Tơi đi tu Hai-kư Việt
Đó là lời bộc bạch của ơng khi nói về sự nghiệp thơ ca của mình. Ơng ln
thích cái mới, ưa chủ nghĩa xê dịch và cũng ưa những cái gì chưa ai đặt chân
đến. Cũng bởi lẽ ấy ông đã đến với thơ Hai-kư Việt như một cuộc chạy đua
hạnh ngộ. Tuy có hơi muộn nhưng cũng đủ để ơng trải lịng trên câu chữ.
Nhà thơ Đinh Nhật Hạnh sinh năm 1928, tại vùng Xóm Đá - Vĩnh Đức - Đơ
Lương - Nghệ An. Ơng đã có một khoảng thời gian tham gia kháng chiến và cướp
chính quyền chính tại một số địa phương.
Từ năm 1952 trở đi, ông thi và trúng tuyển ngành y ở Angieri và năm 1954 ông
vào tiếp quản thủ đô rồi tiếp tục hoạt động trong nghành y cho đến khi nghỉ hưu
năm 1990.
Nhà thơ Đinh Nhật Hạnh.
Từ đó cho đến nay, ơng tham gia sáng tác thơ và là hội viên câu lạc bộ thơ của
Thủ đô Hà Nội với những tập thơ đã được xuất bản, in riêng có “Vườn Hương
(2004), Quầng Trăng (2005), Bụi thời gian (2006) và tập thơ in chung có “Hương
Lan (2003), Những vần thơ tâm tình I, II và một số những sáng tác thơ tiểu biểu
được in trong các tuyển thơ như Ngàn năm thương Nhớ (2003), Non nước một dải.
Hiện nay, Đinh Nhật Hạnh đang là thành viên của Hội Hữu nghị Việt Nam –Nhật
Bản, Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt - Nhật Hai-kư Việt. Khi sự kiện động đất sóng
thần xảy ra ở Nhật Bản, ơng đã viết lên tập Hai-kư Việt với nhan đề “Khúc tưởng
niệm” để thể hiện được nỗi niềm của một người đã từng có nhiều kỉ niệm với đất
nước nhiều duyên nợ này.
Thoạt nhìn, khơng ai nghĩ rằng ơng đã bước sang tuổi 85. Ngồi đời, trơng ơng trẻ
hơn so với trong ảnh. Bởi trong ông luôn chứa đựng một phong thái cần mẫn, ngay
cả cái cách ứng xử cũng thật lịch thiệp mà vẫn cuốn hút đến lạ kì.
Ở ơng Đinh Hạnh cũng có cái gì đó khiến người ta dễ liên tưởng đến con người
của xứ sở vừa trải qua cơn đại địa chấn kinh hồng hơm 11/3. Đó là tinh thần của
một đất nước vốn có truyền thống hiếu học, tinh thần của những người võ sĩ đạo
Kimono. Được biết, ơng vừa viết hồn chỉnh tập thơ Hai-kư với tinh thần của một
người từng có nhiều năm gắn bó với vùng đất đau thương này.
Nếu ai đó nói rằng, Đinh Nhật Hạnh không phải là nhà thơ, ông sẽ phản ứng
thế nào và ông nghĩ sao về nhận xét ấy?
Tơi nghĩ đó là điều hồn tồn bình thường và khơng có gì đáng trách cả. Dẫu sao
cũng hơi buồn một chút, chỉ một chút thôi nhé. Nhưng đôi lúc có phần lại cảm
thấy vui đấy, vui vì đã có những người quá rõ hiểu về tiểu sử của mình, cho nên
mới đưa ra những nhận xét như vậy. Còn thường thường đâu có ai gọi tơi vậy đâu,
bạn bè tơi và ngay cả những người thân trong gia đình họ đều gắn tôi với cái biệt
danh “Đinh Hạnh Hai-kư Việt” đấy thôi.
Ông có thể nói kỹ hơn một chút về biệt danh này?
Thú thật, mình đã có những khoảng thời gian nhất định hoạt động trong nghề y,
nhưng rồi sau này lại quyết định dành một phần tâm hồn cho thơ. Mình làm thơ
tuy khơng nhiều, song cho đến lúc này cũng có thể gọi là thành cơng. Thành cơng
bởi vì cũng được người này người kia biết đến, thỉnh thoảng họ có mời mình đi
thuyết giảng về thơ. Rồi thì khi mình chuyển hẳn sang địa hạt thơ HaiKư thì cái
biệt danh cũng theo mình suốt từ đó.
Nếu cho ơng chọn lại, ơng có tiếp tục giữ ngun con đường ấy?
