào khu chế xuất được hưởng những thủ tục hành chính và
khuyến khích đầu tư thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp ngồi khu cơng nghiệp
và khu chế xuất.
Riêng về vấn đề thuế, nhà nước ta cũng có một số quy định riêng cho đầu tư
nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp tuỳ theo địa bàn và lĩnh vực hoạt động,
thuế suất thơng thường 25%, khuyến khích đầu tư là 20,15,10%. Thời gian miễn
thuế đối với những dự án khuyến khích đầu tư: Miễn 2 năm, giảm 50% cho 2 năm
tiếp theo; miễn 4 năm giảm 50% 4 năm tiếp theo. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài với mức 7,5,3%. Hàng hố đưa từ nước ngồi vào khu chế xuất hoặc doanh
nghiệp chế xuất và ngược lại không thuộc diện nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
và chỉ chịu sự giám sát của hải quan và không thuộc diện nộp thuế VAT. Thiết bị,
máy móc, phương tiện vận tải nằm trong dây chuyền công nghệ, để tạo tài sản cố
định của doanh nghiệp; vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được không
thuộc đối tượng chịu thuế VAT. Nguyên liệu, vật tư linh kiện nhập khẩu để sản xuất
của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập
khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam ngày nay đặt trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường của thế giới, việc tiếp nhận, liên kết với các công ty xun
quốc gia có vai trị quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điều đó yêu
cầu chúng ta phải linh hoạt hơn trong việc nhìn nhận, tiếp thu và đưa ra các chính
sách phù hợp cho việc phát triển các công ty xuyên quốc gia. Từ những gì đã và
đang làm được, bên cạnh những mặt hạn chế hi vọng trong thời gian tới và lâu dài
về sau Việt Nam sớm thành công hơn để TNC đóng góp nhiều hơn cho kinh tế - xã
hội đất nước.