Bây giờ và mãi mãi sau này tôi vẫn cho rằng quyết định của mình ngày ấy là đúng
đắn nhất. Nhưng cũng xin nói thêm rằng, tơi chỉ là người chuyển phần hồn của
Thơ Hai-kư thơi, cịn phần xác là tơi được người ta giúp đỡ hồn tồn. Thú thật,
mỗi khi đứng trước một quyết định quan trọng tôi đều nhớ đến lời dặn mẹ tơi:
“Con hãy làm những gì con thích và cố gắng đi chọn con đường mà mình đã chọn,
khi ấy con sẽ cảm thấy thoải mái và dễ chịu hơn nhiều”. Cứ nghĩ thế thơi mình đã
có đủ nghị lực để vượt qua tất cả rồi.
Tập thơ Hai-kư Việt “Khúc Tưởng Niệm” phải chăng là tập hợp những bài thơ
ông viết để dành riêng cho đất nước và con người Nhật ?
Đúng, hoặc cũng có thể coi đó là những nỗi niềm tri ân tơi muốn gửi tới đất nước
này. Ở đó có những bài tơi viết về cảnh li thương của các gia đình, có những cảnh
hoang tàn đổ nát khi sóng thần đi qua và có những cảnh đám khói ngun ngút đang
bốc lên từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Cuối tập thơ là hình ảnh một em bé
trào đời trong vịng tay đùm bọc của mọi người.
Được biết, trước khi đến với Hai-kư Việt, ông cũng đã sáng tác khá nhiều thơ
và chủ yếu là dịng thơ trữ tình. Vậy tại sao ông lại đột ngột rẽ sang một dòng
thơ mới?
Được trở thành một nhà thơ là điều ước mơ của tôi. Khi tôi theo học trường làng
tại quê hương Nghệ An, tơi đã có đơi lần thử làm thơ. Nhưng cùng lúc, tôi lại
trúng tuyển hai trường y. Một ở Nam Ninh (Trung Quốc) và một ở Angieri, sau đó
vì trường ở Angieri gọi trước nên tơi sang đó học luôn. Trước khi đi tôi cứ đắn đo
mãi với quyết định của mình. Rồi má tơi từng ngày tâm sự, phân tích. Tơi nhớ mãi
câu nói của mẹ ngày ấy: “Con cứ tồn tâm tồn ý với cơng việc trước mắt đi, rồi
sau này học gì làm gì cũng chưa muộn mà”. Bây giờ thì tơi vơ cùng cảm ơn bà.
Sau thời gian và những biến cố của cuộc đời, ngày hôm nay, khi đã ở cái tuổi
85, ông nhớ gì về cái thời hoa niên?
Khi lên bốn tuổi, tơi đã khơng cịn được nhìn gương mặt cha. Rồi lần lượt anh trai,
em trai cũng bỏ tôi ra đi. Mẹ mất, khi tôi đang theo học nghành y tại Angieri. Liên
tiếp là những nỗi đau bất ngờ! Thời gian ấy thật thử thách đối với tơi. Đã có những
lúc tưởng chừng như mình khơng thể chiến thắng nổi số phận nghiệt ngã, nhưng
rồi…
Có lẽ, ơng cũng đã trăn trở rất nhiều khi đưa ra quyết định có nên tiếp tục học
nghành y nữa hay không?
Vâng, nhất là sau khi má tôi mất tôi hầu như đêm nào cũng mất ngủ. Cứ nhắm mắt
tơi lại thấy hình ảnh má hiện về, chập chờn trong mỗi giấc mơ. Má là người có
nhiều ảnh hưởng đối với tơi. Giá như má cịn sống...
Chắc hẳn, ơng đã có đơi lần viết về má?
Bài đầu tiên là tôi viết về quê hương. Hồi ấy có lẽ cái khái niệm quê hương là khái
niệm đầu đối với bất kì ai đi xa. Tơi cũng vậy. Ban ngày đi học thì thơi nhưng cứ
đêm đến, nghe tiếng mưa, tiếng ếch nhái râm ran ngoài đồng vọng vào thấy nhớ
quê da diết. Rồi thì sáng sáng dạy sớm, ngắm ánh bình mình và cứ theo hướng
Nam mà ngưỡng vọng về Tổ quốc.
Đó là những câu như thế nào, ơng có thể đọc được không?
“Chẳng lẽ ra đi lại trở về
Không về thương nhớ cảnh đồng quê
Sông Lam bát ngát đầy thơ mơng
Trống rỗng lịng ta nhớ nhớ nhà.”
Hồi đó vẫn cịn ở với má, chưa đi xa, cho nên quê hương trong trí nhớ của mình là
người mẹ, mà nhớ q hương tức là nhớ mẹ đúng khơng.
Ơng đã xuất bản bao nhiêu tập thơ? Kỉ niệm về một bài thơ hoặc tập thơ mà
ông cho là tâm đắc nhất?
Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng nếu tính cả tập “Khúc Tượng niệm” này vào thì
cũng đến 5, 6 tập gì đó. Không nhiều lắm đối với một người sáng tác, nhưng đó
cũng đủ để tơi tự hào.
Có một bài tơi vẫn nhớ mãi, lúc ấy ở Hà Nội đang rộ lên câu chuyện về Hoàng
Thành Thăng Long chứa những rất nhiều khảo cổ. Tơi cũng có dăm ba lần tới đó.
Khi đặt chân lên khu lăng tẩm, tôi phát hiện ở đó có một cái giếng, mà giếng đó là
giếng cổ với những nét trầm tích và chứa đựng cả một huyền tích lớn của người
xưa. Ấn tượng ban đầu đã cho tôi viết lên bài “Vầng Trăng Đáy Giếng”. Sau này
cũng có vài người đến phỏng vấn tơi đều trả lời tương tự như vậy.
Đấy là với thơ trữ tình, cịn với Hai-kư, ơng đã có những bước chuẩn bị như thế
nào? Thú thật, nhiều người vẫn lầm tưởng Hai-kư là của Nhật Bản.
Tơi hồn tồn khơng có sự chuẩn định bị gì cả. Và cũng càng khơng có ý định sẽ
theo đuổi một cái gì thật rõ ràng cụ thể. Tơi vốn là người thích tự do, muốn những
cái hồn tồn mới nhưng cũng khơng bao giờ cho phép mình hồi nghi về những
cái đã qua. Tơi cũng nói rằng, tơi đến với thơ Hai-kư hồn tồn là một sự tình cờ,
ngầu nhiên và khơng có bất cứ một sự gượng ép hay hối thúc nào cả.
Có nhiều cái ngẫu nhiên nhưng sau này đeo bám mình suốt cả cuộc đời…
Tôi đã gần không ý thức được rằng có một ngày mình lại tồn tâm tồn ý rời bỏ
thơ trữ tình để đến với thơ Hai-kư. Đó là vào đầu năm 2006, khi cháu tôi ở Pháp
về mang theo tập tài tài liệu. Ngay lần đầu tiếp xúc tôi đã ấn tượng với phong cách
thể hiện của thể thơ này. Vừa ngắn gọn và vừa giúp người viết nói được nhiều ý tứ
của mình trong đó. Thế là tôi bắt đầu dịch, chọn trong số 5.000 tác phẩm và tơi
dịch liền trong vịng một năm thì xong. Cứ thế, rồi sau đó cịn dịch thêm một số
nhưng tác phẩm Hai-kư do câu lạc bộ Hai-kư Việt tuyển chọn.
Ông có đúc kết điều gì cho thế hệ trẻ?
Nghệ thuật ln địi hỏi sự sáng tạo liên tục. Vì chỉ có sự sáng tạo mình mới tiến
bộ và khơng lặp lại bất kì khn mẫu nào. Nhưng để có thể trở thành cá thể riêng
biệt trong cái bể nước lớn mênh mơng ấy, bạn nên biết mình là ai, mình đang cần
gì và đang đi tìm cái gì.
Như tơi cũng vậy, trước khi đến với thơ trữ tình tơi đã có thời gian hành nghề y,
rồi trước khi đến với thơ Hai-kư Việt tơi đã có những ngày trải nghiệm với thơ trữ
tình. Cịn bây giờ, khi đã theo đuổi Hai-kư tơi cũng khơng biết mình sẽ đi tiếp tục
con đường mới như thế nào. Khơng ai có thể đốn định được, nhưng có một điều
chắc chắn rằng tơi đang sống những ngày trong không gian Hai-kư, đã chọn Haikư và giờ thì đang tu mình trong Hai-kư Việt.
Xin chân thành cảm ơn ơng về cuộc trị chuyện thú vị này!
Hồ Phương Phúc - Nguyên Xuân Hoàng
Lớp Báo in K.29A1- Báo in K.29 A2
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Hai-kư: (tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ
ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào
phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi tắt là haikai (俳諧 bài hài).
Đây có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku, mặc dù đơi khi ta vẫn
thấy có những hình thức khác, nhưng thường chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu
5+7+5.